Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tổng Luận Ý Nghĩa Thọ Trì Trong Kinh Năng Đoạn Kim Cương Bát-Nhã Ba-La-Mật

08 Tháng Bảy 201513:43(Xem: 8604)
Tổng Luận Ý Nghĩa Thọ Trì Trong Kinh Năng Đoạn Kim Cương Bát-Nhã Ba-La-Mật
TỔNG LUẬN Ý NGHĨA THỌ TRÌ TRONG KINH
NĂNG ĐON KIM CƯƠNG BÁT-NHÃ BA-LA-MẬT

Phước Nguyên
*************

Tổng Luận Ý Nghĩa Thọ Trì Trong Kinh Năng Đoạn Kim Cương Bát-Nhã Ba-La-MậtTừ nơi Thánh Trí tối thượng ba-la-mật, đức Thế Tôn tuyên thuyết Kinh Năng Đoạn Kim Cương, nên Kinh này dạy rất nhiều vấn đề cốt lõi của giáo Pháp, và thọ trì là một trong những vấn đề đó. Vậy thọ trì là có ý nghĩa như thế nào?

Thọ trì 受持, từ Sanskrit gọi là udgrahītavyo, do thành lập từ tiếp đầu âm ud cộng với động từ căn grah, thường làm tất yếu phân từ, giống đực, số ít, thể cách. Có nghĩa là: thọ trì, hành trì, phụng trì v.v...Tây Tạng gọi là: གཟུང་བ།, Ed. Conze trong Diamond-sutra dịch là: seize upon.

Theo ý nghĩa đó Kinh Pháp Hoa, phẩm Phổ Hiền Khuyến Phát[1], phần đầu giải thích ý nghĩa từ ngữ “thọ trì” tức là lãnh nhận vào tâm, ghi nhớ tư duy không quên, chia ra ba phương diện:

1. Thọ trì giới luật: Bất luận người xuất gia hay tại gia, một khi đã nhận lãnh các Học xứ (Śīla) do Thế Tôn chế định thì phải thệ nguyện giữ gìn.

2. Thọ trì kinh điển: Khi thọ học kinh điển thì phải phát tâm tín giải thanh tịnh, xem và đọc với tâm cung kính, đồng thời phải luôn luôn hành trì, nhớ nghĩ. Lại tin nhận giáo pháp của Phật, gọi là thọ trì Phật ngữ; tin nhận một bộ kinh nào đó, như tín nhận kinh Pháp Hoa, gọi là thọ trì Pháp Hoa.

3. Thọ trì tam y: Nhận giữ ba y. Người xuất gia thọ nhận ba y: Tăng-già-lê (Đại Y), Uất-đa-la-tăng (Thượng Y) và An-đà-hội (Hạ Y).

Thọ trì cũng được hiểu là Lãnh Nạp 領納: Thân tâm nhận lãnh những cảm thọ vui hay buồn v.v..

Ngài Huyền Tráng ở Luận Thành Duy Thức[2] giải thích: Thọ trì tức là lãnh nạp những cảnh tượng thuận, nghịch, chẳng thuận, chẳng nghịch làm tính[3].

Còm Ý nghĩa thọ trì của Kinh Năng Đoạn Kim Cương hết sức đặc biệt.

Kinh văn nói: “…Api tu khalu puna subhūte bhaviyantyanāgate'dhvani bodhisattvā mahāsattvā paścime kāle paścime samaye paścimāyā pañcaśatyā saddharmavipralope vartamāne guavanta śīlavanta prajñāvantaśca bhaviyanti, ye imevevarūpeu sūtrāntapadeu bhāyamāeu bhūtasajñāmutpāadayiyanti[4]: Lại nữa, này Subhūi! Vào thời kỳ tương lai, thời kỳ sau cùng, trong thời kỳ chót, sống tại thời kỳ chánh Pháp bị hoại diệt, những câu trong kinh điển này, nếu được tuyên dương, thì sẽ có những vị Bồ-tát Đại sĩ đầy đủ công đức, giới hành và bát-nhã, phát sinh ấn tượng chân thật.

Như vậy, trong thời mạt kiếp, năm trăm năm sau, trong thời kỳ chánh pháp bị hủy diệt, nếu có người con trai, con gái gia đình hiền thiện nào, tiếp nhậnhành trì kinh này, cho đến chỉ một bài kệ bốn câu, tâm có khả năng sinh đức tin trong sạch, rồi lại vì người khác mà độc tụng, diễn giảng thì sinh ra phước đức vô lượng hơn phước đức cúng dường chư Phật, tháp miếu, và bố thí v.v.. người đó thành tựu công đức hiếm có bậc nhất![5]

Người nào lãnh thọhành trì Kinh Năng Đoạn Kim Cương, người đó thành tựu công đức tối thượng, Kinh gọi là: “Paramea te subhūte āścaryea samanvāgatā bhaviyanti[6]: họ là những người thành tựu công đức hiếm có tối thượng

1.    Tiếp nhậnhành trì đề kinh Năng Đoạn Năng Đoạn Kim Cương.

Kin văn: “evam ukta āyumān subhūtir bhagavantam etad avocat | ko nāma aya bhagavan dharmaparyāya katha caina dhārayāmi |evam ukte bhagavān āyumanta subhūtim etad avocat | prajñāpāramitā nāma aya subhūte dharmaparyāya | eva caina dhāraya | tatkasyaheto | yaiva subhūte prajñāpāramitā tathāgatena bhāitā saiva-a-pāramitā tathāgatena bhāitā | tenocyate prajñāpāramiteti |[7]: Bấy giờ, Tôn giả Tu-bồ-đề (Subhūti), bạch đức Thế Tôn rằng: “Pháp bản này, nên được gọi bằng tên gì? Và con nên phụng trì như thế nào?” Khi ấy, Đức Thế Tôn dạy Tôn giả Tu-bồ-đề rằng: “Pháp bản này tên là Bát-nhã Ba-la-mật đa, tôn giả hãy như thế mà phụng trì. Tại sao? Này Tu-bồ-đề! Vì do Bát-nhã Ba-la-mật đa được tuyên thuyết bởi Như Lai, chính nơi nó không phải là Bát-nhã Ba-la-mật được Như Lai tuyên thuyết.  Cho nên, gọi là Bát-nhã-ba-la-mật”

Thọ trì đề kinh Năng Đoạn Kim Cương qua ý nghĩa Giáo, Lý, Hành, Quả có năng lực nhiếp hộ Tâm Ý, chuyển hóa căn bản phiền não, làm dẫn sinh Tuệ Giác, chặt đứt khái ái và phiền não.

2. Tiếp nhậnhành trì, cách phát tâm vô trú: an trú tâm, tu tậpnhiếp hộ tâm.

Kinh văn: “Tatkatha Bhagavān Bodisattvayāna saprasthitena kulaputreņa vā kuladuhitrā vā sthātavya katha pratipattavya katha citta pragrahītavyam?[8]: Nếu có người con trai, người con gái dòng dõi, gia đình hiền thiện nào, khởi hành trên cỗ xe Bồ-tát thì phải nên an trụ như thế nào? phải nên tu tập như thế nào? Phải nhiếp hộ tâm như thế nào?

Ed. Conze dịch Anh ngữ: “…who have set out in the Bodhisattva-vehicle, stand, how progress, how control their thoughts?[9]: Người đã khởi hành với cỗ xe Bồ-tát, làm thế nào để an trú, tu tập và nhiếp phục tâm?

Trừ bản dịch của Ngài La Thập ra, các bản Hán và Anh đều có đủ ba câu hỏi của ngài Tu-bồ-đề: phương thức an trú tâm, tu tậpnhiếp hộ tâm

Bản La-Thập: Làm thế nào để an trú và phải nên hàng phục tâm như thế nào? 應云 何 住 ?云 何 降伏 其心[10]?không có câu: “…pratipattavya katha”: Làm thế nào để tu tập?

Theo Asaṅga (Vô-trước) giải thích: Ba câu hỏi mà ngài Tu-bồ-đề thưa hỏi đức Thế-tôn, nó thuộc về ‘phát khởi hành tướng’:

Câu hỏi thứ nhất: nêu lên một ước muốn hợp lý, do tâm và ý chí tác động;

Câu hỏi thứ hai: câu hỏi liên hệ đến sự thực tập hành trì các pháp môn Thiền-định;

Câu hỏi thứ ba: là câu hỏi liên hệ đến chế ngự và nhiếp phục tâm khi tâm bị thối thất hoặc tán loạn[11].

Đó là ba vấn đề quan trọng cần tiếp nhậnhành trì trong Phạn và Anh bản của Kinh Năng Đoạn Kim Cương.

3.Tiếp nhậnhành trì tinh thần không lý của Năng Đoạn Kim Cương, mà tinh thần biểu hiện qua không còn có ấn tượng về Ngã (Atmasajñā), ấn tượng về bổ-đặc-già-la (Pudgalasajñā),  về chúng sanh  (Sattvasajñā), và về thọ giả (Jīvasajñā).

Từ Atmasajñā: ấn tưởng, khái niệm hay ý tưởng về ngã.  Ngã 我, Sanskrit gọi là Ātmanthuật ngữ quan trọng của UpanisadVedāna, được dùng để diễn tả về tự ngã, thần chủ, thần ngã, thần linh hay linh hồn…  Ātman có động từ căn Van (hơi thở). Sajñā: căn jñā có nghĩa là: ý niệm, khái niệm, ấn tượng, tư tưởng, hiểu biết v.v.. ở đây đúng sát theo nghĩa Phạn văn nên chọn là là tập hợp những ấn tượng, ý tưởng hay khái niệm. La Thập dịch là Ngã tướng 我 相. Nếu dùng 相 (Skt. lakaa –tướng) thì dễ bị hiểu lầmhình tướng hay sắc tướng… Hán dịch Năng Đoạn Kim Cương chỉ có La Thập và Cấp Đa dịch là tướng, còn lại đều dịch là tưởng

Pudgalasajñā: Hán phiên âm: Bổ-đặc-già-la tưởng. Dịch là ấn tượng con người, hay ý tưởng sĩ phu. Những khí chất kết nên nhân cách con người, gọi là nhân hay sĩ phu

Sattvasajñā: ấn tượng chúng sinh, ấn tượng hữu tình. Hán dịch là Chúng sinh tưởng, hữu tình tưởng.  Sattva, từ giống đực, được thành lập từ động từ Saint, hiện tại phân từ của nó có nghĩa là “sự tồn tại” hay “sự hiện hữu” (to be hay being) và được giải thích là một chúng sinh hay hữu tình.  Một số nhà Phạn ngữ từ điển viết là sakta, như vậy nó được hình thành từ động từ căn Sanj, có nghĩa là: liên kết, nối kết, gắn bó, miệt mài, gắn chặt v.v.. Trong Pāli ngữ Satta nó có nghĩa là một chúng sinh, một hữu tình hay một con người, đồng nghĩa với དཔའ་ dpa’ của Tạng ngữ, nghĩa là một anh hùng (hero), một người dũng cảm (intrepid person),  một chiến sĩ tâm linh (heroic spirit) v.v..

Jīvasajñā. Jīvasa: ấn tượng thọ giả hay ấn tượng mệnh giả, có động từ Jīva: cá thể, chủ thể… nên Jīvasa: cá thể có sinh mạng hay chủ thể của nhân cách. Cát Tạng giải thích: “ .. Ngoại đạo chấp có thần ngã, chết nơi này sinh nơi khác, lang thang sáu đường, cho nên gọi Thọ giả”[12]. Theo Khuy Cơ: “Thấy mệnh căn đoạn diệtquá khứ, đời sau sinh trong sáu đường, gọi là Thọ giả tướng”[13]. Ngoài ra, Theo Đại phẩm bát nhã: “… danh từ Thọ giả là một trong mười sáu tên gọi khác của Ngã”[14].

Kinh nói: Lìa hết thảy ấn tượng được gọi là chư Phật Thế Tôn. Ấn tượng chưa thoát ly, thì tuệ giác trực tiếp, không bao giờ phát sinh được. Khi nào mọi ấn tượng, khái niệm được đoạn diệt khi ấy hành giả bước lên bờ giác ngộ chân như.

4. Tiếp nhậnhành trì tinh thần “Pháp và phi pháp”.

Kinh văn: “Này Tu-bồ-đề, cái nói là Phật pháp đó tức chẳng phải là Phật pháp須 菩 提!所 謂 佛 法 者,即 非 佛 法”[15]

Chúng ta có thể thấy nguyên văn Sanskrit của câu này: “… buddhadharmā buddhadharmā iti subhūte abuddhadharmāścaiva te tathāgatena bhāitā | tenocyante buddhadharmā iti[16]: Vì sao? Này Subhūti! Vì những Phật pháp được nói bởi Như Lai với tên là những Phật pháp, chính những điều ấy, không phải là Phật pháp, cho nên mới gọi chúng là Phật pháp”.

Vài bản dịch tương đương như sau:

Lưu Chi dịch: “Sở vị Phật pháp, Phật pháp giả, tức phi Phật pháp[17];

Huyền Tráng dịch: “Vi phi chư Phật pháp, thị cố Như Lai thuyết danh chư Phật pháp chư Phật pháp[18]

Ed. Conze dịch Anh Ngữ: “For the Tathagata has taught that the dharmas special to the Buddhas are just not a Buddha's special dharmas. That is why they are called 'the dharmas special to the Buddhas'”: Vì đối với đức Như Lai đã dạy rằng những pháp đặc biệt của chư Phật thật sự không phải các Pháp đặc biệt chỉ của một đức Phật. Đó là lý do vì sao chúng được gọi là “Những Pháp đặc biệt của chư Phật”.

Phật pháp 佛 法 , từ Sanskrit gọi là Buddha dharmā, Buddha có động từ căn Budh: hiểu biết, tỉnh giác, giác ngộ, tận tri, liễu tri v.v… Dharmā: động từ căn Dhr: nguyên tắc, nguyên lý,… Ed. Conze dịch là: The dharmas special to the Buddhas: Pháp đặc biệt của Chư Phật.

Trừ bản dịch Hán La ThậpBồ Đề Lưu Chi không có câu: Tenocyante buddhadharmā iti: Cho nên mới nói chúng là Phật pháp. Còn lại các bản Hán và Anh dịch Ed. Conze đều có câu này.

Vì pháp mà chư Phật nói Pháp đó không thể diễn thuyết, không thể nghĩ bàn, không thể suy lường, không thể nắm bắt đó không phải pháp cũng không pháp phi pháp. Đó cũng là giáo lý bất nhị pháp môn của Kinh Duy Ma.

5. Tiếp nhậnhành trì cách nhìn vạn Pháp, cái nhìn ngay tới ấn tượng không phải ấn tượng. Nhìn với ngũ nhãn: Nhục, Thiên, Tuệ, PhápPhật nhãn.

Kinh văn: “Này Tu-bồ-đề ! Ý ông nghĩ sao? Như Lainhục nhãn không? Bạch Thế Tôn, đúng như thế! Như Lainhục nhãn.

Này Tu-bồ-đề ! Ý ông nghĩ sao? Như Laithiên nhãn không? Bạch Thế Tôn, đúng như thế! Như Laithiên nhãn.

Này Tu-bồ-đề ! Ý ông nghĩ sao? Như Laituệ nhãn không? Bạch Thế Tôn, đúng như thế! Như Laituệ nhãn.

Này Tu-bồ-đề ! Ý ông nghĩ sao? Như Laipháp nhãn không? Bạch Thế Tôn, đúng như thế! Như Laipháp nhãn.

Này Tu-bồ-đề ! Ý ông nghĩ sao? Như LaiPhật nhãn không? Bạch Thế Tôn, đúng như thế! Như LaiPhật nhãn ».

Cách nhìn vạn Pháp theo Kinh Năng Đoạn Kim Cương là cách nhìn không bị vướng mắc bởi bất cứ cái gì. Như Lai là người có đầy đủ ngũ nhãn, nhưng ngài không vướng kẹt nơi loại nhãn quan nào, như thế mới là cách nhìn hợp lý, chính xác, trực tiếp và toàn diện.

6. Tiếp nhậnhành trì tuệ giác: vạn Pháp đều là Phật pháp.

Kinh văn: “Này Tu-bồ-đề! Tuệ giác vô thượng đích thực do Như Lai thành tựu được, ở trong đó không phải chân thực, không phải hư dối. Thế nên, Như Lai nói hết thảy pháp đều là Phật pháp”.

Năng Đoạn Kim Cương Sanskrit như sau: “Tasmāt Tathāgato bhāsïate -sarva  dharmā buddhadharmā iti.[19]: Do đó, Như Lai nói hết thảy pháp đều là Phật pháp

Hết thảy Pháp đều là Phật Pháp, nên không thể rời thế giangiác ngộ được. Đây là một trong những điểm then chốt của Kinh Năng Đoạn Kim Cương. Nếu thấy tất cả Pháp đều là Phật Pháp rồi, rồi thấy Phật Pháp cũng chẳng phải Phật Pháp, cũng như chiếc bè qua sông, chánh Pháp còn buông bỏ, huống chi là Phi Pháp. Lúc ấy, hành không còn khát ái và chấp mắc vào Pháp nữa, tiến đến cửa ngõ giải thoát.

7. Tiếp nhậnhành trì tinh thần Nhất thừa đạo, hay chính là Phật thừa, Đại thừa, Tối thượng thừa, Tối thắng thừa v.v..

Kinh văn: “Như Lai thuyết giảng kinh này vì những người khởi hành trên cỗ xe vĩ đại, thuyết giảng vĩ những người khởi hành trên cỗ xe tối thắng”.

Chúng ta đọc các tụng bản Kinh Kim Cương Hán ngữ,  chúng ta thấy không có sử dụng từ Nhất Thừa mà dùng các từ như: Bồ-tát Đại Thừa [20], Tối Thượng Thừa[21], hoặc Vô Thượng Thừa, Vô Đẳng Thừa[22]; bản Chân Đế hoặc Thắng Thừa[23], Tối Thắng Thừa[24]; Tối Thượng Thừa, Tối Thắng Thừa[25], và La Thập cùng với Nghĩa Tịnh đều sử dụng từ: Đại Thừa, Tối Thượng Thừa[26]. Truy nguyên về bản Sanskrit của Kinh Kim Cương hiện có AgrayānaŚreṣṭhayāna[27]. Từ Agra là: tối cao, tối thượng, cao nhất…; yāna là thừa, cần phân biệt: yāna: “cỗ xe” với yana: “một con đường”. Hán dịch là Tối Thượng Thừa. Từ Sanskrit Śreṣṭha: bậc nhất, cao nhất, Nên Śreṣṭhayāna là cỗ xe bậc nhất, cỗ xe tuyệt bậc, vượt trên hết. Hán dịch là Tối Thắng Thừa, Vô Đẳng Thừ v.v..

Đây là phù hợp với tinh thần giáo nghĩa của Kinh Pháp Hoa, chỉ có một cỗ xe tối thắng, một cỗ xe duy nhất đó chính là Phật thừa.

9. Tiếp nhậnhành trì đức tin Năng Đoạn Kim Cương, để thấy được sự chuyển hóa tự thân và hoàn cảnh thời đại.

Kinh văn: “Lại nữa, này Tu-bồ-đề! Nếu có người con trai, người con gái gia đình hiền lành nào, thọ nhận, hành trìđọc tụng kinh này, nếu bị người khinh chê, thì người này do tội nghiệp đời trước đáng lẽ phải đọa vào đường ác, nhưng nhờ đời này bị người khinh chê, nên tội nghiệp đời trước ắt bị tiêu diệt, sẽ đạt được quả Tuệ giác tối thượng đích thực.”[28]

Vì Kinh này có năng lực chặt đứt mọi phiền não, phiền não không sinh khởi thì tội lỗi làm sao có. Do vậy, hành giả thành tựu Như trí hay cũng chính là thành tựu được Tuệ Không vậy.

Tóm lại, cần phải tiếp nhậnhành trì pháp “không có khởi sinh mọi ấn tượng” Tại sao? Vì:

 “n tượng” tức là Nhất Pháp, khiến cho hết thảy pháp sinh khởiđồng quy;

n tượng” là Nhất Hành khiến cho hết thảy hành từ đó khởi phát và đó cũng là điểm đồng quy của muôn hành;

n tượng” là Nhất Đạo, khiến cho hết thảy đạo từ đó mà đi và đó cũng là điểm đồng quy của muôn đạo;

n tượng” là Nhất Thừa khiến cho Tam thừa từ đó mà khởi hành và cũng là điểm đồng quy của Tam thừa

Và cũng vì là Nhất Thừa Đạo, là con đường duy nhất thể nhập bản tính: Thường – Lạc – Ngã  -Tịnh của Niết-bàn.

Đó là ý nghĩa thọ trì đặc biệt và tinh yếu nhất qua cách nhìn của Kinh Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật.

 

Rừng Lu-mu, An cư PL. 2559.

[Trích Tổng Luận Kinh Kim Cương PN]
Phước Nguyên



[1] Cf 妙法蓮華經, 後秦龜茲國三藏法師鳩摩羅什奉 詔譯, T09n0262, tr. 0001a01;勝鬘寶窟卷上, T37n1744, tr. 0001c02.

[2] Quyển 3, Đại 31, tr. 11bc.

[3] Cf. Tứ Phần Luật San Phồn BKhuyết Hành SSao, q.thượng, phần 1, tiết 3.

[4] Buddhist Sanskrit Texts, No.17, Vajra., tr. 77.

[5] Phạn – Hán đối chiếu đối chiếu dịch nhiều đoạn. Đại 08, No. 0235, tr. 0749a28: 莫作是說。如來滅後,後五 百歲,有持戒修 福  者,於此章句能生信 心,以 此為實.

[6] Buddhist Sanskrit Texts, No.17 p.77.

[7] Buddhist Sanskrit Texts, No.17 p.77.                               

[8] Buddhist Sanskrit Texts, n17p75. Cf. Htr.:爾時,具壽善現復白佛言:「世尊,諸有發趣菩薩乘者,應云何住、云 何修行、云何攝伏其心?」 Nght.: “復次,妙生白佛言:「世尊,若有發趣菩薩乘者,應云何住、云何修行、 云何攝伏其心?”

[9] The Diamond-sutra, Edward Conze, Luân Đôn, 1957.

[10] T08 No 0235, tr. 0748c28- tr.0748c29.

[11] Kim Cương Bát Nhã Luận, Đại 25, tr.757ab.

[12] Cf. Kim cương bát nhã sớ Đại 33, No 03.

[13] Cf. Kim cương bát nhã kinh tán thuật quyển thượng, Đại 33, No 131.

[14] Bản Huyền Tráng dịch, Đại 7, No 02.

[15] Đại 08n0235, tr. 0749b25.

[16] Bud. No 17, p77.

[17] Đại 08, tr. 753c05.

[18] Đại 07, tr. 981a24.

[19] Vajracchedikā prajñāpāramitā sūtra, Buddhist Sanskrit Texts, No.17 p.80.

[20] Bản Bồ Đề Lưu Chi 1, T08, tr.752c.

[21] Sđd, tr.755a.

[22] Bản Bồ Đề Lưu Chi 2, T08, tr.579c.

[23] Chân Đế, T08, tr.674b.

[24] Cấp Đa, T08, tr 769b.

[25] Huyền Tráng, T07, tr.983a.

[26] La Thập, T08, tr.750c; Nghĩa Tịnh,T08, tr.773c.

[27] Buddhist Sanskrit Text, No 17, P 80.

[28] Ibid, tr. 79.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1614)
Giáo lý Duyên khởi là nền tảng của triết học Phật giáo, do đó luôn là tâm điểm của những nghiên cứu về sự uyên nguyên của đạo Phật.
(Xem: 1611)
Đức Phật khẳng định: “Trong giáo pháp nào nếu khôngtám Thánh đạo thời ở đó không có quả vị Sa-môn thứ nhất, thứ nhì, thứ ba, thứ tư.
(Xem: 1007)
Duyên khởi có nghĩa là hết thảy hiện tượng đều do nhân duyên mà phát sinh, liên quan mật thiết với nhau, nương vào nhau mà tồn tại. Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính,” không có yếu tính quyết định.
(Xem: 1479)
Trong các kinh điển thuộc Hán tạng, ‘Phật thị hiện thuyết pháp’ có thể được xem như là một ‘thuật ngữ’ quen thuộc, phổ biến đối với quý Phật tử Đại Thừa.
(Xem: 1462)
Con người được sinh ra đời, sống trong cuộc đời nhưng càng lớn lên càng cảm thấy mình như vẫn thiếu thốn cái gì, như vẫn là một người thất lạc.
(Xem: 1637)
Có lần khi nói về tám thức tâm vương trong Duy thức học, một người hỏi rằng “con người lo sợ là do thức nào?”.
(Xem: 1907)
Giác ngộ cũng tức là giải thoát. Giải thoát cái gì ? Giải thoát khỏi sinh tử luân hồi, điên đảo mộng tưởng, giống như người đang nằm mơ chợt tỉnh dậy,
(Xem: 1486)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1325)
Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn, còn gọi là Bồ-đề Tát-đa,… Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn (sanskrit), còn gọi là Bồ-đề Tát-đa
(Xem: 1344)
Kính lễ Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn Nay con đem tâm phàm phu suy diễn thánh pháp Là nhờ những bậc tiền bối đã khai triển Pháp này Xin Ngài gia bị cho tâm phàm phu chuyển thành thánh trí
(Xem: 1514)
Con xin đê đầu kính lễ Phật – bậc Nhất thiết trí – đấng Mặt trời tròn thanh khiết. Những tia sáng lời dạy của Ngài đã phá tan bóng đêm trong bổn tâm của chư thiên, loài người và các đường ác.
(Xem: 1117)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau trong suốt nhiều thế kỷ liền đã nỗ lực lý giải khái niệm này bằng cách tận dụng sự hiểu biết hạn chế của mình.
(Xem: 1241)
Dưới đây là một vài dẫn khởi có tính cách thực tiễn đối với sự tu tập công án, được đề ra do các Thiền sư qua nhiều thời đại; từ đó, chúng ta có thể thấy rõ một công án sẽ làm được việc gì để khai triển ý thức Thiền và cũng thấy rõ sự tu tập công án đã bộc lộ cho khuynh hướng nào theo thời gian.
(Xem: 1244)
Có hai hình ảnh quen thuộc gợi lên ý tưởng biến dịch: như dòng sông và như ngọn lửa bốc cháy trên đỉnh núi. Mỗi hình ảnh lại gợi lên một ý nghĩa tương phản: tác thành và hủy diệt.
(Xem: 1673)
Thời gian là một hiện tượng bí ẩn nhất và cũng là sít sao nhất với cuộc sống mỗi người.
(Xem: 1621)
Một thời Thế Tôn trú ở Nālandā, tại rừng Pāvārikamba. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta bạch Thế Tôn:
(Xem: 2912)
Duyên khởi cho bài viết này là từ một bản tin BBC News có nhan đề “Thiền định chánh niệm có thể khiến con người xấu tính đi?”— và từ một số cuộc nghiên cứu khác đã giúp chúng ta có cái nhìn đa diện hơn về Thiền chánh niệm, một pháp môn nhà Phật đang thịnh hành khắp thế giới.
(Xem: 1798)
Khi sinh ra và lớn lên trong cuộc đời này mỗi người đều mang trong mình một huyết thống mà tổ tiên bao đời đã hun đúc, giữ gìntruyền thừa qua nhiều thế hệ.
(Xem: 1353)
Vấn đề tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni phạm tội ba-la-di, thời Phật nghiêm khắc không cho sám hối đều có lý do. Với những lý do đó giống với xã hội bây giờ, cho nên trong chương này chúng tôi thảo luận chung cả hai giai đoạn thời Phật và cuộc sống hiện tại.
(Xem: 1206)
Hiện nay trong nguồn văn hiến hệ Hán truyền, chúng ta tìm thấy nhiều từ ngữ liên quan đến ý nghĩa sám hối như “hối quá 悔過”, “sám hối 懺悔”, “sám-ma 懺摩”, “phát lồ 發露”, thực chất tất cả đều xuất thân từ nghĩa gốc Phạn ngữ (Sanskrit) là từ: kṣama, kṣamayati.
(Xem: 1264)
Trong dòng chảy tâm thức của nhân loại từ xa xưa và cho đến nay luôn chia thành hai hướng, một hướng chảy theo dòng chảy Luân hồi (Saṃsāra), là số chúng sinh tâm tư cấu bẩn phiền não, ngụp lặn trong bùn lầy ố trược.
(Xem: 1378)
Những người con Phật chơn chính, thì lúc nào và ở đâu, họ cũng thực hành phápchánh pháp trở thành đời sống của chính họ. Họ được nuôi dưỡng ở trong chánh pháp và họ vui sống trong chánh pháp mỗi ngày.
(Xem: 1297)
Sự ra đời của Đức Phật nghiễm nhiên đã trở thành sự kiện quan trọng nhất trong suốt mấy ngàn năm tư tưởng Đông phương. Hiện tượng Lâm-tỳ-ni, chính vì thế, đã trở thành một hiện tượng đặc sắc đáng để mọi người nghiên cứu Phật học quan tâm.
(Xem: 1896)
Tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi đau khổ lớn. Đây là động cơ lớn thúc đẩy Thái tử ra đi tìm chân lý.
(Xem: 1646)
Như huyễn là một tính cách, một phương diện của tánh Không. Tánh Khôngvô tự tánh của mọi cái hiện hữu, và vì vô tự tánh nên như huyễn.
(Xem: 1862)
Theo quan niệm nhà Phật thì con người tự ràng buộc mình trong nỗi khổ đau do chính mình gây ra.
(Xem: 1793)
Trên lộ trình hướng về Phật đạo, tôi có duyên được “làm người đưa đò” tại ...
(Xem: 2366)
Bình đẳng tánh trí là gì? Là tánh bình đẳng của đại viên cảnh trí, nghĩa là tánh bình đẳng của tất cả mặt gương và của tất cả bóng hình in vào đó.
(Xem: 1772)
Theo truyền thống Phật giáo Nam tông, y cứ theo lịch Ấn Độ cổ đại, Vũ kỳ An cư (Vassavāsa) bắt đầu từ ngày 16 tháng 6 (tháng Āsālha) và kết thúc vào ngày 16 tháng 9 (tháng Āssina).
(Xem: 2100)
Vào thời Đức Phật, xã hội Ấn Độ rất nhiều học thuyết ra đời, mỗi học thuyết là một quan điểm chủ trương.
(Xem: 2165)
Trong bài này chúng ta sẽ tìm hiểu sơ lược về Đại viên cảnh trí, và trích toàn bộ đoạn nói về trí này trong Kinh Phật Địa, do Tam tạng Pháp sư Huyền Trang dịch ra tiếng Hán.
(Xem: 2280)
am Vô Lậu Học là môn học thù thắng gồm: Giới, Định và Tuệ trong đạo Phật.
(Xem: 1827)
Khi đạo Phật nói về tánh chất của khổ, có nhiều mức độ khổ khác nhau.
(Xem: 1948)
Dân gian thường nói, không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời. Rất khó giải thích về“ba họ” và “ba đời”.
(Xem: 1999)
Chúng ta đã thấy nguồn gốc của kinh tạng Phật giáo phát khởi từ ba kỳ kết tập kinh điển (saṅgīti).[1]
(Xem: 1916)
“Tất cả là vô thường” là một trong ba nguyên lý căn bản của Phật giáo (vô thường, vô ngã và niết-bàn tịch tịnh)
(Xem: 2564)
Không có kinh sách nào, Đức Phật dạy: Phải cầu nguyện, hay nương tựa vào một ai đó, ngay cả việc nương nhờ vào chính Ngài.
(Xem: 1915)
Bản tâm, tự tâm, bản tánh, tự tánh là những danh từ được Lục Tổ Huệ Năng sử dụng trong những lời thuyết pháp của ngài để...
(Xem: 1851)
Muốn thực hiện một đời sống đạo đức, mang lại hạnh phúc cho bản thân cũng như tha nhân thì trước hết con người ấy phải được giáo dục.
(Xem: 1921)
Như chúng ta đã biết, từ xưa lắm các triết gia và sử gia phương Tây từng đưa ra những định nghĩa về con người,
(Xem: 1866)
Sám hối là một thực hành tu tập quan trọng và phổ biến trong Phật giáo. Sám hối là...
(Xem: 2130)
Chúng ta hãy khởi đầu đọc kinh Kim-cang như một tác phẩm văn học. Giá trị văn học là sự biểu hiện thẩm mỹ của nội dung tư tưởng.
(Xem: 2266)
“Bà lão nghèo ngộ pháp Duyên khởi” là bản kinh chúng tôi giới thiệu kỳ này. Nguyên tác “Phật thuyết lão nữ nhơn kinh 佛說老女人經
(Xem: 1944)
“Kinh Căn Tu Tập / Indriya bhàvanà sutta” là bài kinh cuối cùng trong số 152 bài kinh đăng trong Trung Bộ Kinh do...
(Xem: 2048)
Theo Phật giáo, pháp có nghĩa là giáo pháp của Phật. Những lời dạy của Đức Phật chuyên chở chân lý.
(Xem: 1833)
Như Đức Phật đã dạy, một đặc điểm của Giáo Pháp thuần túy là những hiệu ứng phải được thể nghiệm tức khắc lúc này và nơi này, ngay trong cuộc đời này
(Xem: 1882)
Căn cứ thông tin từ tác phẩm Ni trưởng Huỳnh Liên - cuộc đờiđạo nghiệp do Ni giới hệ phái Phật giáo Khất sĩ ấn hành vào năm 2016 thì...
(Xem: 2387)
Từ khi đạo Phật du nhập vào Việt Nam, chúng ta thấy rõ là bất cứ khi nào truyền thống dân tộc nép mình để đi trong dòng sinh mệnh của đạo Phật thì...
(Xem: 2300)
Dựa vào lịch sử Đức Phật, chúng ta được biết, Thái tử Sĩ Đạt Ta (Siddhattha) khi chào đời, bước đi bảy bước, có bảy hoa sen đỡ chân
(Xem: 3912)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2451)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 3153)
Bốn mươi chín ngày sau khi đạt giác ngộ, Đức Phật bi mẫn và thiện xảo đã thuyết Tứ Diệu Đế cho năm vị đệ tử may mắn tại Varanasi.
(Xem: 2441)
Nếu có ai đó yêu cầu tóm tắt toàn bộ giáo lý Phật giáo trong một vài từ ngữ gọn gàng, không cần dài dòng văn tự, tôi sẽ không do dự trả lời rằng, đó là : Ngũ uẩn giai không.
(Xem: 2028)
Bằng sự tu tập lâu dài, vượt qua vách sắt thành đồng của địa ngục Thiết Vi hay sự co duỗi của bàn tay trước mắt mà ta vươn tới sự giải thoát thời đoạn, cuối cùngsự giải thoát hoàn toàn.
(Xem: 1780)
Đức Di Lặc tiếp tục giảng cho đồng tử Thiện Tài về Bồ đề tâm: “Tại sao vậy? Vì nhân nơi Bồ đề tâm mà xuất sanh tất cả Bồ tát hạnh.
(Xem: 3284)
Cộng đồng Tăng Già gồm tứ chúng Tăng NiPhật tử tại gia Nam Nữ với một hội đồng gồm ít nhất là bốn vị Tăng, hay một cộng đồng Tăng Ni sống hòa hiệp với nhau trong tinh thần lục hòa.
(Xem: 2324)
Đến nay, vấn đề xác định kinh điển Phật thuyết hay phi Phật thuyết vẫn là nội dung được các học giả quan tâm nghiên cứu
(Xem: 2999)
Nhiều học giả phương Tây nhận định rằng khái niệm Niết bàn, tức nirvāṇa trong Sanskrit hay nibbāna trong Pali, có thể xem là ...
(Xem: 2675)
Hãy thử tưởng tượng một đoàn người đang ngồi trên một chiếc thuyền trôi giữa biển, trong đêm tối. Sự nhỏ nhoi của con thuyền...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant