Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Giới Thiệu Lịch Sử Truyền Dịch - Chú Kinh Pháp Hoa

27 Tháng Năm 201518:42(Xem: 9943)
Giới Thiệu Lịch Sử Truyền Dịch - Chú Kinh Pháp Hoa

GIỚI THIỆU LỊCH SỬ TRUYỀN DỊCH – CHÚ KINH PHÁP HOA (SADDHARMAPUNDARĪKASŪTRA)

PHẠN – TẠNG – ANH – PHÁP – NHẬT- VIỆT


Ghi chú

Bài viết này được trích ra từ tập Nghiên Cứu Về Kinh Pháp Hoa, nguyên là một tập khảo luận nghiên cứu tại trường Đại học trước đây chúng tôi theo học.

Ban đầu, người viết định phổ biến tập khảo luận này nhưng sau đó, những người bạn ở Anh quốc và Nhật Bản, biết chúng tôi đang nghiên cứu về kinh Pháp Hoa nên khi về nước đã mang về cho chúng tôi khá nhiều bản kinh Pháp Hoa được dịch ở nhiều ngôn ngữ như Pháp – Anh – Nhật v.v.. Chúng tôi đón nhận với niềm tri ân vô hạn, cộng thêm với những tài liệu vừa tìm thêm được ở Tàng kinh các của Thượng tọa Bổn sư, chúng tôi liền bổ túc thêm vào và viết thành bài Lịch sử truyền dịch-chú Kinh Pháp Hoa này. Khi thuận duyên chúng tôi sẽ tiếp tục sửa chữa – bổ túc những phần kế tiếp dựa vào nguyên bản Sanskrit Saddharmapuṇḍarīkasūtra để phổ biến.

Cho bài viết này được ra đời là nhờ sự giúp đỡ của những người bạn hữu. Mong tấm lòng bao dung và nụ cười hoan hỷ của những vị có duyên đọc được những hàng bút mực trong đây!

Đất trời đâu chẳng viên dung/ Ngửa bàn tay Phật vô cùng Như Lai

Phước Nguyên

_________________________________

Cho đến nay, người ta vẫn chưa biết chính xác bản kinh Pháp Hoa này được thiết lập khi nào, ở đâu và được ghi lại bằng ngôn ngữ nào trước hết. Có thể đầu tiên nó được ghi bằng một thổ ngữ miền Trung Ấn, sau được chép lại bằng Phạn ngữ cho được trân trọng hơn.

Bấy giờ, thời Thế Tôn tại thế, các đệ tử của ngài có nhiều sắc dân khác nhau, nên lúc chưa nhập diệt, Thế Tôn thuyết pháp bằng nhiều loại thổ ngữ. Và ngôn ngữ được Ngài sử dụng nhiều nhất là Magādhi, vì đây là sắc dân chính và đa sốđệ tử của Ngài.

Vì vậy, trong các hội nghị kết tập kinh điển một, hai và ba, phần nhiều đều sử dụng ngôn ngữ Magādhi để kết tập. Nên, bước đầu truyền bá và khẩu dịch kinh điển, Tăng đoàn phần nhiều sử dụng ngôn ngữ Magādhi này. Như thế, kinh điển Nguyên thủy khởi đầu bằng tiếng Magādhi vào thời đại vua A Dục và hoàn chỉnh bằng truyền tụng mà không phải bằng văn bản.

Kinh tạng này truyền đến xứ Avanti (A-bàn-đề), trên bờ phía bắc sông Narmada,thì tại đây hai loại ngôn ngữ MagādhiAvanti đã phối hợp với nhau tạo thành ngôn ngữ Pāli phôi thai. Và kinh điển Nguyên thủy bằng Magādhi đã được dịch ra bằng tiếng Pāli phôi thai này tại xứ Ujjayini (Ô-xa-diễn-ni), thủ phủ của Avanti (A-bàn-đề). Từ Avanti, Ngài Mahinda - hoàng tử của vua A Dục là học trò của Ngài Ca Chiên Diên mang tạng kinh khẩu dịch bằng Pāli phôi thai này đi thuyền dọc theo vịnh Oman đến truyền bá tại Tích Lan.

Và cũng từ thủ phủ Ujjayini của xứ Avanti, kinh tạng khẩu truyền bằng tiếng Magādhi lại được truyền lên phương Bắc, tiếp giáp với Ngũ Hà nơi thổ ngữ Prakrit, đây là loại thổ ngữ cổ của Sanskrit. Tại vùng Ngũ Hà này, một số kinh điển được dịch ra bằng tiếng Prakrit. Ngày nay, các nhà khảo cổ học, sử học đã phát hiện ra nhiều bản kinh nguyên thủy được ghi lại bằng ngôn ngữ này trên lá bối.

Kinh tạng Nguyên thủy bằng ngôn ngữ Magādhi lại truyền tụng đến vùng Kashmir, là nơi quê hương của cổ ngữ Vēda (Vệ-đà). Phái Hữu bộ đã lập căn cứ hoằng pháp tại đây vào thời vua A-dục, khoảng thế kỷ thứ III trước Tây lịch. Tại Kashmir, tiếng Sanskrit cổ đã được gạn lọcchuyển hóa thành loại Sanskrit thuần. Các Tăng sĩ đã sử dụng loại Sanskrit thuần này để phiên dịch và san định lại kinh điển, gọi là Agāma (kinh Tạng A-hàm).

Tuy nhiên, hiện nay các nhà sử học và khảo cổ học cũng đã phát hiện ra nhiều bản kinh tạng nguyên thủy bằng tiếng Sanskrit tạp chủng. Còn tạng kinh nguyên thủy Pāli, tuy đã được truyền thừa từ xứ Avanti đến Tích Lan bởi Ngài Mahinda thời vua A Dục, nhưng phải đến thời Ngài Buddhaghoṣa (Phật Âm) ra đời vào khoảng thế kỷ thứ V, Tây lịch mới san định bằng văn bản Pāli hoàn chỉnh và mệnh danh là Nikāya.

Bộ kinh Pháp Hoa cổ nhất được tìm thấy năm 1932 ở Kashmir, gồm 2/3 chữ Phạn và 1/3 chữ Magādhi cho phép ta có cơ sở phỏng đoán điều này. Dầu trên truyền thuyết cho rằng các người con của Vua A Dục, sống 100 năm trước Tây lịch, đã đem kinh Pháp Hoa truyền bá đến những vùng thuộc Trung đông và Trung Á v.v…điều chắc chắn nhất mà ta có thể nói là, ít nhất kinh này này xuất hiện vào năm 225 sau Tây Lịch, năm mà bản kinh tiếng Hoa được dịch ra đầu tiên. Hiện nay ta có trên 20 thủ bản kinh Pháp Hoa chép bằng tiếng Phạn, lần lượt được các nhà Phật học người Anh, Nhật , Đức và Pháp tìm thấy ở Népal, Trung Á , Kotan và Kucha (quê hương ngài Cưu Ma La Thập).

Một số thủ bản hình như được chép lại vào khoảng thế kỷ 11 hoặc trễ hơn. Một số có vẻ được chép vào thế kỷ thứ 5 hoặc 6. Những thủ bản Phạn này khác biệt đáng kể so với bản Hán dịch của Ngài Cưu Ma La Thập. Chúng thường dài hơn. điều này cho thấy, bản mà Ngài La Thập sử dụng để dịch có sớm hơn và gần với nguyên bản hơn. Năm 1913, Kerne và Najo Fumio dựa vào các Phạn bản cũng như các đoạn phiến tìm thấy ở các nước mà so sánh đối chiếu rồi soạn thành bản Saddharmapuṇḍarīkasūtra.

I. KINH VĂN

I.1.  Phạn – Tạng bản

Kinh Pháp Hoa Phạn bản, hiện có đầy đủ nhất tên tiếng Phạn là सद्धर्मपुण्डरीकसूत्रम् Saddharmapuṇḍarīkasūtra được lưu trữ trong Buddhist Sanskrit Texts[1], do Kerne và Najo -Fumio dựa vào các Phạn bản cũng như các đoạn phiến tìm thấy ở các nước mà so sánh đối chiếu rồi biên tập thành.

Bản thứ hai, là Saddharmapuṇḍarīka-sūtra được chuyển âm La-tin do Prof.U.Wogihara và C. Tsuchida biên tập và hiệu chú cẩn thận, cước chú với Nhật, Hán và Tạng ngữ[2].

Tạng bản, hiện chỉ mới tìm thấy trong Đại Tạng Kinh Tây Tạng một bản dịch Pháp hoa với nhan đề: “དམ་ཆོས་པད་མ་དཀར་པོའི་མདོ dam chos pad-ma dkar po'i mdo”.

I.2. Hán bản

Bản đầu tiên do Chi Khiêm dịch vào năm 225 – 253, thời Tam Quốc, từ năm Hoàng võ thứ 2 đời Tôn Quyền, đến năm Kiến Phong thứ 2 đời Tôn Lượng. Bản này chỉ có phẩm Thí dụ, tên là “Phật dĩ Tam Xa Hoán Kinh”, một quyển.

Sau đó có 7 bản dịch khác nhưng thực ra bây giờ chỉ còn tồn tại 5 bản:

- Pháp Hoa Tam Muội Kinh 6 quyển do Cương Lương Tiếp (Kalasivi) dịch năm Ngũ Phượng thứ 2 ( 255 TL ) đời Tôn Lượng.

- Tát-đàm Phân-đà-lị Kinh, 6 quyển, do Pháp Hộ dịch lần đầu vào năm Tần Thủy ( 265 TL), đời Tây Tấn[3].

- Chính Pháp Hoa Kinh, 10 quyển cũng do Pháp Hộ dịch lần cuối vào năm thứ 7, niên hiệu Thái Khang ( 286 TL ) đời Tây Tấn[4].

- Phương đẳng Pháp hoa kinh, 5 quyển do Chi Đạo Căn dịch, năm đầu Hàm Hanh ( 33 TL ) đời Đông Tấn.

- Diệu Pháp Liên Hoa kinh, 7 quyển sau đổi thành 8 quyển do Cưu Ma La Thập (Kumaraiva) dịch vào năm Hoằng Thỉ thứ 8 (406) đời Diêu Tần[5].

- Phật Thuyết Pháp Hoa Tam Muội Kinh, 1 quyển, do Trí Nghiêm dịch vào thời Lưu Tống (420-479)[6].

- Thiêm Phẩm Diệu pháp Liên Hoa Kinh, 7 quyển do Xà-na-quật-đa (Nanagupta) và Đạt Ma Cấp Đa (Dharmagupta) dịch năm đầu Nhân Thọ đời Tùy (601 TL)[7].

Bản của Ngài La Thập thiếu nửa phần đầu của phẩm Dược Thảo Dụ, thiếu phần đầu của Phẩm Pháp Sư, Thiếu Phẩm Đề Bà và phần kệ tụng của phẩm Phổ Môn. Sau này dựa vào bản Bối Diệp do Ngài Hốt Đa mang sang mà dịch bổ sung thêm vào.

Hiện ta còn ba bản lưu truyền rộng rãiChính Pháp Hoa, Diệu Pháp Liên HoaThiêm Phẩm Diệu Pháp Liên Hoa Kinh. Nội dung ba bản này có sai khác nhau đôi chút. Diệu bản giản dị, Thiêm Phẩm nhiều hơn, còn Chính bản rất chi tiết.

Theo lời tựa của Thiêm Phẩm, thì ba bản dịch trên đều dùng đề bản khác nhau:

Bản Ngài La Thập dịch gồm 6000 kệ, được tàng trữ tại cung vua nước Kế Tân (Karmir).

Bản Ngài Pháp Hộ dùng gồm 6500 kệ, trữ tại cung vua nước Vi điền (Kotan).

Còn bản của Quật Đa (Hốt-đa) gồm 6200 kệ, chưa rõ được lưu trữ ở đâu.

Trong ba bản dịch này bản của Ngài Cưu Ma La Thập dịch được thông dụng hơn cả.

I.3. Pháp và Anh Bản

Ở Phương Tây, người ta biết đến Kinh Pháp Hoa xuất phát từ Phạn ngữ sớm nhất, qua bản dịch Pháp ngữ: Le Lotus De La Bonne Loi, do Burnouf dịch từ nguyên bản tiếng Phạn, công bố và in lần đầu vào năm 1852[8]. Sau đó, lần xuất bản phổ biến rộng rãi nhất trên thế giới vào năm 1976, đã được nhiều học giả lớn đánh giáca ngợi.

Bản dịch tiếng Pháp thứ hai gần đây, là bản dịch từ Hán bản của ngài La Thập, với nhan đề: Le Sutra Du Lotus, do giáo sư người Pháp Jean - Noel Robert phiên dịch 2001[9].

Bản Anh Dịch, The Lotus of the True Law, Do Kern, dịch từ bản Phạn văn Népal, năm 1880, gồm có 27 phẩm, hiện có ở trong The Sacred of the East[10]. Bộ kinh này được đưa vào quuyển thứ 21 trong pho sách “Đông Phương Thánh Thư” (sacred Books of the East).

Anh dịch, The Essence of the Lotus Scripture[11] của: bộ này là lược dịch từ bản chữ Hán của Ngài La Thập, gồm có 28 phẩm, hiện nằm trong bộ The New Test Ament of High Buddhism của Lichard, xuất bản năm 1900.

The Lotus of the Wonderful Law[12] (The Lotus Gospel): Do hai học giả W. E. Soothill Bunno Kato dịch từ Hán bản La-thập, gồm có 28 phẩm, xuất bản tại London năm 1930.

The Sutra of the Lotus Flower of the Wonderful Law[13]: Do Murano Senchū dịch từ bản Hán của Ngài La Thập, Nhật Liên Tông tại Tokyo, xuất bản 1974.

Bộ tập hợp ba dịch về Kinh Pháp Hoa do các học giả: Kato Bunno; Tamura Yoshirō; và Miyasaka Kōjirō; với nhan đề chung là The Threefold Lotus Sutra[14] bao gồm: The Sutra of Innumerable Meanings; The Sutra of the Lotus Flower of the Wonderful LawThe Sutra of Meditation on the Bodhisattva Universal Virtue, xuất bản năm 1975 do Weatherhill và Kōsei Publishing ấn hành tại hai địa điểm là New York và Tōkyō.

Bản Anh dịch tiếp theo của Hurvitz, Leon, với nhan đề: Scripture of the Lotus Blossom of the Fine Dharma (The Lotus Sutra)[15]. Dịch từ bản Hán La Thập, có đối chiếu với Phạn bản, bổ khuyết những đoạn bị thiếu. Bản này xuất bản lần đầu tại New York, năm 1976. Nhiều được học giả thế giới biết đến và đánh giá cao.

Bản dịch Anh ngữ của Kuo-lin Lethcoe: The Wonderful Dharma Lotus Flower Sutra with the Commentary of Tripitaka Master Hsuan Hua[16],  được dịch từ Bản Hán của La-thập kèm theo lời giải thích của Hòa thượng Tuyên Hóa, các văn bản được của Buddhist Text Translation Society, xuất bản lần đầu tại San Francisco, năm 1977.

Anh bản của học giả Burton Watson dịch từ  bản Hán của Ngài La Thập, với nhan đề: The Lotus Sutra[17], xuất bản tại New york, năm 1993.

Tsugunari Kubo và Akira Yuyama Numata dịch bản Hán của La-thập, với nhan đề: The Lotus Sutra[18], do Center for Buddhist Translation and Research xuất bản, năm 2007.

Bản anh dịch cuối cùng hiện có, gần đây nhất, được phát hành rộng rãi, của Gene Reeves, với tựa đề The Lotus Sutra[19], in ở Boston, 2008. Gene Reeves là một nhà triết học về tôn giáo đã giảng dạy tại Đại học Tsukuba, Đại học Rikkyo, và Đại học Renmin của Trung Quốc. Ông cũng là một nhà tư vấn để Rissho Kosei-kai và các Niwano Peace Foundation. Bản dịch của ông được đánh giá cao về sự kỹ lưỡng về ngôn ngữ.

I.4. Nhật ngữ

- Bản dịch củaしまじ だいとう (Daitō Shimaji 島地大等 ),  Pháp Hoa Tam Bộ Kinh Giải Đề 法 華 三 部 經 解 題, năm 1974, gồm có ba bản kinh: Vô lượng nghĩa 國  譯 無 量 義 經 ; Diệu Pháp Liên Hoa Kinh  妙 法 蓮 華  經; Quán Phổ Hiền Bồ-tát hành pháp kinh 觀普賢菩薩行法經.[20]

- Quốc dịch Nhất Thiết Kinh Ấn Độ soạn thuật bộ Pháp Hoa Bộ,  国訳一切経 印度撰述部 法華部, Nhà xuất bản Daito (大東出版社), năm 1928.

- Pháp Hoa Kinh 法 華 経  tập I & II, thuộc bộ Đại Thừa Phật Điển 大乗仏典  quyển 4 và 5, do  松濤誠廉 (Matsunami Seiren), Masato Nagao ながお がじん (1907-2005; 長 尾  雅  人) và Tanji Akiyoshi たんじ てるよし (丹 治 昭 義  1932 - ...) Trung Công Văn Khố 中公文庫,  dịch và chú, 2001-2002[21].

- Pháp Hoa Kinh 法華経, ba quyển thượng – trung –hạ (上-中-下),  do Yutaka Iwamotoいわもと ゆたか (1910-1988; 岩本裕) và Sakamoto Yukioさかもと ゆきお( 1899-1973; 坂本幸男) dịch và chú, Iwanami Bunko いわなみぶんこ (岩波文庫), 1976

- Pháp Hoa Kinh 法華経, dịch hiện đại ngữ , thuộc bộ Đại Thừa Phật điển (現 代 語 訳 大乗 仏 典)Nakamura Original なかむら はじめ (1912-1999;中村元), Tokyo Shoseki とうきょうしょせき (東京書籍) xuất bản, 2003.

- Kinh Pháp Hoa, Phạn-Hán-Hòa đối chiếu ngữ 梵漢和対照現代語訳法華経, hai quyển thượng và hạ,  Ueki Masatoshi うえき まさとし(植木 雅俊、1951 - ....)dịch và chú,  Iwanami Shoten いわなみしょてん (岩波書店) xuất bản,  2008.

- Pháp Hoa Kinh dịch Bản gốc Phạn ngữ sang hiện đại ngữ サ ンス ク リ ッ ト 原 典 現 代 語 訳 法 華 経 , hai quyển thượng và hạ( 上 - 下 ), Iwanami Shoten い わ な み し ょ て ん  (岩 波 書 店) xuất bản, 2015.

I.5. Bản dịch Tiếng Việt

Chúng tôi hiện chỉ được biết những bản sau đây:

- Pháp Hoa Tam Muội Kinh, Đạo Hinh - Cương Lương Lương Tiếp dịch sang Hán tại Giao Chỉ, năm 258 và lưu truyền tại Việt Nam sớm nhất, văn bản của kinh đã bị thất lạc.

- Quốc dịch Pháp Hoa Kinh, bản nôm, 1747. Minh Châu - Hương Hải (1628-1715), đã dịch và chú kinh Pháp Hoa đầu tiên bằng chữ nôm vào thời nhà Lê; Văn bản hiện còn có chép như sau: “Hương Hải Thiền Sư Ngữ Lục, Cảnh Hưng Bát Niên, Tuế Thứ Đinh Mão, Ngũ Nguyệt, Cát Nhật Từ Pháp Soạn Thuật – Cảnh Hưng 8 – 1747”, hiện được tồn giữ ở thư viện Hán-Nôm, Hà Nội.

- Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa Kinh, bản khắc gỗ, năm 1734. Minh Dung - Pháp Thông khắc in, đời vua Lê Thuần Tông (1732 – 1735). Bản khắc gỗ này hiện đang tồn giữ tại chùa Phật Quang, Phan Thiết.

- Pháp Hoa Quốc Ngữ Kinh, bản giấy, năm 1929. Thế kỷ thứ XIX, Triều Tự Đức (1847 - 1883), Pháp Liên đã giải âm bản Hán Diệu pháp liên hoa kinh, Cưu Ma La Thập. Đề tựa là Pháp hoa quốc ngữ kinh, hoàn thành vào năm 1848 và in công bố lần đầu vào năm 1856. Văn bản hiện có, là bản in lại vào năm 1929, của “Tự chủ tự Huệ Lương” có ghi như sau: “Ngày trung tuần mùa hè năm giáp tý Khải Định thứ chín”, “Chùa bái Am xã Vũ hạ tổng Vọng lỗ huyện Phụ dực Thái ninh tỉnh Ninh Bình”.

- Chánh Pháp Hoa Kinh, năm 1937, Đoàn Trung Còn đã dịch từ bản tiếng Pháp nhan đề là Le Lotus De La Bonne Loi, do Burnouf dịch từ nguyên bản tiếng Phạn[22]. Văn bản Việt dịch hiện có mất trang bìa, không rõ nhà in và xuất bản.

- Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, Thích Tuệ Hải dịch từ bản Hán của ngài La Thập, Ban Phát Hành Kinh Sách Chùa Vĩnh Nghiêm (số 339, Đại lộ Công lý,  Sài Gòn cũ, nay là đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa, quận 3) ấn hành, PL. 2516; Ban Dược Sư chùa Vĩnh Nghiêm, Tái bản 1972.

- Phẩm Thường Bất Khinh Bồ-tát, trong Kinh Pháp Hoa, Thích Trí Thủ dịch, Quảng Hương Tùng Thư, 1982.

- Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, Thích Trí Tịnh, dịch từ bản Hán của ngài Cưu Ma La Thập, Phật Học Viện Quốc Tế Xuất Bản 1988 - PL 2530. Được in tái bản đến nay đã rất nhiều lần, được sử dụng rộng rãi trong nhiều tu viện.

- Kinh Chánh Pháp Hoa Sen, Thích Trí Quang, dịch và lược giải, từ bản Hán của ngài Cưu Ma La Thậpđối chiếu Anh và Hán dịch,  Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, PL.2552, năm 1998.

- Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, Thích Nữ Thể Quán, dịch từ bản Hán của ngài Cưu Ma La Thập, Nhà Xuất bản Tôn Giáo, năm 200?.

- Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh, Tập 34, có năm bản dịch Việt Pháp Hoa: “Tát Đàm Phân Đà Lợi Kinh (số 265, Đại Chính Tân Tu); Diệu Pháp Liên Hoa Kinh, La Thập; Pháp Hoa Tam Muội Kinh, Trí Nghiêm (xứ Lương Châu); Chánh Pháp Hoa Kinh, Trúc Pháp Hộ và Thiêm Phẩm Diệu Pháp Liên Hoa Kinh của Xà Na Quật Đa và Cấp Đa”.  Hòa Thượng Thích Tịnh Hạnh Chủ trương, Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc Xuất Bản, năm 2000.

- Kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa, Thích Đạo Thịnh hội tập, trọn bộ 12 quyển, Chùa Tân Viên, Xã Ba Vì, Tp. Hà Nội, Nhà xuất bản Thời đại, PL. 2556, TL.2012.

II. LUẬN GIẢI

II.1. Phạn văn

Hiện tại chúng tôi chưa tìm được trong Buddhist Sanskrit Texts những bản chú giải bằng Phạn văn mà chúng tôi được biết là đã từng tồn tại như sau như sau:

- Pháp Hoa Tích Lun của Ngài Nagārjuna (sống sau Phật nhập diệt 800 năm, khoảng 300 Tây Lịch)

- Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Ưu Ba Đề XáPháp Hoa Luận do Ngài Thê Thân soạn.

Bản của ngài Thế Thân đã được dịch sang Hán văn hiện có hai bản[23], hiện có trong Đại Chánh Tạng Tân Tu[24].

II.2. Hán văn

Pháp Hoa Kinh Sớ, 2 quyển do Tăng DuệĐạo Sinh trước tác - Pháp Hoa Tông Yêu Tự, do Tuệ Quán soạn.

Thời  Lục Triều có hơn 70 nhà chú thích từ đời Hán đến đời Đường, trong khoảng 600 năm, có nhiêu tác phẩm chú thích Kinh Pháp Hoa, chúng tôi tìm thấy trong Đại Chánh Tạng Tân Tu và các Đơn hành bản biệt chú như sau:

Đại Tạng Kinh 33, số 1715, Pháp Hoa Nghĩa Kí 法華義記, 8 quyển, Lương, Pháp Vân soạn[25].

Đại Tạng Kinh 33, số 1716, Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Huyền Nghĩa 妙法蓮華經玄義, 10 quyển, Tùy, Trí Khải Thuyết.

Đại Tạng Kinh 33, số 1717, Pháp Hoa Huyền Nghĩa Thích Thiêm 法華玄義釋籤, 20 quyển, Đường, Trạm Nhiên thuật[26].

Đại Tạng Kinh 33, số 1718, Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Văn Cú 妙法蓮華經文句, 10 quyển, Tùy, Trí Khải Thuyết[27].

Đại Tạng Kinh 34, số 1719, Pháp Hoa Văn Cú Kí 法華文句記, 10 quyển, Đường, Trạm Nhiên thuật[28].

Đại Tạng Kinh 34, số 1720, Pháp Hoa Huyền Luận 法華玄論, 10 quyển, Tùy,  Cát Tạng soạn[29].

Đại Tạng Kinh 34, số 1721, Pháp Hoa Nghĩa Sớ, 12 quyển, Tùy, Cát Tạng soạn[30].

Đại Tạng Kinh 34, số 1722, Pháp Hoa Du Ý 法華遊意, 1 quyển, Tùy, Cát Tạng tạo[31].

Đại Tạng Kinh 34, số 1723, Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Huyền Tán 妙法蓮華經玄贊, 10 quyển, Đường, Khuy Cơ soạn[32].

Đại Tạng Kinh 34, số 1724, Pháp Hoa Huyền Tán Nghĩa Quyết, 1 quyển, Đường,Tuệ Chiếu soạn[33].

Đại Tạng Kinh 34, số 1725, Pháp Hoa Tông Yếu 法華宗要, Tân La, Nguyên Hiểu soạn[34].

Đại Tạng Kinh 46, số 1911, Ma Ha Chỉ Quán  摩訶止觀 (Luận về Chỉ và Quán theo Kinh Pháp Hoa), Tùy, Trí Khải thuyết, 20 quyển[35].

Đại Tạng Kinh 26, số 1519, Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Ưu Ba Đề Xá 妙法蓮華經憂波提舍卷上, 2 quyển, Đại Thừa Luận Sư Bà Tẩu Bàn Đậu (Vasubandhu) Thích,  Hậu Ngụy, Bồ Đề Lưu ChiĐàm Lâm dịch[36].

Đại Tạng Kinh 26, số 1520, Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Luận Ưu Ba Đề Xá 妙法蓮華經論優波提舍, 1 quyển, Bà Tẩu Bàn Đậu (Vasubandhu) Bồ Tát tạo, Nguyên Ngụy Lặc Na Ma ĐềTăng Lãng dịch[37].

Đại Tạng Kinh 19, số 1000, Thành Tựu Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Vương Du Già Quán Trí Nghi Quỹ, 1 quyển, Đường, Bất Không dịch[38].

Đại Tạng Kinh 19, số 1001, Pháp Hoa Mạn Đồ La Uy Nghi Hình Sắc Pháp Kinh, 1 quyển, Đường, Bất Không dịch[39].

Đại Tạng Kinh 85, số 2872, Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Quảng Lượng Thiên Địa Phẩm Đệ Nhị Thập Cửu 妙法蓮華經度量天地品第二十九, 1 quyển, mất tên người dịch[40].

Đại Tạng Kinh 21, số 1292, Pháp Hoa Thập La Sát Pháp 法華十羅剎法, 1 quyển, mất tên người dịch[41].

Đại Tạng Kinh 85, số 2899, Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Mã Minh Bồ Tát Phẩm Đệ Tam Thập 妙法蓮華經馬明菩薩品第三十, 1 quyển, mất tên người dịch[42].

Đại Tạng Kinh 40, số 1818, Pháp Hoa Luận Sớ 法華論疏, 3 quyển, Tùy, Cát Tạng soạn[43].

Đại Tạng Kinh 46, số 1926, Pháp Hoa Kinh An Lạc Hành Nghĩa 法華經安樂行義, 1 quyển, Trần Tuệ Tư thuyết[44].

Đại Tạng Kinh 46, số 1941, Pháp Hoa Tam Muội Sám Nghi 法華三昧懺儀, 1 quyển, Tùy, Trí Khải soạn[45].

Đại Tạng Kinh 46, số 1942, Pháp Hoa Tam Muội Hành Sự Vận Tưởng Bổ Trợ Nghi, 1 quyển, Đường, Trạm Nhiên soạn[46].

Đại Tạng Kinh 46, số 1943, Lược Pháp Hoa Tam Muội Bổ Trợ Nghi 略法華三昧補助儀并序, 1 quyển, mất tên người dịch[47].

Đại Tạng Kinh 46, số 1944, Lễ Pháp Hoa Kinh Nghi Thức 禮法華經儀式, 1 quyển, mất tên người dịch[48].

Đại Tạng Kinh 2067, Hoằng Tán Pháp Hoa Truyện 弘贊法華傳, 10 quyển, Đường, Huệ Tường soạn[49].

Đại Tạng Kinh 51, số 2068, Pháp Hoa Truyện Kí 法華傳記, 10 quyển, Đường, Tăng Tường soạn[50].

Đại Tạng Kinh 85, số 2748, Pháp Hoa Nghĩa Kí Quyển Đệ Tam 法華義記卷第三, 1 quyển; bị thất lạc chỉ còn quyển ba thứ ba này, mất tên người dịch[51].

Đại Tạng Kinh 85, số 2749, Pháp Hoa Kinh Sớ 法華經疏, 1 quyển, mất tên người dịch[52].

Đại Tạng Kinh 85, số 2750, Pháp Hoa Kinh Sớ 法華經疏, 1 quyển, mất tên người dịch[53].

Đại Tạng Kinh 85, số 2751, Pháp Hoa Kinh Sớ 法華經疏, 1 quyển, mất tên người dịch[54].

Đại Tạng Kinh 85, số 2752, Pháp Hoa Vấn Đáp 法華問答, 1 quyển, mất tên người dịch[55].

II.3. Nhật bản

Nhật ngữ:

Triết học tư tưởng sự điển 哲学思想事典, mục Kinh Pháp Hoa 法華経, Nham ba thư điếm xuất bản 岩波書店, năm 1998[56].

Kariya Sadahiko 苅谷定彦, “Kinh Pháp Hoa một nghiên cứu Phật học", 法華経一仏乗の研究, 1983

Sự thành lậptư tưởng kinh Pháp Hoa, 法華経の成立と思想, không thấy tên tác giả? Nhật bản, 1993.

Viết bằng Hán ngữ:

Đại Tạng Kinh 56, số 2187, Pháp Hoa Nghĩa Sớ 法華義疏, 4 quyển, Nhật Bản, do Shōtoku Taishi (Thánh Đức Thái Tử) soạn[57].

Đại tạng kinh 56, số 2188, Pháp Hoa Lược Sao法華略抄, 1 quyển, Nhật Bản, Minh Nhất soạn[58].

Đại Tạng Kinh 56, số 2189, Pháp Hoa Thích Văn Tự 序法華釋文, Nhật Bản, 3 quyển, Trung Toán soạn[59].

Đại Tạng Kinh 56, số 2190, Pháp Hoa Kinh Khai Đề 法華經開題, 1 quyển, Nhật Bản, Không Hải soạn[60].

Đại Tạng Kinh 56, không có số kí hiệu, Pháp Hoa Kinh Khai Đề 法華經開題, 1 quyển, Nhật Bản, Biến Chiếu Xà Lê Ký[61].

Đại Tạng Kinh 56, không có số kí hiệu, Pháp Hoa Kinh Mật Hiệu 法華經密號, 1 quyển, mất tên người dịch[62].

Đại Tạng Kinh 56, không có số kí hiệu Pháp Hoa Lược Bí Thích 法華略秘釋, 1 quyển, Trường Khoan Tam Niên Tứ Nguyệt Thập Tứ Nhật Ư Khuyến Tu Tự, Tây Minh Viện Thơ Tả Liễu[63].

Đại Tạng Kinh 56, số 2191, Pháp hoa kinh Bí Thích 法華經秘釋, 1 quyển, Nhật Bản, Giác Khâm soạn[64].

Đại Tang Kinh 56, số 2192, Nhập Chân Ngôn Môn Trú Như Thực Kiến Giảng Diễn Pháp Hoa Lược Nghi入眞言門住如實見講演法華略儀, 2 quyển, Nhật Bản, Viên Trân[65].

Đại Tạng Kinh 56, số 2195, Pháp Hoa Khai Thị Sao 法華開示抄, 28 quyển, Nhật Bản, Trinh Khánh soạn[66].

II.4. Việt văn

- Pháp Hoa Đề Cương, hiện có trong bộ Việt Nam Phật Điển Tùng San Chi Tam, Thanh Đàm Tỷ kheoGiác Đạo - Minh Chánh Thiền sư, vào Triều Gia Long (1802 – 1819), soạn thuật. Văn bản có ghi như sau: “Hoàng Triều Gia Long, thập bát niên, bát nguyệt cốc nhật”.

- Pháp Hoa Đề cương, bản khắc gỗ, năm 1933, Hòa Thượng Thanh Hanh, chùa Vĩnh Nghiêm, Miền Bắc, viết lời dẫn tựa của Pháp Hoa Đề Cương để khắc in. Bản khắc có ghi như sau: “Ngày 10 tháng 4 Bảo Đại năm thứ 9”, văn bản hiện được lưu trữ tại Thư viện Hán Nôm, Hà Nội.

- Pháp Hoa Đề Cương của Thanh Đàm (bản khắc in lại), năm 1943, bản khắc gỗ, Hội Bắc kỳ Phật Giáo khắc in và ấn hành, hiện có ở Thư viện Hán Nôm Hà Nội.

- Pháp Hoa Huyền Nghĩa, Chánh Trí Mai Thọ Truyền, Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi, năm 1972. Lời nói đầu, đích thân tác giả viết như sau: “…Bộ Pháp Hoa Huyền Nghĩa này đã được giảng hai lần tại Chùa Xá-Lợi của Hội Phật-Học Nam-Việt, lần đầu hồi năm 1959, lần sau vào đầu tháng ba Nhâm-Dần (5-4-1962)…”

- Kinh Pháp Diệu Pháp Liên-Hoa Giảng diễn lục, Thái Hư Đại Sư giảng, Sa Môn Trí Nghiêm dịch từ Thái Hư toàn tập, 2 tập, Nhà in Hạnh Phúc, 1970.

- Đại ý Kinh Pháp Hoa, đại ý bản Hán của La-thập, Thích Thanh Kiểm, Thành Hội PG T.P Hồ Chí Minh, xuất bản 1990.

- Lược giải Kinh Pháp Hoa, Thích Thiện Siêu, Từ Đàm, 1997.

- Kinh Chánh Pháp Hoa Sen, Thích Trí Quang, lược giải, từ bản Hán của ngài Cưu Ma La Thậpđối chiếu Pháp và Hán dịch,  Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, PL.2552, năm 1998.

- Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa kinh giảng luận, 2 tập, Thích Thông Bửu, Tổ Đình Quán Thế Âm, Nxb. Tôn giáo, 2000.

- Pháp Hoa thâm nghĩa đề cương, Thích Từ Thông giảng giải, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 2001.

- Kinh Diệu Pháp Liên Hoa Giảng Giải, ghi lại từ hai tập bài giảng, Thường Chiếu biên tập, Hòa Thượng Thích Thanh Từ phê duyệt, Nxb. Tôn giáo, 2003.

- Sen Nở Trời Phương Ngoại, Luận giải về Kinh Pháp Hoa, Thích Nhất Hạnh, Lá bối in, không thấy ghi năm xuất bản.

- Pháp Hoa Kinh Thông Nghĩa, Hám Sơn – Đức Thanh, Hòa Thượng Trí Tịnh dịch và giảng, Nxb.Tôn giáo, 2007.

- Nhan đề: “Một diễn dịch mới về ba bộ kinh pháp hoa”, Nikkyò Niwano; Anh dịch: Kòjirò Miyasaka, Buddhism For Today: A modern Interpretation Of The Threefold Lotus Sutra, Kose Publishing Co. Tokyo,  Việt dịch Cư Sĩ Trần Tuấn Mẫn, Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam TP. HCM ấn hành 1997 – Nxb. Phương Đông tái bản, 2010.

 

Và còn nhiều tác phẩm mà hiện chúng tôi chưa được biết, sẽ bổ khuyết nếu có ở lần sau.


[1] सद्धर्मपुण्डरीकसूत्रम् , Buddhist Sanskrit Texts, No 6, P.189.

[2] Saddharmapuṇḍarīka-sūtra, Prof.U.Wogihara and C. Tsuchida, Romanized and Revised Text, Tokyo, 1958.

[3] Trong Đại chánh ghi là mất tên người dịch, T09n0265, tr. 0197a03: 薩曇分陀利經一卷, 失 譯 人 名 今 附 西 晉 錄.

[4] 正法華經卷, 西晉月氏國三藏竺法護譯, T09n0263, tr. 0063a02.

[5]  妙法蓮華經, 後秦龜茲國三藏法師鳩摩羅什奉 詔譯, T09n0262, tr. 0001a01

[6] 佛 說 法 華 三 昧 經 一 卷, 宋 涼 州 沙 門 智 嚴 譯, T09n0269, tr. 0285c25.

[7]  添品妙法蓮華經, T09n0264, tr. 0134b24.

[8] Burnouf , Le Lotus De La Bonne Loi, Paris, Imprimerie Nationale, 1852. Reprint, Librairie d'Amérique et d'Orient A. Maisonneuve, Paris, 1973.

[9] Jean - Noel Robert, Le Sutra Du Lotus, Fayard, Paris, 2001.

[10] Kern, H. Saddharma Pundarîka or the Lotus of the True Law, Oxford 1884 (Clarendon Press) Sacred Books of the East, Vol. XXI, New York 1963 (Dover), Delhi 1968. Translation from Sanskrit.

[11] Cf. The Essence of the Lotus Scripture , The New Testament of Higher Buddhism by Timothy Richard, Lichard, 1990.

[12] W. E. Soothill and Bunno Kato, The Lotus of the Wonderful Law or The Lotus Gospel, Oxford, 1930.

[13] Murano Senchū, The Sutra of the Lotus Flower of the Wonderful Law, Tokyo, 1974.  Reprint: University of Hawaii Press, 2013.

[14] Katō Bunno, Tamura Yoshirō, Miyasaka Kōjirō, The Threefold Lotus Sutra: The Sutra of Innumerable Meanings; The Sutra of the Lotus Flower of the Wonderful Law; The Sutra of Meditation on the Bodhisattva Universal Virtue, Weatherhill & Kōsei Publishing, New York & Tōkyō, 1975.

[15] Hurvitz, Leon, Scripture of the Lotus Blossom of the Fine Dharma (The Lotus Sutra), Columbia University Press, New York, 1976.

[16] Kuo-lin Lethcoe, The Wonderful Dharma Lotus Flower Sutra with the Commentary of Tripitaka Master Hsuan Hua, Buddhist Text Translation Society, San Francisco, 1977.

[17] Burton Watson, The Lotus Sutra, Columbia University Press, New York, 1993.

[18] Tsugunari Kubo and Akira Yuyama Numata, The Lotus Sutra, Center for Buddhist Translation and Research, 2007.

[19] Gene Reeves, The Lotus Sutra, Boston, 2008.

[20] Văn bản giới thiệu từ Hiroshi Kyokura (は弘教藏より収録),  Nguyên bản Quốc Dân Văn Khố San Hành Hội 元版は 國 民 文 庫 刊 行會,  1917.

[21] Bản đầu tiên Trung Ương Công Luận Xã (初版は中央公論社),  1975-1976 .

[22] Dẫn thượng, xem chú thích 7.

[23]妙法蓮華經憂波提舍, 大乘論師婆藪槃豆釋, 後 魏 北 天 竺 三 藏 菩 提 留 支 共 沙門曇林等譯, T26n1519, tr. 0001a03 và 妙法蓮華經論優波提舍, 婆藪般豆菩薩造 , 元 魏 中 天 竺 三 藏 勒 那摩提共僧朗等譯, T26n1520, tr. 0010c03

[24] Xem ở phần văn bản chú giải Hán văn bên dưới.

[25] 法華義記, 光宅寺沙門 雲法師撰, T33n1715, tr. 0572a01.

[26] 法華玄義釋籤, 天台沙門湛然述, T33n1717, tr. 0815b02.

[27] 妙法蓮華經文句, 天台智者大師說 T34n1718, tr. 0001b18.

[28] 法華文句記, 唐天台沙門湛然述, T34n1719, tr. 0151a02

[29] 法華玄論, 吉藏撰, T34n1720, tr. 0361a01.

[30] 法華義疏, 吉藏撰, T34n1721, tr. 0451a03.

[31] 法華遊意,胡吉藏造, T34n1722, tr. 0633b08.

[32] 妙法蓮華經玄贊 , 大慈恩寺沙門基撰, T34n1723, tr. 0651a03.

[33] 法華玄贊義決, 淄州大雲寺苾芻慧沼撰 , T34n1724, tr.0854c03.

[34] 法華宗要, 元曉師撰, T34n1725, tr. 0870c07.

[35] 摩訶止觀, 隋天台智者大師說 T46n1911, tr. 0001a03.

[36]妙法蓮華經憂波提舍, 大乘論師婆藪槃豆釋, 後 魏 北 天 竺 三 藏 菩 提 留 支 共 沙門曇林等譯, T26n1519, tr. 0001a03.

[37]妙法蓮華經論優波提舍, 婆藪般豆菩薩造 , 元 魏 中 天 竺 三 藏 勒 那摩提共僧朗等譯, T26n1520, tr. 0010c03.

[38]成 就妙法蓮華經王瑜伽觀智儀軌一卷, 開 府 儀 同 三 司 特 進 試鴻臚卿肅國公食邑三千戶賜紫贈司空諡大鑒正號大廣智大興善寺三藏沙門不空奉 詔譯 , T19n1000, tr. 0594a04.

[39]法華曼荼羅威儀 形色法經. 中京大興善寺大廣智不空奉 詔譯 T19n1001, tr. 0602b03.

[40] 妙法蓮華經度量天地品第二十九, T85n2872, tr. 1355c11.

[41] 法華十羅剎法, T21n1292, tr. 0377a12.

[42] 妙法蓮華經馬明菩薩品第三十, T85n2899, tr. 1426a12.

[43] 法華論疏, 胡吉藏撰, T40n1818, tr. 0785a16.

[44] 法華經安樂行義, 陳南嶽思大禪師說, T46n1926, tr. 0697c16.

[45]法華三昧懺儀 (法華三昧行事 運想補助 儀 禮法華經儀 式) T46n1941, tr. 0949b10.

[46] 法 華 三 昧 行 事 運 想 補 助 儀 , 唐國清沙門湛然撰 T46n1942, tr. 0955c10.

[47] 略法華三昧補助儀并序, T46n1943, tr. 0956c04

[48] 禮法華經儀式, T46n1944, tr. 0956c22.

[49] 弘贊法華傳,  藍谷沙門惠詳撰, T51n2067, tr. 0012b16.

[50] 法華傳記, T51n2068, tr. 0048b21.

[51] 法華義記卷第三, T85n2748, tr. 0170a03.

[52] 法華經疏, T85n2749, tr. 0180a03.

[53] 法華經疏, T85n2750, tr. 0189b24.

[54] 法華經疏, T85n2751, tr. 0194c05.

[55] 法華問答, T85n2752, tr. 0199a16.

[56]哲学 思想事典, 岩波書店, 1998, 法華経, pp.1485-1486, 菅野博史 担当

[57] 法華義疏, 聖德太子, T56n2187, tr. 64.

[58] 法華略抄, 明一撰, T56n2188, tr. 129.

[59]法華釋文序, 釋中算 撰, T56n2189, tr. 144.

[60]法華經開題, T56n2190, tr. 172.

[61]法華經開題, 遍照闍梨記, T56, Không có số kí hiệu, tr. 175.

[62]法華經密號, T56, không có số kí hiệu, tr.182.

[63]法華略秘釋, 長寬三年四月十四日於勸修寺西明院書寫了T56,  không có số kí hiệu, tr. 183.

[64]法華經秘釋, 沙門覺欽 僎, T56n2191, tr. 189.

[65]入眞言門住如實見講演法華略儀, T56n2192, tr. 189.

[66] 法華開示抄, T56n2195,tr. 255.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 4035)
Giải thoát nghĩa là cởi mở những dây ràng buộc mình vào một hoàn cảnh đau khổ nghịch ý.
(Xem: 3572)
Trong hệ thống kinh tạng Đại thừa, Pháp Hoa là một trong những bộ kinh quan trọng và phổ biến nhất.
(Xem: 4927)
Niết-bàn (Nirvana, Nibbana) là khái niệm của Phật giáo, một tôn giáo không công nhận và không thừa nhậnThượng Đế, có thần, có linh hồn trường cửu.
(Xem: 6513)
Bài này sẽ khảo sát một số khái niệm về các hiện tướng của tâm, dựa theo lời dạy của Đức Phật và chư Tổ sư
(Xem: 3892)
Tôi ngồi đây lắng nghe quý thầy cô tụng bài kinh Bát Nhã thật hay. Ví như ngài Huyền Trang ngày xưa tuyển dịch nhiều bài Tâm kinh như thế này để ...
(Xem: 3995)
Như Lai ngài đã du hành Đạo lộ tối thắng vượt trên các ca tụng Nhưng với tâm tôn kínhhoan hỷ Tôi sẽ ca tụng Đấng vượt trên ca tụng.
(Xem: 5224)
Quy nghĩa là “quay về, trở về” hay “hồi chuyển (tâm ý)”. Y là “nương tựa”. Quy Y cũng có nghĩa là “Kính vâng” hay “Phục tùng”. Tam là chỉ ba ngôi Phật, Pháp, Tăng.
(Xem: 3685)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả
(Xem: 4406)
Từ xưa đến nay, hàng xuất gia (Sa-môn, Bà-la-môn) tu hành không trực tiếp lao động sản xuất để tạo ra của cải vật chất nên đời sống phụ thuộc vào sự bố thí, cung cấp, cúng dường của hàng tín đồ tại gia.
(Xem: 3449)
Sống chếtvấn đề lớn nhất của đời người. Trong đạo Phật, chữ sanh tử (sống chết) là một từ được nhắc đến thuộc loại nhiều nhất
(Xem: 3828)
Kinh Kim Cang Bát Nhã được ngài Cưu Ma La Thập (344-413) dịch từ tiếng Phạn sang Hán văn, và được thái tử Chiêu Minh (499-529) chia bố cục ra 32 chương.
(Xem: 4290)
Đức Phật xuất hiện trên thế gian như mặt trời phá tan màn đêm u tối. Giáo pháp của Ngài đã mang lại những giá trị phổ quát cho...
(Xem: 5290)
Khái niệm Niết-Bàn không phải là sản phẩm bắt nguồn từ Phật Giáo, mà nó đã xuất hiện từ thời cổ đại Ấn Độ khoảng hơn 4,000 năm trước Tây Lịch.
(Xem: 3737)
Quán Thế Âm tiếng Sanskrit là Avalokitésvara. Thuật ngữ Avalokitésvara vốn bắt nguồn từ hai chữ Avalokita và isvara
(Xem: 3826)
Trong khi thế giới đang có nhiều biến động phức tạp, chiến tranh, khủng bố, thù hận diễn ra khắp nơi, mâu thuẩn chính trị, kinh tế, và văn hóa luôn là vấn đề nan giải.
(Xem: 3766)
Trong cõi đời, chúng ta phải chịu đựng những sự đau đớn, khổ não nơi thân và tâm, nhưng tâm bệnh có thể được chữa khỏi bằng Phật pháp.
(Xem: 4690)
Thiên Trúc (天竺) là tên mà người Trung Quốc thường gọi cho Ấn Độ cổ đại. Nó cũng được dịch “Trung tâm của cõi trời”, (nghĩa là trung tâm tinh thần);
(Xem: 4423)
Thông thường hai chữ tu hành đi đôi với nhau; sử dụng quá quen nên hiểu một cách chung chung, đã giảm tầm mức quan trọng mà tự thân nó mang một ý nghĩa sâu sắc.
(Xem: 4151)
Đã hơn 2500 năm kể từ khi Đức Phật Thích Ca đã nhập Niết Bàn. Hiện tại chúng ta sống trong thời đại gọi là “Mạt Pháp”, trong đó ta không thể nào thấy Đức Phật thực sự được nữa.
(Xem: 3732)
Pháp thân của chư Phật, là muốn nhấn mạnh đến loại pháp thân không còn ẩn tàng trong thân ngũ uẩn như pháp thân của chúng sinh.
(Xem: 4490)
Giáo lý Tam thân (trikāya), như đã được tất cả các tông phái Phật giáo Đại thừaTrung QuốcNhật Bản chấp nhận hiện nay
(Xem: 4070)
Ngày xưa chúng đệ tử của Đức Phật có nhiều hạng người khác nhau. Tùy theo căn cơ của mỗi người, Đức Phật áp dụng phương pháp giáo hóa khác nhau.
(Xem: 5962)
Ngày nay, chúng ta thấy hầu hết các ảnh, tượng của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đều được tạo hình có tóc, điều này khiến
(Xem: 4490)
“Chiếc đồng hồ của tôi không đánh số 1 đến 12 mà chỉ có ‘now’, ‘now’, ‘now’ để nhắc nhở rằng ta đang sống”,
(Xem: 4852)
Trong tác phẩm Jataka, truyện số 238 đã đề cập về chuyện một chữ (ekapadaṃ) nhưng có nhiều nghĩa (anekatthapadassitaṃ).
(Xem: 4070)
Về tiểu sửcông nghiệp của Huyền Trang (602-664) chúng ta đã có phần viết riêng trong phần phụ lục của sách Kinh Phật
(Xem: 4731)
Đã sanh làm kiếp con người, có ai mà không khổ? Cái khổ nó theo mình từ nhỏ đến khi khôn lớn, và sẽ khổ hoài cho tới...
(Xem: 5573)
Khi Bồ-tát Long Thọ nói “bất sanh bất diệt” thì hẳn nhiên trước đó phải có cái gì đó có sanh và diệt.
(Xem: 3535)
Trong nghĩa đơn giản nhất, tu Hạnh Bồ Tát là những người ra sức hoằng pháp và không muốn Chánh pháp bị đoạn đứt, bất kể người này có thọ giới Bồ Tát hay không.
(Xem: 3941)
Bài viết này sẽ khảo sát về Vô Tướng Tam Muội, một pháp môn ít được chú ý hiện nay.
(Xem: 4504)
Cứ mỗi lần chúng ta chứng kiến người thân qua đời là mỗi lần chúng ta đau xót, buồn rầu, vì từ nay chúng ta vĩnh viễn sẽ không bao giờ được nhìn thấy người thân yêu đó trên cõi đời này nữa.
(Xem: 5173)
Như các phần trước đã nói, chân tâm không sinh diệt và vọng tâm sinh diệt luôn tồn tại nơi mỗi con người chúng ta.
(Xem: 3060)
Thiền học là một môn học nhằm mục đích đào luyện trí tuệ để được giác ngộgiải thoát sanh tử mong đạt đến niết bàn tịch tịnh
(Xem: 4636)
Khi đức Phật đản sinh, trên trời có chín rồng phun hai dòng nước ấm mát tắm rửa cho Ngài
(Xem: 4445)
Mỗi độ tháng Tư về, trong tâm thức của những người con Phật đều hiển hiện hình ảnh huy hoàng Phật đản sinh bước đi trên bảy đóa sen
(Xem: 4182)
Phật giáo Đại thừa có cách nhìn nhận mới về đức Phật và lời dạy của ngài.
(Xem: 4656)
Đức Phật Thích Ca là một đức Phật lịch sử xuất hiện giữa thế gian để dẫn dắt chúng sinh thoát khỏi khổ đau, đạt đến an lạc giải thoát.
(Xem: 4386)
Con người được sanh ra từ đâu là một nghi vấn vô cùng nan giải cho tất cả mọi giới và mãi cho đến thế kỷ 21 này vấn đề con người vẫn còn phức tạp chưa được ai minh chứng cụ thể.
(Xem: 4500)
Kinh Pháp Cú dành riêng hẳn một phẩm gọi là “Phẩm Tỳ kheo” để đề cập tới các người xuất gia.
(Xem: 7094)
Cuộc sống biến đổi không ngừng, mỗi một thời gian, mỗi một thế hệ có cách sống và nghĩ suy ứng xử có khác nhau.
(Xem: 5093)
Trước hết, thời gian vật lý là khách quan và tồn tại bên ngoài tâm trí con người và là một phần của thế giới tự nhiên, thứ hai, thời gian tâm lý chủ quan và có sự tồn tại phụ thuộc vào ý thức.
(Xem: 4890)
Hôm nay nhân ngày đầu năm, tôi có vài điều nhắc nhở tất cả Tăng Ni, Phật tử nghe hiểu ráng ứng dụng tu để xứng đáng với sở nguyện của mình.
(Xem: 4490)
Huyễn: Có nhiều nghĩa như tạm bợ, hư dối, phù du, huyễn hoặc, ảo ảnh, thay đổi luôn luôn, có đó rồi mất đó, biến dịch hoài trong từng sát-na.
(Xem: 5516)
Ngạ quỷ nghe kinh là một trong những đề tài khá quen thuộc trong kinh Phật. Người phàm thì không ai thấy loài ngạ quỷ, trừ một vài trường hợp đặc biệt.
(Xem: 5177)
Từ thế kỷ trước, người ta đã tìm được rải rác các thủ cảo (manuscripts) kinh Phật cổ xưa nhất viết bằng văn tự Kharosthi chôn ở các di tích Phật giáo ở Gandhāra, Bắc Afghanistan.
(Xem: 4062)
Thư Viện Quốc Hội Mỹ đã công bố một văn bản quí hiếm từ 2.000 năm trước của Phật Giáo và văn bản cổ này đã giúp cho chúng ta ...
(Xem: 5882)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 4593)
Trước hết xin giới thiệu sơ lược những nét chính của hai bộ kinh Đại thừa lớn ở Ấn Độ mà chúng đã trở nên đặc biệt quan trọng trong Phật Giáo Đông Á.
(Xem: 4781)
Từ khi Đức Như Lai Thế Tôn thị hiện cho đến hiện tại là 2019, theo dòng thời gian tính đếm của thế nhân thì cũng đã gần 2600 năm.
(Xem: 5367)
Tôn giả Tịch Thiên (Shantideva) là con của vua Surastra, sinh vào khoảng thế kỷ thứ VII ở Sri Nagara thuộc miền Nam nước Ấn.
(Xem: 5475)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 5684)
Này các Tỳ-kheo, ta cho phép học tập lời dạy của Đức Phật bằng tiếng địa phương của chính bản thân (sakāya niruttiyā)
(Xem: 4906)
Phật giáo có hai hệ là Theravada và Phát-Triển. Hệ Theravada quan niệm quả vị cao nhất mà hành giảthể đạt được là quả vị A-La-Hán.
(Xem: 4259)
Định học là một chi phần quan trọng trong Tam vô lậu học giới, định, tuệ .
(Xem: 4572)
Trí tuệ là sự thấu hiểu, là kiến thức liên quan đến tư tưởng đạo đức giúp ta đi sâu vào đặc điểm và biểu hiện của các đạ o lộ thông qua sự nỗ lực tinh tấn.
(Xem: 4605)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau, nhưng...
(Xem: 5766)
Có một chuyện rất khoa học, tôi không bắt quý vị phải nhắm mắt tin Phật nhưng tôi cho quý vị một gợi ý.
(Xem: 3238)
Đối với một người đã giác ngộ, sẽ không còn thấy nữ tính và nam tính nữa. Với một số vị thường quán bạch cốt, sẽ thấy thân mình và người chỉ là một nhóm xương khô đang đi đứng nằm ngồi.
(Xem: 5163)
Long Thọ hay Long Thụ (Nāgārjuna) không phải chỉ là tổ của tông Trung Quán (Madhyamika),[1] trong lịch sử phát triển Phật giáo ngài được coi là vị Phật thứ hai sau Đức Thế Tôn
(Xem: 2865)
Hạnh phúctrạng thái cảm xúc khi ta thỏa mãn được nhu cầu nào đó của bản thân. Hạnh phúc khi được nhận. Có một loại hạnh phúc khác mà cảm xúc mang đến cho bạn nhiều hơn nữa: Đó là hạnh phúc từ sự cho đi.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant