Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Hai loại kinh điển & sự hình thành học thuyết nhị đế

10 Tháng Năm 201509:27(Xem: 6843)
Hai loại kinh điển & sự hình thành học thuyết nhị đế

HAI LOẠI KINH ĐIỂN &

SỰ HÌNH THÀNH HỌC THUYẾT NHỊ ĐẾ


Thích Vạn Năng

 

Nhị đếtục đếchân đế, còn gọi là chân lý tương đốichân lý tuyệt đối hay chân lý thế gianchân lý xuất thế gian. Từ ngữ Pāli chỉ cho hai loại chân lý này là paramattha-sacca và sammuti-sacca; Sanskrit là samvti-satya và paramārtha-satya. Sammuti (samvṛti) là chỉ cho sự quy ước, đồng thuận, tương đối ở đời; và Paramattha (paramārtha) là rốt ráo, cao tột, tối thượngSacca (satya) là chỉ cho chân lý, sự thật, hay thực tại.

Học thuyết nhị đế tuy là một trong những phát triển quan trọng của tư tưởng Phật giáo Đại thừa, mục đích của việc phát triển học thuyết này là giúp tìm hiểu thông điệp trong lời dạy của Đức Phật và để nhận ra bản chất đích thực của sự vật qua hai hình thái quy ướcrốt ráo. Duyên khởi của học thuyết này có lẽ xuất phát từ tuyên bố của ngài Long Thọ trong tác phẩm Trung luận của ngài rằng: “Chư Phật nói Pháp là y cứ trên hai đế, tục đếchân đế. Những ai không hiểu sự khác nhau của hai đế này sẽ không hiểu được giáo pháp cao siêu trong kinh Phật nói.” (MMK, 24:8-10) Mặc dù học thuyết này đã được phát triển lên đến tột đỉnh và trở nên khá phức tạp trong hệ thống giáo lý Trung quán, tuy nhiên nó có những tư tưởng khởi thủy trong kinh điển nguyên thủy như là Nikāya và A-hàm.

Trong Tăng chi bộ kinh có một đoạn kinh văn đề cập về sự khác nhau của hai loại kinh. Trong đó, Đức Phật nói về sự khác nhau của hai loại kinh hay hai loại giáo pháp được thể hiện qua hình thức là có hai hạng người hiểu sai giáo pháp của Phật, và chính cái tư tưởng này có lẽ đã được triển khai và phát triển thành hai loại chân lý còn gọi là nhị đế. Đoạn kinh như sau:

"Hai hạng người này, này các Tỷ-kheo, xuyên tạc Như Lai. Thế nào là hai? Người nêu rõ kinh cần phải giải nghĩa là kinh đã được giải nghĩa, và người nêu rõ kinh đã được giải nghĩa là kinh cần phải giải nghĩa. Hai hạng người này, này các Tỷ-kheo, xuyên tạc Như Lai.

Hai hạng người này, này các Tỷ-kheo, không xuyên tạc Như Lai. Thế nào là hai? Người nêu rõ kinh cần phải giải nghĩa là kinh cần phải giải nghĩa, và người nêu rõ kinh đã được giải nghĩa là kinh đã được giải nghĩa. Hai hạng người này, này các Tỷ-kheo, không xuyên tạc Như Lai".

(Tăng chi bộ kinh, chương Hai pháp, phẩm Người ngu. Hòa thượng Minh Châu dịch)

Nguyên từ Pāli của hai loại kinh này là nītattha-sutta và neyy­attha-sutta; và Sanskrit là nītārtha-sūtra và neyārtha-sūtra.1 Hai loại này cho thấy chỉ xuất hiện một lần trong Kinh tạng Nikāya và được mô tả như là loại giáo pháp khác nhau. Không thấy có sự xuất hiện nào nữa trong hệ thống kinh điển nguyên thủy, và quan trọng hơn là cách thức để phân biệt sự khác nhau giữa hai loại kinh này. Do đó, sự giải thích chỉ được tìm thấy trong các bản chú giải sau này thuộc hai hệ Nam truyền và Bắc truyền. Các nhà chú giải đã phân biệt hai loại kinh này như là giáo lý mô tả về hai loại sự thật hay thực tạiáp dụng chúng thành học thuyết nhị đế. Tuy nhiên giải thích này đã gây ra những tranh cãi trong số các học giả hiện đại xung quanh việc thiết lập học thuyết này như là có thực sự xuất phát từ hai loại kinh đó hay không. Do đó, trong phạm vi bài nghiên cứu này, tác giả sẽ cố gắng tìm hiểu xem có phải hai loại kinh điển này là mầm mống cho học thuyết nhị đế.

Trước tiên tác giả sẽ giải thích ý nghĩa của hai loại kinh này rồi tìm kiếm sự kết nối của chúng với tư tưởng nhị đế. Kế đến là phân tích sự phát triển từ hai loại kinh đó với học thuyết nhị đế xem có phải là một phát triển hợp lý từ những gì được tìm thấy trong kinh điển hay không; và cuối cùng sẽ tìm kiếm một sự tương thích trong việc thiết lập học thuyết nhị đế về sau.

Nghĩa của kinh liễu nghĩabất liễu nghĩa

Các từ điển Phật học Pāli giải thích liễu nghĩa (nītattha) là nghĩa đã suy ra hay nghĩa đã xác định (nīta + attha); bất liễu nghĩa (neyyattha) là nghĩa cần được suy ra hay nghĩa cần được xác định (neyy­a + attha). Hai từ này cấu thành hai loại kinh gọi là liễu nghĩabất liễu nghĩa. Do đó, kinh liễu nghĩa là kinh có nghĩa đã được suy ra, đã rõ ràng; còn kinh bất liễu nghĩa là kinh có nghĩa chưa được suy ra hay ý nghĩa chưa rõ ràng. Chúng còn được gọi là kinh có nghĩa trực tiếp và kinh có nghĩa gián tiếp.  

Bản chú giải của Tăng chi bộ kinh giải thích rằng, kinh điển liễu nghĩa là kinh nói về tính chất vô thường vô ngã của sự vật hiện tượng, xác định rằng không có một thực thể hay cá nhân nào trong đó theo ý nghĩa rốt ráo. Ý nghĩa này do đó đã rõ ràng và không cần phải giải thích (nītattha). Còn kinh điển bất liễu nghĩa thì nói rằng có những cá thể hay là con người trong đó. Nghĩa này thường bị dẫn sai và dễ bị nhận lầm rằng có một cái ngã thường hằng trong đó. Tuy nhiên, sự thật là không có một sự vật nào như thế hiện hữu trong đó cả theo ý nghĩa rốt ráo, do đó mà cần phải giải thích (neyyattha).

Đoạn chú giải của Tăng chi bộ kinh nói như sau:

Một kinh có hình thức như “có một người, này các Tỷ-kheo”, “có hai người, này các Tỷ-kheo”, “có ba người, này các Tỷ-kheo” v.v... là một kinh có ý nghĩa gián tiếp. Mặc dù ở đây Bậc chánh đẳng giác có nói về “có một người, này các Tỷ-kheo” v.v... thì ý nghĩa của nó cần phải được suy ra vì không có một người nào trong ý nghĩa rốt ráo cả. Nhưng một người vì vô minh có thể lấy điều này cho là một kinh có ý nghĩa trực tiếp và rồi tranh cãi rằng Như Lai sẽ không nói rằng “có một người, này các Tỷ-kheo”, v.v... trừ khi là có một người hiện hữu theo ý nghĩa rốt ráo. Chấp nhận thực tế đó vì Như Lai đã nói như thế nên chắc hẳn là có một người theo ý nghĩa rốt ráo, thì người đó đã trình bày một kinh có ý nghĩa gián tiếp như là kinh có ý nghĩa trực tiếp. Chúng ta nên nói về một kinh có ý nghĩa trực tiếp theo cách như “đây là vô thường, là khổ và vô ngã”. Ở đây ý nghĩa đó là, những gì là thường hằng thì đồng thời là khổ và vô ngã. Nhưng vì vô minh, người đó đã lấy điều này cho là kinh có ý nghĩa gián tiếp rồi suy luận ý nghĩa của nó bằng cách nói rằng, “có cái gì đó là thường hằng, an lạc và là ngã” và như vậy là trình bày một kinh có ý nghĩa trực tiếp thành một kinh có ý nghĩa gián tiếp.2

Các nhà chú giải Nikāya cho rằng, trong lời dạy của Phật thường thấy xuất hiện những sự hữu, hay các đối thể mà có thể liên hệ trực tiếp đến con người hay sự vật với những hoạt động thường hằng của chúng. Điều này như thể là có sự hiện hữu của những thực thể như là ngã trong họ và họ nói rằng Đức Phật đã sử dụng lời nói chỉ mang tính quy ước. Tuy nhiên, khi Đức Phật nói về tính chất vô thường của sự vật, khổ đau và vô ngã v.v... thì họ giải thích rằng Đức Phật đang sử dụng quan điểm rốt ráo, bởi vì điều đó là đúng sự thật với cách nhìn rốt ráo. Hai quan điểm này còn được xem là hai cách diễn đạt trong lời nói của Phật mà Ngài thường xuyên sử dụng để giảng dạy cho chúng sanh.

Bản kinh Vô Tận Ý Bồ-tát (Akayamati-sūtra) thuộc hệ Đại thừa cũng giải thích tương tự như sau: 

"Thế nào là kinh liễu nghĩa và thế nào là kinh bất liễu nghĩa? Những kinh nào giảng dạy và xác lập điều thế tục là những kinh bất liễu nghĩa. Những kinh nào giảng dạy và xác lập điều cao tột là những kinh liễu nghĩa. Những kinh nào giảng dạy qua cách thức của nhiều ngôn từ khác nhau là kinh bất liễu nghĩa. Những kinh văn nào giảng dạy những điều thâm sâu, khó thấy, khó hiểu là kinh liễu nghĩa".3

Tuy nhiên, làm thế nào để phân biệt loại kinh nào thuộc về thế tụcbất liễu nghĩa và kinh nào thuộc về rốt ráophù hợp với liễu nghĩa? Điều này cũng được nói rõ trong kinh Vô Tận Ý Bồ-tát như sau: 

"Những kinh nào giảng dạy như thể có một chủ nhân ở nơi không hề có nó, thiết lập theo đó nhiều thể loại khác nhau như là ngã, chúng sanh, linh hồn, người nuôi dưỡng, người, cá nhân, nhân loại, con người, nhân thể, người trải nghiệm, là bất liễu nghĩa. Những kinh nào giảng dạy về các cửa ngõ giải thoát, còn gọi là không, vô thể, vô nguyện, không tạo tác, không tái sanh, không sinh khởi, không có hữu tình, không có linh hồn, không có nhân thể, và không có chủ nhân, thì gọi là liễu nghĩa".4

Đoạn kinh này chỉ ra rằng, kinh liễu nghĩa là kinh giảng về vô ngã, không sinh khởi, v.v., qua việc loại trừ các suy diễn (hý luận), trong khi đó kinh bất liễu nghĩa vốn dạy về các pháp với ngã, ngã sở v.v., với tính cách ước lệ. Bản kinh này sau đó đã trở thành giáo lý trọng yếu của trường phái Trung quán và chỉ ra yếu tố khác biệt trong nội dung học thuyết như sau: những kinh nào thảo luận về bản thể rốt ráo của hiện tượngliễu nghĩa và những kinh khác là bất liễu nghĩa. Bản thể rốt ráo của tất cả hiện tượng ở đây là tánh không của chúng về hiện hữu tự thân.

Ngài Nguyệt Xứng trong Trung quán minh cú thì nói rằng kinh bất liễu nghĩa là kinh chỉ dạy cho mọi người nói chung với mục đích là dẫn dắt họ vào đạo, và kinh liễu nghĩa là kinh dành cho những người đã khai mở. Nguyệt Xứng đã dẫn kinh Vô Tận Ý Bồ-tát nói rằng:

"Thế nào là kinh dành cho mọi người nói chung và thế nào là kinh dành cho những người đã khai mở? Những kinh giảng dạy với mục đích đi vào đạo là những kinh dành cho mọi người nói chung; những kinh giảng dạy với mục đích đạt được mục tiêu tối hậu là kinh dành cho những người đã khai mở. Bất cứ kinh nào đề cập chủ yếu đến giải thoát được mô tả bằng sự vắng mặt của hữu trong tất cả các sự vật, bằng sự vắng mặt của các sự thể bên ngoài và các ngã kiến, của hành động có chủ ý, của sinh, sinh khởi, sự vật hiện hữu, bản thể tự thân, bằng sự vắng mặt của các hữu tình riêng biệt, của linh hồn, của người, và của ngã - những kinh đó là dành cho những người đã khai mở. Này Xá Lợi Phất, điều này được gọi là sự mổ xẻ kinh điển dành cho những người đã khai mở, không phải cho mọi người nói chung".5

Ngài Nguyệt Xứng cũng xác định rằng, ngài Long Thọ trước tác Trung luận cũng với mục đích xác lập sự khác nhau của hai loại kinh này. Do đó, trong Acintyastava (Bất khả tư nghì, kệ 56-57), ngài Long Thọ đã nói như sau:

"Món quà Pháp mà Thế Tôn đã tuyên thuyết là món lương dược vi diệu trong giáo pháp của Phật. Nghĩa rốt ráo đã chỉ bày, đó là, tất các pháp là không. Tuy nhiên, giáo pháp về sinh, diệt v.v..., chúng sanh, linh hồn, v.v..., chỉ có ý nghĩa tạm thời. Thế Tôn, Đấng Cứu thoát gọi đó là thế tục".6

Chánh định vương kinh (Samādhirāja-sūtra) thì nói rằng:

"Hãy hiểu rằng, kinh có ý nghĩa rốt ráo là những kinh giảng dạy phù hợp với tánh không của sự vật hiện tượng đã được Thế Tôn phân biệt. Hãy hiểu rằng, kinh có ý nghĩa tạm thời là những kinh mà Đức Thế Tôn giảng nói về một con người, một cá nhân, hay một ngã thể".7

Như vậy, kinh liễu nghĩa là kinh giảng dạy về tính chất vô thường, vô ngã, tánh không, v.v... qua việc loại trừ các kiến chấp; trong khi đó, kinh bất liễu nghĩa là kinh giảng dạy về con người, về ngã, về chúng sanh, về sinh khởi. Do đó, khi hiểu vô ngã, không sinh khởi, v.v... là ý nghĩa rốt ráo, cao tột; khi hiểu rằng có ngã, có sinh khởi, v.v... là nói về ý nghĩa ước lệ, tạm thời.

Mối liên hệ giữa nhị kinh và nhị đế

Như đã đề cập, các chú giải đã phân biệt kinh liễu nghĩa với lời dạy rốt ráo và kinh bất liễu nghĩa với lời nói thông thường. Ở đây, cần chú ý đến giải thích của các nhà Phật giáo nguyên thủy như sau:

“'Một người' liên hệ đến lối nói mang tính quy ước, không phải là rốt ráo. Hai phương diện chính là giáo pháp của Phật, tức là giáo pháp mang tính quy ướcgiáo pháp cao tột. Ở đây lối nói mà liên hệ đến một người, một hữu tình v.v... xác lập nên giáo pháp mang tính quy ước. Lối nói mà liên hệ đến vô thường, khổ và vô ngã cấu thành giáo lý cao tột".8

Trong khi các nhà chú giải phân biệt kinh liễu nghĩa với lời dạy rốt ráobất liễu nghĩa với lối nói thông thường, họ tìm kiếm để xác lập một sự tương quan giữa đoạn kinh văn gốc với ý nghĩa của nhị đế. Do vậy, ngài Buddhaghosa (Phật Âm), nhà đại chú giải kinh điển Pāli đã nói trong một số bản chú giải rằng nhị đế đã được chính Đức Phật thuyết giảng:

"Đấng vô thượng giác, vị Thầy cao nhất trong các vị Thầy, đã nói về nhị đế, tức là tục đếchân đế, không có đế thứ ba. Lời nói mang tính quy ước là thật vì đó là quy ước ở đời, và lời nói rốt ráo là thật, vì như đã cho thấy, đó là đặc tính chân thật của tất cả sự vật".9

Đoạn chú giải trên đề cập về sự khác nhau giữa hai đế, trong khi đó thì đoạn kinh gốc cho thấy đó chỉ là hai cách nói, không phải là hai đế. Do đó, để phân biệt một học thuyết nhị đế từ cách nói ban đầu là nói về sự khác biệt giữa các kinh đến cách khi nói về thế giới khách quan là điều cần phải chú ý, mặc dù đó là kết quả của những phương pháp luận của các nhà Thắng Pháp mà từ đó họ đã đưa ra một liệt kê về các pháp được thảo luận trong lời dạy của Phật. Để hiểu được mối liên hệ này, các chú giải đã diễn giải như sau:

"Lời nói liên hệ đến sự vật mang tính quy ước là đúng sự thật vì chúng căn cứ trên sự đồng thuận của hết thảy mọi người; lời nói liên hệ đến thể loại rốt ráochân thật vì chúng dựa trên bản chất chân thật của sự hiện hữu".10

Thật vậy, sự vật dựa trên nhận thức chung là cụ thể, chân thật và có giá trị, do đó chúng là đối thể của tri thức, là chân lý ở đời. Chẳng hạn, một cái bàn hay một con người hiện diện là thật, không sai. Đó là chân lý quy ước. Quy ước cần sự sử dụng những danh từ như ‘tôi’, ‘ngã’, ‘sự vật’, v.v... để giao tiếp, miễn là chúng không làm sai lệch bởi nhận thức rằng có một thực thể thường hằng hiện hữu tương ứng với chúng. Vì thế mà chúng ta không nói rằng năm uẩn ăn, năm uẩn đi lại v.v... Ngược lại, những thể loại dựa trên bản thể chân thật của sự vật là chân thật rốt ráo là qua sự phân tích rốt ráo. Chúng bao gồm sự vô thường, khổ, và vô ngã, uẩn, xứ, giới v.v... Chúng là sự thật trong bản chất thật tại khách quan.11

Do kiến giải này, hãy thử tìm hiểu xem con người là gì. Từ quan điểm rốt ráo, rằng, một người chỉ là một tiến trình của các hiện tượng tâm lý-vật lý, và không có một thực thể nào được gọi là ngã, tức là, một hữu thể bất biến. Để rõ hơn, chúng ta hãy lấy ví dụ về một cái thùng gỗ. Cái gì gọi là một cái thùng gỗ? Đó là một số mảnh gỗ ghép lại, xếp đặt trong một trật tự riêng biệt để tạo thành một hình thể nào đó phù hợp với cái gọi là một cái thùng gỗ. Rồi giả sử cái thùng gỗ đó được tháo gỡ ra với những bộ phận riêng lẻ rồi làm thành một cái ghế, nó không còn được gọi là cái thùng gỗ nữa, dù cho các bộ phận của nó vẫn y như vậy, nhưng hình dáng thì đã thay đổi, do đó tên gọi của nó cũng thay đổi. Trong trường hợp đó, nếu ai đó nhắm đến cái ghế và gọi nó là cái thùng gỗ bất chấp quy ước chung của mọi người, họ sẽ cho người đó là nói láo. Do đó, nếu chúng ta không làm theo hoặc là phản đối cách nói của mọi người thì điều đó được cho là nói sai sự thật.

Ngoài ra, các bản chú giải còn nhấn mạnh rằng, dù cho Đức Phật giảng dạy theo cách thức ở đời hay là rốt ráo thì chư Phật vẫn luôn nói lên sự thật, không sai. Chân lýtừ ngữ rất thông dụng trong kinh điển nguyên thủy để chỉ cho chân lý, sự thật. Nó liên hệ đến cái gì đó không sai theo cách nói thông thường. Nó chỉ cho những gì đã diễn ra, phù hợp với ý nghĩa mà nó bày tỏ và thật tế mà chúng liên hệ. Do đó chúng cho phép chúng ta phán đoán một lời nói là không sai và đúng sự thật.

Như vậy, giáo lý mà chư Phật nói có liên hệ mật thiết với chân lý. Do vì sammuti liên hệ đến tính quy ước hay đồng thuận ở đời, nên sammuti-sacca có nghĩa là chân lý mang tính quy ước hay đồng thuận chung. Paramattha liên hệ đến tính chất rốt ráo hay lời nói rốt ráo nên paramattha-sacca là chân lý dựa trên tri kiến rốt ráo. Thật sự là có hai sự thật như vậy trong lời dạy của Phật, một là những sự vật là những đối thể hiện hữu ở đời, và những “sự vật” có thể được hiểu là chân đế.

Theo tương quan này, hai loại kinh điển được mở rộng theo cách thức như sau:

Kinh bất liễu nghĩa ® Giáo lý quy ước (ngã, nhân, chúng sanh, thượng đế, sự vật, v.v...) ® Tục đế

Kinh liễu nghĩa ® Giáo lý cao tột (vô thường, khổ, vô ngã, Niết-bàn, v.v...) ® Chân đế.

Tuy nhiên, nếu chỉ cho rằng học thuyết nhị đế là căn cứ trên hai loại kinh này để phát triển thì e là chưa thực sự bao quát và chính xác. Cần phải thấy rằng tất cả nền giáo lý và lời dạy của Phật đều không nằm ngoài ý nghĩa của hai loại kinh này. 

Trong kinh Đức Phật cũng không sử dụng một hình thứcthế gian, là quy ước để tiếp xúc với một hạng người. Ngài cũng không sử dụng một ngôn ngữ riêng biệt để tiếp xúc với hạng cao hơn, mà chính là Đức Phật sử dụng cả hai để tiếp xúc với mục đích là nói cái rốt ráo và cao tột. Dĩ nhiênphương pháp của Ngài hoàn toàn mang tính cách giáo dục, tức là cách tiếp cận từng đối tượng thính chúng với các giáo pháp khác nhau, nhưng không có nghĩa là có hai loại giáo pháp như thể riêng biệt như nhiều người tưởng, bởi vì trong lời nói của Ngài rõ ràng là chứa đựng nhiều quy ước ở đời, nếu không có những quy ước đó thì giáo pháp cũng không thể nói lên được. 

Nhưng rồi chính những lời nói này mới chuyển tải cái ý chân thậtĐức Phật muốn nói. Điều này mới có thể làm cho chúng sanh hiểu rõ các pháp, tu tập đúng đắn để được giải thoát giác ngộ. Nếu chỉ dùng lời nói chỉ mang ý nghĩa thế gian thì không thể khiến cho chúng sanh hiểu rõ các pháp được. Điều này rõ ràngphù hợp với lời nói rằng, trong kinh cũng tồn tại cả hai loại giáo pháp chứ không chỉ Abhidhamma mới nói. Các nhà Abhidhamma nói rằng, kinh tiếp cận với các quy ước ở đời và Abhidhamma mới nói pháp chân thật là điều cần phải điều chỉnh.

Từ nhị kinh đến nhị đế

Từ nhị kinh đến nhị đế là một quá trình phát triển lâu dài nhưng hợp lý. Tất cả những gì Phật nói chỉ là vấn đề căn bản. Có cái Phật nói là rõ ràng nhưng có cái chưa rõ ràng. Nhu cầu cần phải giải thích là điều không thể thiếu và kết quả là đã có vô số những giải thích và tạo ra những khác biệt từ đó. Có thể nói rằng, điều đó có thể là không tốt khi nhìn từ một phía nhưng ở khía cạnh khác là rất cần thiết. Tuy nhiên dù sao thì vấn đề chú giải là không thể tránh khỏi, do đó không thể coi đó là xấu được.

Trong giai đoạn đầu của văn học Phật giáo, nhị kinh chưa được phân biệt thành nhị đế, chính xác hơn đó chỉ là một sự phân biệt giữa hai loại giáo thuyết, tục và chân. Sự phân biệt này sau đó được gọi là giáo lý thông thường và giáo lý cao tột, hay còn gọi là thông thường và rốt ráo. Đây là vấn đề rất quan trọng vì chúng cho phép chúng ta tiếp cận được với các tầng mức khác nhau của giáo pháp.

Giáo lý thông thường là giáo lý dựa vào những khái niệm và ngôn từ thông thường, và giáo lý này được xếp vào loại kinh điển gọi là bất liễu nghĩa; còn giáo lý cao tột thì liên hệ đến lời dạy dựa trên quan điểm rốt ráo và được gọi là kinh điển liễu nghĩa. Đức Phật đã sử dụng cả hai dạng thức này để thích ứng căn cơ của chúng sanh. Một loại là thích hợp với những người mà căn cơ của họ chỉ ở một tầng mức nào đó trên đường đạo, và loại kia thích ứng với những người có khả năng thấu hiểu được giáo pháp cao tột. Tri thức này không chỉ giới hạn đối với kinh thuộcTăng chi bộ, mà là xuyên suốt tất cả các kinh điển trong Kinh tạng, và tư tưởng này đã trở thành một nguyên tắc cốt yếu trong sự phân chia giáo pháp của Phật. Chẳng hạn, khái niệm về thế và siêu thế, thông thường và cao tột, tương đốituyệt đối, v.v... được sử dụng xuyên suốt trong kinh điển. Giáo pháp của Phật tự thân là một chuỗi các học thuyết khác nhau được thiết lập để nhận biết các cấp độ khác nhau của thực tại. Về sau, các trường phái Phật học đã nỗ lực mô tả các thánh đạo này.

Trường phái Thượng Tọa Bộ đã phát triển học thuyết nhị đế dựa trên lý thuyết về Pháp. Lý thuyết này cho rằng lời nói hàng ngày của Phật là giáo lý quy ước; trong khi đó, giáo pháp liên hệ đến giải thoátgiáo lý cao tột. Lời nói hàng ngày là lời nói phổ biến, là các sử dụng thông thường mà mọi người đều công nhận; trong khi đó giáo pháp cao tột là những thể loại mang tính chuyên môn, vô ngã tính và là rốt ráo nhằm để phơi bày bản thể chân thật của sự vật hiện tượng. Chẳng hạn, khi nói về một cái bàn, nó là quy ước, không phải rốt ráo, nhưng khi liên hệ đến các đặc tính, chức năng cấu thành nên một cái bàn nguyên vẹn, thì đó là rốt ráo. Ở đây họ cũng cho rằng, trong kinh những danh từ như chúng sanh, con người, nam, nữ, ngã, v.v... được dùng; ngược lại, trong Luận tạng thì những từ ngữ như 5 uẩn, 12 xứ, 18 giới thường được sử dụng. Chúng là thật và hiện hữu trong và quanh ta. Tuy nhiên, không có một thực thể nào hiện hữu thường hằng trong chúng cả; không có “người”, “cá nhân”, hay “tôi” trong thực tại mà chỉ có uẩn cấu thành nên con người. Các nhà Thượng Tọa Bộ tin rằng thế giới chẳng qua chỉ là một dòng chảy tương tục không gián đoạn của các pháp là vô thường, thoáng qua, và vô ngã thể.

Nhị đế như được phát triển trong Abhidhamma cũng chỉ là sự mở rộng từ kết quả phân tích Phật học nguyên thủy về các hiện hữu thông thường thành uẩnxứ, và giới. Theo sự phân tích này, paramattha là kết quả của những gì được phân tích (pariccheda), và sammuti là những gì sẽ được phân tích hoặc chịu sự phân tích.12 Truyền thốngAbhidhamma thường phân chia con người thành 5 uẩn, và nó luôn được tin rằng không có bất kỳ một con người nào hiện hữu độc lập trong đó. Con người được cấu thành dựa trên một chuỗi các uẩn luôn thay đổi này. Trong phân tích này, rõ ràng có 2 trường hợp là, giữa những gì xuất hiện là thật và những gì mới thực sự là chân thật. Đây chính là sự khác biệt của nhị đế trong Abhidhamma. Thực sự, tục đếthế giới nơi chúng ta sống, và chân đếyếu tố cấu thành thế giới kinh nghiệm của chúng ta, cái không bị phân chia và được gọi là Pháp.13

Sự phát triển từ nhị kinh đến nhị đế thực sự là một tiến trình dần dầnlâu dài. Mặc dù vậy nó xứng đáng với một sự tiến triểnmở rộng hợp lý từ những gì được tìm thấy trong kinh điển. Trong nhiều kinh, Đức Phật lặp lại nhiều lần rằng, “Chúng chỉ là danh tự, sự bày tỏ, lời nói, định danh trong cách sử dụng chung ở đời, điều mà Đức Thế Tôn đã sử dụng mà không có chấp trước chúng”14. Hoặc, ở chỗ khác, Đức Phật lưu ý rằng: “Chỉ y như danh từ ‘chiếc xe ngựa’ được nói đến khi các bộ phận của nó ghép lại với nhau trong một trật tự nào đó”15; hay như, sẽ có danh từ “chúng sanh” khi một chỉnh thể về tâm lý-vật lý” hiện diện trong kinh Na Tiên Tỳ-kheo (Milindapañha). 

Kinh Na Tiên dường như đã lấy tư tưởng này làm nguồn tham khảo khi giải thích về vấn đề nhận biếtvô ngã trong sự khác biệt giữa hai mức độ của thực tại.  Ở đó giải thích rằng, khi các bộ phận cấu thành như bánh xe, khung xe, trục xe, v.v... được sắp đặt theo trật tự nào đó thì có danh từ chung là chiếc xe. Tuy nhiên, theo ý nghĩa rốt ráo, khi mỗi phần được đem ra phân tích thì chiếc xe sẽ không còn nữa. Một con người cũng giống như vậy. Khi có sự hiện diện của năm uẩn, là đối thể của chấp thủ, thì có sự xuất hiện của danh từ trong sự sử dụng chung là “một chúng sanh”, “một người”. Tuy nhiên, trong ý nghĩa rốt ráo, khi mỗi thành phần được đem ra kiểm chứng thì không có một chúng sanh nào hiện diện trong đó như là căn bản cho giả thuyết “cái tôi” và “của tôi”.16

Những thuật ngữ như “người”, “cá nhân”, “chúng sanh”, v.v... là những định danh trong cách sử dụng chung và trở nên thông dụng trong lời dạy của Phật. Các danh từ giả định này được đặt tên cho một dãy các yếu tố tâm lý vật lý sinh khởi một cách liên thuộc, và chúng được chỉ định như là các pháp giả danh vì chúng chỉ là danh tự đơn thuần, không thật có.

Khái niệm về giả danh (paññatti) trong Theravāda là thứ rất quan trọng vì nó liên hệ đến cả hai loại rốt ráo và thông thường, tục đếchân đếPaññatti có nghĩa rộng hơn cả sammuti. Trong mối liên hệ với paramatthapaññattikhông thể phân biệt với paramattha, vì paññatti bao gồm cả paramattha.17  

Các nhà chú giải của Theravāda, trước hết, quy cho paññatti với tất cả những nội dung của sammuti, và rồi nói rằng, “điều chân thật rốt ráo được thể hiện hay biểu đạt mà không vượt ra khỏi phạm vi của paññatti” (paññattim anatikkamma paramattho pakāsito).18 Từ ngữ paññatti có nghĩa là ‘cho biết’ (ācikkhati), ‘giảng nói’ (deseti), ‘tuyên bố’ (paññāpeti), ‘thiết lập’ (paṭṭhāpeti),...19 Vì thế, nhiều nghĩa khác nhau như ‘đồng thuận’, ‘quan điểm chung’, ‘duy danh’, ‘cố định’, ‘lời nói’, ‘tuyên bố’, và ‘quy ước’ có thể được rút ra từ nghĩa gốc của từ paññatti.20 Cái tương đối này là hình thức của sự giới hạn, thế nhưng cái rốt ráo lấy hình thức này để tự biểu đạt bằng cách thông qua hình thức giới hạn đó. Với thực tế này, các nhà Trung quán đã nói rằng, “nếu không y tục đế, chân đế không thể diễn bày” (vyavahāram anāśrtya paramārtho na deśyate).21

Ngài Nguyệt Xứng khẳng định rằng Long Thọ trước tác Trung luận không nằm ngoài mục đích thiết lập sự khác nhau giữa kinh điển liễu nghĩa và kinh bất liễu nghĩa.22 Mặc dù Long Thọ đã thiết lập lý thuyết nhị đế dựa trên sự khác biệt đó, song ngài cũng tuyên bố rằng, dù cho rốt ráo hay phương tiện, chân đế hay tục đế, thì tất cả lời dạy của Phật chỉ có một mục đích duy nhất là làm cho tất cả chúng sanh từ bỏ vô minh, vượt qua chấp thủ, và giải thoát khỏi khổ đau. Điều này thực sự được khẳng định trong Đại trí độ luận rằng, “Trong kinh Đức Phật dạy rằng tất cả các ngõ đường dẫn đến Niết-bàn chỉ có một hướng, và đều không có sự sai biệt.”23

Ngài Nguyệt Xứng, một trong những nhân vật quan trọng nhất trong lịch sử tư tưởng Trung quán, đã lặp lại trong tác phẩm Nhập Trung luận và trong Nhập Trung luận thích của mình rằng, “Đức Phật dạy rằng tất cả các sự vật đều có hai đặc tính - rốt ráo và thông thường - được nhìn thấy bởi những người nắm chắc về thực tại và sự sai lạc.”24 Điều này tồn tại hai đặc tính được đan xen vào nhau trong cái khung của hiện tượng giới, hoặc là nhị đế thiết lập trong cùng một hiện tượng giới. Vì thế, câu hỏi về nhị đế thì cũng giống như câu hỏi về hai bản chất của thế giới hiện tượng.25

Chính vì lẽ đó mà tất cả các chú giải của Trung quán đều xem nhị đếý nghĩa sống còn đối với trường phái này. Một số chú giải thậm chí còn đi xa hơn trong việc mở đầu bằng chính sự khác biệt này. Do đó, đối với ngài Long Thọ, nếu không hiểu sự khác nhau của nhị đế thì không thể hiểu được ý nghĩa sâu xa trong kinh Phật nói.

Kết luận

Từ những thảo luận trên cho thấy rằng, có một tuyên bố rất rõ ràng về sự khác nhau của hai loại kinh trong Kinh tạng, và chính sự khác biệt này đã được phân biệt thành nhị đế. Trước tiên, hai loại kinh điển đã được phân biệt thành hai loại giáo pháp thông thường và giáo pháp cao tột, rồi những giáo pháp này được xác định vừa là giáo pháp, vừa là chân lý

Tuy nhiên, những gì được tìm thấy như vậy chỉ thấy xuất hiện trong các bản chú giải về sau. Tóm lại, các chú giải đã nỗ lực để giải thích sự khác nhau giữa hai loại kinh như là hai cách thức khác nhau để trình bày giáo pháp của Phật, hoặc là hai cách khác nhau trong việc trình bày về thực tại. Chính từ sự khác biệt này mà nhị đế đã được phát triển trong kinh văn thuộc hai hệ thống ngôn ngữ Pāli và Sanskrit. 

Thứ hai, như đã cho thấy, có nhiều cách khác nhau trong việc giải thích nhị đế, nhưng việc giải thích nhị đế thông qua sự khác nhau giữa hai loại kinh là một trong những cách thức như vậy. Tất cả các kinh Phật nói đều được cho là dựa trên sự khác nhau đó. Một mặt, học thuyết nhị đế là một sự phát triển tương đối trễ về sau này trong sự tiến triển dần dần của học thuyết, tuy nhiên đó là một sự mở rộng hợp lý từ những gì được tìm thấy trong Kinh tạng

Thật vậy, nếu nó không được làm rõ trong kinh thì việc vẽ ra ý định này là một việc hoàn toàn cần thiết. Mặt khác, khi Đức Phật diễn giải sự vật theo nhiều cách thức khác nhau, thì điều đó là rất rõ ràng. Đức Phật chưa bao giờ cho rằng tư tưởng nhị đế là cái gì đó không quan trọng, và khi học thuyết nhị đế được đưa ra, nó được sử dụng như là một sự mô tả bổ sung đối với kinh điển, đúng hơn là một sự giải thích

Thích Vạn Năng


Tài liệu gốc và viết tắt

A: (Aṅguttara-nikāya): Kinh Tăng chi bộ.

AA: (Aṅguttara-nikāya Aṭṭhakathā): Chú giải kinh Tăng chi bộ.

D: (Dīgha Nikāya): Kinh Trường bộ.

DA: (Dīgha Nikāya Aṭṭhakathā): Chú giải kinh Trường bộ.

Kvu: (Kathāvatthu): Luận sự.

KvuA: (Kathāvatthu-aṭṭhakathā): Chú giải Luận sự.

M: (Majjhima-nikāya): Kinh Trung bộ.

MA: (Majjhima-nikāya Aṭṭhakathā): Chú giải kinh Trung bộ.

Mil: (Milindapañha): Kinh Na-tiên Tỳ-kheo.

S: (Saṃyutta Nikāya): Kinh Tương ưng bộ.

SA: (Saṃyutta-nikāya Aṭṭhakathā): Chú giải Tương ưng bộ.                                           

SS: (Saccasaṃkhepa): Đế pháp yếu lược.

MMK: (Madhyamaka-śāstra): Trung quán luận.

MMV: (Madhyamakāvatāra): Nhập Trung luận.

PP: (Prasannapadā): Trung quán minh cú.

T: Taishō Edition of Chinese Tripiṭaka (大正新脩大藏經) Đại chánh tân tu Đại tạng kinh.

(1) Các thuật ngữ Sanskrit được tìm thấy trong các tác phẩm: Abhidharmakośa, Bodhisattvabhūmi.Franklin Edgerton, Buddhist Hybrid Sanskrit Grammar and Dictionary, Delhi: Munshiram Manoharlal, 2004, vol. II, tr.310.

(2) AA.II.118. xem K.N. Jayatilleke, tr.362.

(3) Akṣayamati-nirdeśa-sūtra [Vô Tận Ý Bồ-tát, Đại tập kinh 27-30, T12n397(12)] [無盡意菩薩經, 大集經, full name 大方等大集經 (Skt: Mahā-sajnipāta-sūtra). Alex Wayman, Calming the Mind and Discerning the Real: Buddhist Meditation and the Middle View, Delhi: Moltilal Banarsidass, 2004, tr.178.

(4) Sđd, p. 179.

(5) PP.44. Mervyn Sprung (1979), Lucid Exposition of the Middle WayLondon: Routledge, 2008, tr.45.

(6) Chr. Lindtner, Nagarjuniana: Studies in the Writings and Philosophy of Nagarjuna, Delhi: Moltilal Banarsidass, 1990, tr.159.

(7) PP.44, tr.45.

(8) AA.I.94; KvuA.34. K.N. xem Jayatilleke, tr.363.

(9) AA.I.54; KvuA.34; DA.251; SA.II.77; SS.V.3. K.N. Jayatilleke, tr. 363-4; Y. Karunadasa, p. 61.

(10) Sđd

(11) Sđd.  

(12) Y. Karunadasa, tr.60.

(13) Paul Williams, Mahāyāna Buddhism: The Doctrinal Foundations, (London: Routledge, 2nd Edition, 2009), tr. 16.

(14) Kinh Potthapāda Sutta, Trường bộ 9; Tương ưng bộ, Tương ưng chư thiên IV. 

(15) Kinh Tương ưng Tỷ-kheo-ni, X. Vajirā.

(16) Mil., tr. 27-8. Xem, The Questions of King Milinda (Milindapañha), accessed at, http://www.sacred-texts.com/bud/sbe35/sbe3504.htm

(17) Genjun H. Sasaki, Linguistic Approach to Buddhist Thought, (Delhi: Motilal Banarsidass Publishers, 2nd Edition, 1992), tr.82.

(18) Mohavicchedanī, 108; PugA. 7. See, Theravāda Version of The Two Truths by Ven Y. Karunadasa. The linked pdf:  http://skb.or.kr/down/papers/094.pdf.

(19) Genjun H. Sasaki, tr.82.

(20) Sđd.

(21) MMK 24:10. Vyavahāra is another term synonymous with samvṛti.

(22) PP., tr.41: ata evedam madhyamakaśāstram praṇītam ācāryeṇa neyanītārtha-sūtrānta-vibhāgopa-darśanārtham. Xem, Mervyn Sprung, Lucid Exposition of the Middle Way, (London: Routledge, 1979), p. 44.  MKV: samāptaṁ cedam Madhyamaka-śāstraṁ sakala-loka-lokottara-pravacana-nītaneyārtha-vyākhyāna-naipuṇya-viśāradam iti. See K. Venkata Ramanan, tr. 135-6; T.R.V. Murti, Central Philosophy of Buddhism, (Delhi: Munshiram Manoharlal Publishers, 2006), tr.255.

(23) The Prajñāpāramitā-śāstra (大智度論) says: 佛經中說,趣涅槃道,皆同一向,無有異道。

T25n1509.254a17.

(24) MKV 6:23. Sonam Thakchoe, “The Relationship between the Two Truths: A Comparative Analysis of two Tibetan Accounts,” Contemporary Buddhism, Vol. 4, No. 2, (2003): 113.

(25) Sđd, tr.113-4.



-----------------------------------------------------

Nguồn tham khảo

Bodhi, Bhikkhu. A Comprehensive Manual of Abhidhamma (Abhidhammatthasaṅgaha) (Thắng pháp tập yếu luận), Kandy Srilanka: Buddhist Publication Society, 2nd Edition, 1999.

Buescher, John B. Echoes from an Empty Sky: The Origin of the Buddhist Doctrine of the Two Truths (Những tiếng dội từ hư không: Nguồn gốc học thuyết Phật giáo về nhị đế), New York: Snow Lion Publication, 2005.

Karunadasa, Y. The Theravāda Abhidhamma: Its Inquiry into Nature of Conditioned Reality (Vi diệu pháp trong Phật giáo nguyên thủy: Một nghiên cứu về bản chất của thực tại hữu vi), Hong Kong: Centre of Buddhist Studies, the University of Hong Kong, 2010. 

Jayatilleke, K.N. Early Buddhist Theory of Knowledge (Lý thuyết Phật giáo nguyên thủy về tri kiến), Delhi: Motilal Banarsidass Publishers, 1963.

Ñāṇananda, Bhikkhu. Concept and Reality in Early Buddhist Thought (Khái niệm và thực tại trong tư tưởng Phật giáo nguyên thủy), Kandy-Sri Lanka: Buddhist Publication Society, 1971.

Ramanan, K. Venkata. Nāgārjuna’s Philosophy (Triết học của Long Thọ), Delhi: Motilal Banarsidass Publishers, reprint, 2002.

Sasaki, Genjun H. Linguistic Approach to Buddhist Thought (Tiếp cận ngôn ngữ học đối với tư tưởng Phật học), Delhi: Motilal Banarsidass Publishers, 2nd Edition, 1992.

Singh, Amar. The Sautrāntika Analytical Philosophy (Triết học phân tích của trường phái Kinh lượng bộ), Delhi: Eastern Book Linkers, 2007.

Sprung, Mervyn. Lucid Exposition of the Middle Way (Minh giải về Trung đạo), London: Routledge, 1979.

Stcherbatsky, Th.  The Central Concept of Buddhism (Khái niệm trung tâm của Phật giáo), Delhi: Sri Satguru Publications, 1991.

Stcherbatsky, Th., The Conception of Buddhist Nirvāṇa (Nhận thức về Niết-bàn trong Phật giáo), Delhi: Motilal Banarsidass Publishers, reprint, 1999.

Thakchoe, Sonam. “The Relationship between the Two Truths: A Comparative Analysis of two Tibetan Accounts,” (Mối quan hệ giữa nhị đế: Một phân tích so sánh về hai kiến giải của Tây Tạng), Contemporary Buddhism, Vol.4, No.2, (2003).

Wayman, Alex. Calming the Mind and Discerning the Real: Buddhist Meditation and the Middle View (Lắng đọng tâm tư và nhận diện sự thật: thiền định Phật giáoquan điểm trung đạo), Delhi: Moltilal Banarsidass, reprint, 2004.

Williams, P. Mahāyāna Buddhism: The Doctrinal Foundations (Phật giáo Đại thừa: những nền tảng học thuyết), London: Routledge, 2nd Edition, 2009
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 13190)
Với trí tuệ của bậc toàn giác, Đức Phật đã chỉ ra chân lí của sự sống, rằng mọi loài sống trên trái đất này đều có quan hệ hữu cơ, gắn bó khăng khít với nhau...
(Xem: 19353)
Nghiệp là một trong các giáo lý căn bản của Phật giáo. Mọi việc khổ vui, ngọt bùi trong hiện tại của chúng ta đều do nghiệp của quá khứhiện tại chi phối.
(Xem: 24601)
Làm sao cái Biết nhận thức được tự tính không của đối tượng? Đối tượng mà ta nhận thấy (nhận biết của tâm) thật ra chỉ là thấy hình ảnh không của đối tượng mà thôi.
(Xem: 15735)
Chú Đại bi còn có những tên gọi sau: Thiên thủ thiên nhãn quảng đại viên mãn vô ngại đại bi tâm đà-la-ni, Quảng đại viên mãn đà-la-ni...
(Xem: 37810)
Có thể nói nguyên nhân sâu xathen chốt nhất của sự biến mất truyền thống Tăng bảo trong Phật giáo Nhật Bản hiện tạibản thể giới luật của Tăng không được coi trọng.
(Xem: 13469)
Theo truyền thuyết, không lâu trước khi nhập niết bàn, Đức Phật đã trả lời Ananda, thị giả theo hầu cận Phật nhiều năm, khi vị này xin Phật chỉ dẫn cách đối xử cho các vị tỳ kheo...
(Xem: 13087)
Tu hành Duy thứcđạt đến hai vô ngã bằng cách biết ngã và pháp không là gì ngoài sự biến hiện của tâm thức. Nói cách khác, ngã và pháp chỉvọng tưởng không thật.
(Xem: 17163)
Ý thức là cái hoạt động mạnh nhất ở nơi con người; cho nên, cái gì tốt đẹp nhất cũng như cái gì xấu xa nhất của con người đều do ý thức tạo ra. Cũng ý thức là cái thức biến đổi...
(Xem: 13200)
Đức Phật đến với cuộc đời không gì khác ngoài việc chỉ bày cho con người một nếp sống hạnh phúc an lạc. Những lời dạy của Ngài thật giản dị nhưng lại hết sức thiết thực...
(Xem: 17378)
Chữ Phật không phải là một danh từ riêng, mà là một danh hiệu. Trong truyền thống Phật giáo, có nhiều vị Phật trong quá khứ, hiện tại cũng như tương lai.
(Xem: 21614)
Đối với đạo Phật, học thuyết âm dương chỉ là tưởng tri của các học giả, không thể là chân lý. Vậy chân lý của đạo Phật là gì? Có thể gói gọn trong một chữ “Khổ”.
(Xem: 13213)
Ở trong Tứ thánh đế, Diệt thánh đếchân lý cứu cánh, là chân lý tuyệt đối, là chân lý duy nhất, là chân lý tối hậu được chứng nhập bằng Đệ nhất nghĩa trí.
(Xem: 14386)
Phật Giáo, nhấn mạnh vào tầm quan trọng của kinh nghiệm trực tiếp trong vấn đề nghiên cứu tâm lý học. Nếu chỉ chú trọng duy nhất vào lý thuyết thì sẽ đánh mất đi những điều căn bản.
(Xem: 12808)
Nhiều người muốn tạo sinh vì nhiều lý do khác nhau. Hoặc là họ muốn làm sống lại một người thân yêu đã chết. Hoặc là họ muốn mình trường sanh bất tử.
(Xem: 13649)
Phật giáo cho rằng sự li hợp thành bại của hết thảy việc người trên thế gian này, đều không tách rời nguyên tắc “Nhân duyên quả báo”, kệ nhân quả ba đời nói rằng...
(Xem: 28586)
Tác phẩm này là công trình nghiên cứu mang tính khoa học, nhưng nó có thể giúp cho các nhà nghiên cứu về Phật giáo tìm hiểu thêm về lịch sử Phật giáo...
(Xem: 23379)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34363)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 28852)
Nguyễn Du cho chúng ta thấy rằng Cụ không những là một người am hiểu sâu xa về Phật giáo mà còn là một hành giả tu tập Thiền tông qua Kinh Kim Cương... Đại Lãn
(Xem: 32171)
Đức Phật khi còn tại thế đã luôn luôn từ chối việc dùng giáo lý để thỏa mãn khao khát kiến thức con người... Nguyễn Điều
(Xem: 11324)
Chỗ ấy chính là Niết Bàn Diệu Tâm Thật Tướng, Vô Tướng, là Như Lai tạng, là Chơn Như, tịch diệt... HT Thích Như Điển
(Xem: 12002)
Trong kinh A Hàm, Đức Phật đã chỉ dạy các đệ tử không nên để tâm rong ruổi đến những cảnh giới viễn vông xa rời thực tế. Phật pháp là những gì thân thiết...
(Xem: 26274)
‘Sự quyến rũ của Đạo Phật Trong Thế Giới Mới’ được tuyển dịch từ những bài viết và pháp thoại của nhiều bậc Tôn túc và các học giả Phật Giáo nổi tiếng thế giới...
(Xem: 17357)
Phật Giáo khuyên chúng ta phải luôn giữ sự chính xác và phải chú tâm đến từng cảm nhận của mình trong cuộc sống, trong mỗi tư duy, trong từng xúc cảm, và mỗi hành động của mình.
(Xem: 14520)
Ta có thể tìm thấy thông tin về bức hình trên của Phật Thích-ca trong hai tài liệu sau đây. Một là, trong tác phẩm Vrai Zen của thiền sư Taisen Deshimaru (1914-1982).
(Xem: 34465)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 13109)
Chuyển ngữ kinh không chỉ sẽ thuận lợi trong việc hoằng pháp, mà còn dễ dàng đưa giáo pháp Đức Phật vào nền văn hóa dân gian qua các dạng khác như chuyện cổ tích, ca dao...
(Xem: 12273)
Tóm lại Phật Giáo Nguyên ThủyPhật Giáo Đại Thừa không phải là hai "học phái" hay "tông phái" khác nhau, mà đúng ra chỉ là hai thái độ hay hai chủ trương tu tập khác nhau, và cùng tiến bước trên một Con Đường chung.
(Xem: 13396)
Sự tái sinh có đúng là một sự tiếp nối liên tục của nhiều kiếp sống sinh học khác nhau hay là trái lại đấy chỉ là các thể dạng tâm thần khác nhau có thể (hay không có thể)...
(Xem: 40502)
Đa số dân chúng là Phật tử thuần thành và số lượng tu sĩ khá đông đảo nên Miến Điện mệnh danh xứ quốc giáo với hai đường lối rõ rệt cho chư Tăng Ni: PHÁP HỌC (Pariyattidhamma) và PHÁP HÀNH (Patipattidhamma).
(Xem: 26910)
Tập sách nhỏ này, là một tập tài liệu vô cùng quí giá, do sự tham khảo các kinh sách của Đức Thế Tôn để lại với các tài liệu tác giả đã sưu tầm và tham quan tại một số địa phương...
(Xem: 14450)
Nếu chúng ta là người Phật tử thì ngày 23 tháng chạp không nên theo tập tục văn hóa mê tín dị đoan mua cá chép vàng về để giết hại cúng Ông Táo, việc làm ấy sai trái đạo lý...
(Xem: 13226)
Phật Giáo là một trong những tôn giáo đầu tiên có giáo đoàn cho ni giới (đại khái là nữ tu sĩ). Giáo đoàn này được thành lập năm năm sau khi Đức Phật thành đạo.
(Xem: 13449)
Phật giáo nhận thấy rằng tất cả mọi người và mọi chúng sanh đều phụ thuộc lẫn nhau. Mặc dù thân và tâm của mọi người khác nhau nhưng mọi người vẫn tương quan với nhau.
(Xem: 12521)
Phật giáo nhận thấy rằng tất cả mọi người và mọi chúng sanh đều phụ thuộc lẫn nhau. Mặc dù thân và tâm của mọi người khác nhau nhưng mọi người vẫn tương quan với nhau.
(Xem: 13140)
Với Duy thức học, mắt, tai… là các căn. Căn có hai phần, là “phù trần căn” và “thắng nghĩa căn”. “Phù trần căn” là năm giác quan mắt, tai… mà ta có thể nhận biết.
(Xem: 12304)
Phật giáo nói về sự khác nhau giữa cái “tôi’ quy ước (tục đế) và "cái tôi" không thật. "Cái tôi" quy ước là "cái tôi" có thể quy cho sự tương tục không ngừng của mỗi cá nhân...
(Xem: 11780)
Đạo Phật đã tồn tại và phát triển 2600 năm kể từ khi Đức Phật giác ngộ lúc 35 tuổi. Giáo lý của Ngài được đặc trên nền tảng Từ biTrí tuệ qua sự chứng nghiệm của Ngài.
(Xem: 12560)
Con người và loài thú đều giống nhau: đói thì kiếm ăn, khát thì kiếm nước uống, cũng đều duy trì bản năng sinh tồn như nhau... Thích Trí Giải
(Xem: 17657)
Những lời Phật dạy trong kinh chỉ giúp chúng sinh phá bỏ những hiểu biết tương đối, phá bỏ những kiến chấp sai lầm cố hữu, những vướng mắc lâu đời...
(Xem: 12201)
Cứu cánh của Phật giáo là sự Giác Ngộ, phương tiện giúp đạt được Giác NgộTrí Tuệ, và đối nghịch với Trí TuệVô Minh. Vậy muốn đạt được Giác Ngộ thì phải loại trừ Vô Minh.
(Xem: 12746)
Từ nhiều thông tin, cách thờ phượng và sự phát triển khác nhau, hiện nay đạo Phật dường như đang dần dần thâm nhập vào nền văn hóa của toàn thế giới.
(Xem: 18427)
An cư nghĩa là khoảng thời gian người xuất gia chuyên tâm tu trì lời Phật dạy hay còn gọi là thúc liễm thân tâm theo giáo phápgiới luật do Đức Phật tuyên thuyết.
(Xem: 14288)
Ý nghĩa tôn giáo của giáo lý Duyên khởi nhấn mạnh giáo lý về học thuyết của nghiệp (karma)- giải thích căn bản của sự đau khổ trong sự tồn tại của con ngườithế giới.
(Xem: 12985)
Dù có ánh nắng vàng rực rỡ hay không, sắc diện của Đức Thế Tôn vẫn như vầng trăng rằm. Đôi mắt dịu hiền từ bi tỏa rộng... Nguyên Siêu
(Xem: 11317)
Dựa theo tinh thần Phật giáo, do nhân duyên hòa hợp tất cả những nghiệp duyên từ trong những đời quá khứkiến tạo ra con người trong kiếp này.
(Xem: 12144)
Tâm ý không mang bản chất thương hay ghét, thích hay không thích. Tâm ý (mind) có nghĩa là “khả năng hiểu biết” (knowing faculty), “khả năng tri nhận” (cognizing faculty).
(Xem: 13452)
Một khi chánh trí kiến (right understanding) đã phân biệt được cái ảo giác về tự ngã (self created ego) rồi thì mối quan hệ sẽ trở nên thân hữuhuynh đệ hơn.
(Xem: 10830)
Chúng ta phóng sanh loài khác chính là phóng sanh cho chính chúng ta, chúng ta cứu giúp sự sống của người khác chính là cứu giúp sự sống của chính chúng ta.
(Xem: 11068)
Tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên xuất bản năm 1933 là cuốn tiểu thuyết mở đầu cho sự nghiệp sáng tác của nhà văn Khái Hưng... Hoàng Như Mai
(Xem: 10278)
Câu chuyện về các tôn giáo lớn của Ấn Độ bắt đầu tại vùng thung lũng Ấn Hà vào khoảng 2,500 năm trước công nguyên. Ở đó thổ dân Dravidian đã thiết lập nền văn minh Harappa cực thịnh...
(Xem: 28866)
Nền giáo học của Phật giáo có nội dung rộng lớn tận hư không pháp giới. Phật dạy cho chúng ta có một trí tuệ đối với vũ trụ nhân sinh, giúp chúng ta nhận thức một cách chính xác...
(Xem: 25249)
Mọi người đều biết là Đức Phật không hề bắt ai phải tin vào giáo lý của Ngài và Ngài khuyên các đệ tử hãy sử dụng lý trí của mình dựa vào các phương pháp tu tập...
(Xem: 26840)
Giáo lý đạo đức của Đại thừa được đề ra trong học thuyết về các ‘Ba-la-mật’ (pāramitā), khởi đầu là sáu, gồm: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền địnhtrí tuệ ba-la-mật.
(Xem: 25738)
Thật vậy, trên bất cứ một khía cạnh nào, Đức Phật đều giữ cho tôn giáo của Ngài không bị vướng mắc vào những thứ cành lá chết khô của quá khứ.
(Xem: 18660)
Để thực hành lòng từ, trước nhất là bạn nên trực tiếp giúp đỡ họ nhu cầu về thức ăn, chỗ ở, thuốc men v.v… Nhưng điều đó chưa đủ, mà bạn cần phải ngăn chặn nguyên nhân...
(Xem: 22996)
Khi tại thế, Ðức Phật đi hoằng hóa nhiều nước trong xứ Ấn Ðộ, đệ tử xuất gia của ngài có đến 1250 vị, trong đó có Bà Ma Ha Ba Xà Ba Ðề...
(Xem: 34518)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 32143)
Tất nhiên không ai trong chúng ta muốn khổ, điều quan trọng nhất là chúng ta nhận ra điều gì tạo ra khổ, tìm ra nguyên nhân tạo khổ và cố gắng loại trừ những nhân tố này.
(Xem: 30368)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant