Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tất Cả Là Không (song ngữ)

11 Tháng Bảy 201507:25(Xem: 9479)
Tất Cả Là Không (song ngữ)

Tất Cả Là Không
(It Is All Empty -  Gil Fronsdal)

Gil Fronsdal - Chuyển Ngữ: Nguyễn Văn Tiến


Tất Cả Là Không (song ngữ)Tất Cả Là Không

Mushin là một trong những nhà sư rạng rỡ hơn ai hết, trong tu viện. Sự an lạctính tình vui vẻ của ông, đã gây nguồn cảm hứng cho những ai tiếp xúc với ông. Ông dường như chẳng mong cầu gì cả, ông có tài riêng, là ông đến đúng nơi, và đúng lúc, khi có người cần ông giúp đỡ. Ông là người dọn dẹp trong tu viện, và ông luôn luôn kỹ lưỡng trong công việc ông làm, và chưa ai từng thấy ông bị khó chịu bởi bất cứ điều gì.

Một hôm tôi hỏi ông rằng, ông có gặp khó khăn trong cuộc sống ở tu viện không. Sau đây là những gì ông nói với tôi:

"Trước khi đến tu viện, cuộc sống của tôi rất khó khăn. Tôi thậm chí còn nghĩ đến việc tự tử, bởi vì tôi có quá nhiều đau khổ. Đối với tôi, tu việncon đường cùng. Tôi xem đây là cơ hội cuối cùng của tôi. Lần đầu, khi tôi đến đây, nhà sư trụ trì phỏng vấn tôi rất lâu. Ông đã hỏi tôi rất nhiều câu hỏi. Tôi đã nói với ông rất nhiều điều, mà tôi chưa bao giờ tiết lộ với ai cả. Vào phút cuối của buổi phỏng vấn, ông đã chào mừng tôi được ông nhận vào tu viện. Trước khi tôi chào ông từ giã, tôi hỏi ông chuyện thực hành tinh thần gì, mà tôi nên thực hiện. Vị sư trụ trì già ngước lên nhìn tôi với lòng từ bi, và sự tự tin, nên tôi nghĩ rằng ông đang chuẩn bị nói với tôi một điều gì rất quan trọng. Nhưng tôi đã nhầm khi câu ông nói chỉ là 'Hãy luôn luôn nhớ rằng, đi qua mọi cánh cửa, với tâm không-có-điều-kiện, và với tâm không-có-sự-hạn-chế.'

"Cả ngày hôm đó, tôi tự hỏi chắc là tôi đã nghe nhầm, nghe không có chính xác. Bởi vì, lời khuyên đi bộ qua những cánh cửa, lại có thể giúp ích cho kẻ chán đời, giống như tôi? Tôi nghĩ, có lẽ, vị sư trụ trì già nầy đang lú lẫn chăng.

"Nhưng ngày hôm sau, trước sự ngạc nhiên của tôi, những cánh cửa tu viện bắt đầu nói chuyện với tôi. Mỗi lần, tôi đi qua một cánh cửa, tôi nghe thấy một tiếng thì-thầm không rõ ràng. Lúc đầu, tôi nghĩ rằng tôi đang tưởng tượng, vì vậy tôi đã không thật tình chú ý. Nhưng sau khi tiếng thì-thầm nầy cứ tiếp tục xảy ra, nên tôi cố gắng hết sức mình, lắng nghe tiếng nói của những cánh cửa. Cuối cùng, tôi đã hiểu ra được câu nói nầy. Dường như mỗi cánh cửa, đang thì thầm những câu tương tự như: 'Tất cả là không.'

"Tôi hỏi những nhà sư khác, nếu họ có nghe những tiếng nói từ những cánh cửa, nhưng chẳng có ai nghe gì cả. Tôi hỏi họ có biết ý nghĩa của 'Tất cả là không.' Họ chỉ mỉm cười, và nhún vai, như thể họ chẳng có manh mối gì.

"Tôi quyết định, khá nhanh, rằng những tiếng nói là một lời nhắc nhở, về cuộc đời mà tôi đã bỏ lại phía sau lưng. Tất cả của cải của tôi, đi cùng với sự-theo-đuổi bất tận, mà tôi đã chạy theo sau, giống như là sự khao khát sôi sục để được mọi người ghi nhận thành tích của tôi, giống như là các tình cảm lăng nhăng vô độ của tôi với phụ nữ; tất cả điều nầy, thật sự, là không. Những cánh cửa thì-thầm dường như thể trấn an tôi rằng, tôi đã quyết định đúng đắn khi đến tu viện nầy. Những cánh cửa đã nhắc nhở tôi rằng, chẳng còn có điều gì bên ngoài các bức tường tu viện, để cho tôi rượt đuổi.

"Vì thế, đây là lần đầu tiên, những tiếng nói làm cho tôi hạnh phúc. Tin tưởng rằng thế giới mà tôi để lại phía sau lưng là sự tầm thường, không-quan-trọng, tôi hết lòng sống trong giới luật của tu viện. Thật là một niềm vui, khi tôi cuối cùng đã tìm ra được một cuộc sống có ý nghĩa! Tuy nhiên, những cánh cửa vẫn tiếp tục thì-thầm 'Tất cả là không,' cuối cùng, tôi bắt đầu hoài nghi về cuộc sống tu viện của tôi, có thật sự là tốt đẹp hay không. Hay là, cuộc sống trong tu viện nầy, cũng trống rỗng, và vô nghĩa? Tiếng nói càng lúc càng to hơn, như muốn làm tăng thêm sự lo lắng trong tâm tôi.

"Rồi, không lâu sau đó, tôi cảm thấy cuộc sống trong tu viện, cũng mang đến cho tôi nhiều thất vọng, giống y hệt như cuộc sống trước kia của tôi. Tôi đang cố gắng đi tìm một điều gì đó, để đem lại ý nghĩa, và mục đích cho cuộc sống, nên tôi đã quyết định dành nhiều thời gian cho thiền định, và qua đó phát triển đời sống nội tâm của tôi. Chắc chắn, việc theo đuổi thành tựu về tinh thần, sẽ thật sự có ý nghĩa.

"Việc thực hành thiền định, dường như làm nhẹ đi sự tuyệt vọng trong tim tôi, và khi tôi thiền định sâu xa, đã mang đến cho tôi tràn đầy sự tự tin. Tôi bắt đầu cảm thấy khá hạnh phúc, thậm chí tôi còn vui vẻ, và không còn quan tâm đến tương lai. Tôi đã tìm thấy chìa khóa của hạnh phúc, và tôi đã bị thuyết phục rằng, tôi đã vượt qua mọi nhà sư khác về sự cao quý. Nhưng mỗi khi tôi rời thiền đường, những cánh cửa lại thì-thầm, 'Tất cả là không.'

"Sau một thời gian, điều nầy bắt đầu chà xát, thân tâm tôi. Tôi ngày càng trở nên tức giận, vì những tiếng nói có vẻ gợi ý rằng, danh-tính-mới của tôi như là một người có tinh thần sâu sắc, thật ra là sự trống rỗng. Khi cơn giận trở nên quá sức tôi chịu đựng, tôi đã bị buộc phải thừa nhận rằng, sự kiêu căng, và lòng tự phụ của tôi, cũng chỉ là sự trống rỗng.

"Khi sự tức giận trôi qua, tôi tiếp tục với sự thực hành thiền định. Cuối cùng, với tôi chẳng còn điều gì, có ý nghĩa nữa. Nhưng sau đó, những tiếng nói bắt đầu bình luận về sự thiền định. Tôi nghe, một lần nữa, 'Tất cả là không.' Như vậy, chính thiền định cũng chẳng có ý nghĩa gì cả à?

"Sự tuyệt vọng của tôi, đã trở lại với một sự trả thù. Tôi đã cố gắng trốn chạy vào phòng của tôi, do đó tôi sẽ không phải đi qua bất cứ cánh cửa nào. Tôi đã trèo qua cửa sổ bất cứ khi nào tôi có thể làm được. Nếu tôi phải đi qua một cánh cửa, tôi chạy băng qua, cố gắng giữ khoảng cách giữa tôi và những giọng nói. Nhưng giờ đây, những tiếng nói đã trở nên thật lớn. Khi tôi chạy xuống hội trường, cụm từ 'Tất cả là không' vang vọng sau lưng tôi.

"Sau một thời gian, mọi suy nghĩ tôi có, mọi mong muốn tôi hy vọng, và mọi nỗ lực của tôi, đều bị tấn công bởi câu 'Tất cả là không,' đang vang vọng ra khắp tu viện. Tôi không thể nào chịu đựng được nữa. Tôi chạy về phía trước cổng tu viện, và tôi có ý định đi tìm một vách núi cao, rồi nhảy xuống tự tử. Thật là một điều vô lý để tiếp tục sống, khi mà cuộc sống lại quá khó khăn như thế nầy. Trên đường tôi đi đến cổng trước, những cánh cửa trở nên lớn hơn, nhưng mờ nhạt trước mắt tôi. Tôi đã quá sợ hãi để vượt qua những cánh cửa. Tôi cảm thấy tôi không thể nào tồn tại, nếu tôi phải nghe thêm một câu nói 'Tất cả là không.'

"Tôi đứng đó, thân tâm buốt giá, trong một thời gian rất lâu, nhưng sau đó, tôi nhớ đến câu thực hành mà vị sư trụ trì già đã nói với tôi, vào ngày đầu tiên tôi đến tu viện: 'Hãy luôn luôn nhớ rằng, đi qua mọi cánh cửa, với tâm không-có-điều-kiện, và với tâm không-có-sự-hạn-chế.' Lời hướng dẫn dường như trống rỗng, và vô nghĩa, khi lần đầu tiên tôi nghe nó. Bây giờ, nó trở nên rất to lớn. Tuy nhiên, tôi không thể chế ngự được chính mình, để đi qua cửa trước.

"Bên trong đầu tôi, một giọng nói liên tục lặp lại 'Tất cả là không. Tất cả là không.' Tâm tôi không thể tìm thấy bất cứ sự vật gì để dựa vào, bởi vì khi tâm tôi làm như thế, tôi lại được nhắc nhở rằng, sự vật nầy cũng là không. Tâm tôi càng ngày càng trở nên thu-nhỏ-lại, quay ngược trở vào trong tâm. Tâm tôi đẩy ra ngoài mọi thứ, cho tới khi những-gì-còn-lại trong tôi, chỉ là tâm sợ hãi. Sau đó, lần cuối cùng, một giọng nói bùng nổ ra, 'Tất cả là không,' và với câu nói nầy, tôi buông xả tâm tôi. Tôi đưa chân tôi quay trở lại, rồi, một lần nữa, tôi bước vào tu viện.

"Kể từ ngày đó, những tiếng nói đã ngừng lại, và tôi đã không bao giờ phải lo lắng, về ý nghĩa của bất cứ điều gì. Không-tuyệt-vọng, và cũng không-hy-vọng, đều thích hợp, đối với tôi. Hạnh phúc thay cho chúng ta, tánh-không thấm qua tất cả mọi vật."

 

It Is All Empty

Mushin was one of the more radiant monks in the monastery. His peace and joy inspired everyone who met him. Never seeming to want anything, he had a knack for being in the right place at the right time when others needed help. He was always thorough in doing his job as the monastery janitor and no one had ever seen him bothered by anything.

One day I asked him if monastic life had ever been difficult. This is what he said:

“Before coming to the monastery, my life was very hard. I even considered ending my life because my suffering was so great. For me the monastery was the end of the road. I saw it as my last chance. When I first arrived I had a long interview with the abbot. He asked me lots of questions. I told him things about my life that I had never revealed to anyone. At the end of the interview he welcomed me to the monastery. As I took my leave, I asked what sort of spiritual practice I should undertake. The old abbot looked up at me with such compassion and confidence that I thought he was preparing to tell me something very important. But I was confused when all he said was, ‘Always walk completely through the doors.’

“For the rest of that day I wondered if I had heard correctly. How could walking through doors be helpful advice to someone as despondent as me? Perhaps the old man was becoming senile.

“But the next day, to my surprise, the monastery doors started talking to me. Every time I went through a door I heard a faint whisper. At first I thought I was imagining it so I didn’t give it much attention. But when the whispering kept occurring, I strained to hear what was being said. Finally, I was able to make out the words. It seemed each door was whispering the same thing: ‘It is all empty.’

“I asked the other monks if they too heard the voices but none did. I asked them if they knew the meaning of ‘It is all empty.’ They just smiled and shrugged their shoulders, as if they didn’t have a clue.

“Pretty quickly I decided that the voices were a reminder of the life I had left behind. All my possessions, along with the endless pursuits I had run after, the burning drive for recognition, the insatiable womanizing; all of that was indeed empty. The whispering doorways seemed to be reassuring me that I had made the right decision in coming to the monastery. They were reminding me that no longer was there anything outside the monastery walls for me to go after.

“So, at first, the voices made me happy. Convinced that the world I left behind was shallow, I threw myself wholeheartedly into the monastic routine. What a delight it was to have finally found a meaningful life! But as the doorways continued to whisper ‘It is all empty,’ I eventually began to have doubts about my monastic life as well. Was this life also hollow, meaningless? Adding to my concerns, the voices started to grow louder.

“Before long I felt as much despair about monastic life as I had about my previous life. Trying to find something that would give meaning and purpose to my life, I decided to devote more time to meditation and thereby develop my inner life. Certainly the pursuit of real spiritual attainments would be meaningful.

“The meditation practice seemed to lighten my despair, and when my meditations were deep I was filled with confidence. I began to feel quite happy, even happy-go-lucky. I had found the key to happiness and was convinced that I was surpassing all the other monks in holiness. But every time I left the meditation hall the doors whispered again, ‘It is all empty.’

“After a while this began to grate on me. I became increasingly angry because the voices seemed to suggest that my newfound identity as a deeply spiritual person was empty. When the anger became too much to bear, I was forced to admit that I had been caught in pride and that my vanity, too, was empty.

“Once the anger passed, I carried on with my meditation practice. After all, nothing else seemed to make sense. But then the voices starting commenting on the meditation itself. I heard again ‘It is all empty.’ Did this mean that meditation itself was meaningless?

“My despair returned with a vengeance. I tried hiding in my room so I wouldn’t have to go through any more doors. I took to climbing through windows whenever possible. If I did have to pass through a door, I ran through trying to distance myself from the voices. But by now the voices had grown very loud. As I ran down the halls the phrase ‘It is all empty’ echoed after me.

“After a while, every thought I had, every wish I hoped for, and every effort I made was assaulted by ‘It is all empty’ resonating throughout the monastery. I couldn’t take it anymore. I ran toward the front gate of the monastery intending to find a tall mountain cliff and throw myself off. It no longer made sense to keep on living if life was going to be so hard. But as I came to the front gate the doors loomed large in front of me. I was too frightened to pass through them. I felt I couldn’t survive one more voice telling me that ‘It is all empty.’

“I stood there, frozen for a long time, but then remembered the practice the old abbot had given me on my first day in the monastery: ‘Always walk completely through the doors.’ The instruction seemed so empty and meaningless the first time I heard it. Now it seemed monumental. Still, I could not manage to get myself to pass through the front gate.

“Inside my head, a voice kept repeating ‘It is all empty. It is all empty.’ My mind couldn’t find any object to rest on because when it did I was reminded that it too was empty. My mind became increasingly contracted, turning in on itself. It kept pulling away from everything until all that was left was the frightened mind itself. Then, one last time, a voice boomed out, ‘It is all empty,’ and with that I let go of my mind. I turned around and re-entered the monastery.

“Since that day the voices stopped and I’ve never again worried about the meaning of anything. Neither despair nor hope is relevant for me. Happily, emptiness permeates everything.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 7355)
“Thừa Tự”, theo quan niệm phong kiến xưa, có nghĩa là thọ hưởng của “hương hỏa” với trách nhiệm nối dõi việc thờ cúng Tổ tiên.
(Xem: 4521)
Nhà nghiên cứu phật học K.SCHMIDT1 đã có lần nêu lên những điểm tương đồng giữa tri thức luận của Kant và của Phật học,
(Xem: 4574)
Theo đức Phật, vũ trụ không có khởi nguyên, không có tận cùng và khoảng không vũ trụ vốn vô tận, gồm vô số thế giới như cát sông Hằng (Gangânadivâlukopama).
(Xem: 7340)
Phàm tất cả vạn pháp, vạn hữu trong vũ trụ được sanh ra và có mặt trên thế gian này đều có nguyên nhân, nguyên do đầu mối của nó.
(Xem: 2965)
Chữ khám phá ở đây rất chính xác. Không có sự truyền giáo của đạo Phật đến người Tây phương. Và, tuy người Âu châu khám phá đạo Phật rất trễ, nhưng đó là sự khám phá vô cùng lý thú.
(Xem: 12220)
“Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao Tăng làm sáng cho Phật giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ 6 mãi đến nay đều là các Thiền sư.”
(Xem: 3996)
“Nguyên nhân hình thành Phật giáo Đại Thừa” là một đề tài có phạm trù không rộng lắm, nên ít có người khảo sát và nguồn tư liệu về nó cũng rất hạn chế.
(Xem: 3807)
Những gợi ý dưới đây có thể giúp chúng ta lĩnh hội được ý nghĩa thâm sâu, khó hiểu của kinh một cách hiệu quả, đồng thời giữ gìn sự trung thực với nội dung của ý kinh.
(Xem: 4225)
Giải thoát nghĩa là cởi mở những dây ràng buộc mình vào một hoàn cảnh đau khổ nghịch ý.
(Xem: 3686)
Trong hệ thống kinh tạng Đại thừa, Pháp Hoa là một trong những bộ kinh quan trọng và phổ biến nhất.
(Xem: 5064)
Niết-bàn (Nirvana, Nibbana) là khái niệm của Phật giáo, một tôn giáo không công nhận và không thừa nhậnThượng Đế, có thần, có linh hồn trường cửu.
(Xem: 6688)
Bài này sẽ khảo sát một số khái niệm về các hiện tướng của tâm, dựa theo lời dạy của Đức Phật và chư Tổ sư
(Xem: 4011)
Tôi ngồi đây lắng nghe quý thầy cô tụng bài kinh Bát Nhã thật hay. Ví như ngài Huyền Trang ngày xưa tuyển dịch nhiều bài Tâm kinh như thế này để ...
(Xem: 4126)
Như Lai ngài đã du hành Đạo lộ tối thắng vượt trên các ca tụng Nhưng với tâm tôn kínhhoan hỷ Tôi sẽ ca tụng Đấng vượt trên ca tụng.
(Xem: 5339)
Quy nghĩa là “quay về, trở về” hay “hồi chuyển (tâm ý)”. Y là “nương tựa”. Quy Y cũng có nghĩa là “Kính vâng” hay “Phục tùng”. Tam là chỉ ba ngôi Phật, Pháp, Tăng.
(Xem: 3789)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả
(Xem: 4532)
Từ xưa đến nay, hàng xuất gia (Sa-môn, Bà-la-môn) tu hành không trực tiếp lao động sản xuất để tạo ra của cải vật chất nên đời sống phụ thuộc vào sự bố thí, cung cấp, cúng dường của hàng tín đồ tại gia.
(Xem: 3552)
Sống chếtvấn đề lớn nhất của đời người. Trong đạo Phật, chữ sanh tử (sống chết) là một từ được nhắc đến thuộc loại nhiều nhất
(Xem: 3934)
Kinh Kim Cang Bát Nhã được ngài Cưu Ma La Thập (344-413) dịch từ tiếng Phạn sang Hán văn, và được thái tử Chiêu Minh (499-529) chia bố cục ra 32 chương.
(Xem: 4391)
Đức Phật xuất hiện trên thế gian như mặt trời phá tan màn đêm u tối. Giáo pháp của Ngài đã mang lại những giá trị phổ quát cho...
(Xem: 5396)
Khái niệm Niết-Bàn không phải là sản phẩm bắt nguồn từ Phật Giáo, mà nó đã xuất hiện từ thời cổ đại Ấn Độ khoảng hơn 4,000 năm trước Tây Lịch.
(Xem: 3844)
Quán Thế Âm tiếng Sanskrit là Avalokitésvara. Thuật ngữ Avalokitésvara vốn bắt nguồn từ hai chữ Avalokita và isvara
(Xem: 3941)
Trong khi thế giới đang có nhiều biến động phức tạp, chiến tranh, khủng bố, thù hận diễn ra khắp nơi, mâu thuẩn chính trị, kinh tế, và văn hóa luôn là vấn đề nan giải.
(Xem: 3876)
Trong cõi đời, chúng ta phải chịu đựng những sự đau đớn, khổ não nơi thân và tâm, nhưng tâm bệnh có thể được chữa khỏi bằng Phật pháp.
(Xem: 4828)
Thiên Trúc (天竺) là tên mà người Trung Quốc thường gọi cho Ấn Độ cổ đại. Nó cũng được dịch “Trung tâm của cõi trời”, (nghĩa là trung tâm tinh thần);
(Xem: 4527)
Thông thường hai chữ tu hành đi đôi với nhau; sử dụng quá quen nên hiểu một cách chung chung, đã giảm tầm mức quan trọng mà tự thân nó mang một ý nghĩa sâu sắc.
(Xem: 4261)
Đã hơn 2500 năm kể từ khi Đức Phật Thích Ca đã nhập Niết Bàn. Hiện tại chúng ta sống trong thời đại gọi là “Mạt Pháp”, trong đó ta không thể nào thấy Đức Phật thực sự được nữa.
(Xem: 3831)
Pháp thân của chư Phật, là muốn nhấn mạnh đến loại pháp thân không còn ẩn tàng trong thân ngũ uẩn như pháp thân của chúng sinh.
(Xem: 4638)
Giáo lý Tam thân (trikāya), như đã được tất cả các tông phái Phật giáo Đại thừaTrung QuốcNhật Bản chấp nhận hiện nay
(Xem: 4210)
Ngày xưa chúng đệ tử của Đức Phật có nhiều hạng người khác nhau. Tùy theo căn cơ của mỗi người, Đức Phật áp dụng phương pháp giáo hóa khác nhau.
(Xem: 6113)
Ngày nay, chúng ta thấy hầu hết các ảnh, tượng của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đều được tạo hình có tóc, điều này khiến
(Xem: 4611)
“Chiếc đồng hồ của tôi không đánh số 1 đến 12 mà chỉ có ‘now’, ‘now’, ‘now’ để nhắc nhở rằng ta đang sống”,
(Xem: 4952)
Trong tác phẩm Jataka, truyện số 238 đã đề cập về chuyện một chữ (ekapadaṃ) nhưng có nhiều nghĩa (anekatthapadassitaṃ).
(Xem: 4194)
Về tiểu sửcông nghiệp của Huyền Trang (602-664) chúng ta đã có phần viết riêng trong phần phụ lục của sách Kinh Phật
(Xem: 4826)
Đã sanh làm kiếp con người, có ai mà không khổ? Cái khổ nó theo mình từ nhỏ đến khi khôn lớn, và sẽ khổ hoài cho tới...
(Xem: 5671)
Khi Bồ-tát Long Thọ nói “bất sanh bất diệt” thì hẳn nhiên trước đó phải có cái gì đó có sanh và diệt.
(Xem: 3653)
Trong nghĩa đơn giản nhất, tu Hạnh Bồ Tát là những người ra sức hoằng pháp và không muốn Chánh pháp bị đoạn đứt, bất kể người này có thọ giới Bồ Tát hay không.
(Xem: 4042)
Bài viết này sẽ khảo sát về Vô Tướng Tam Muội, một pháp môn ít được chú ý hiện nay.
(Xem: 4591)
Cứ mỗi lần chúng ta chứng kiến người thân qua đời là mỗi lần chúng ta đau xót, buồn rầu, vì từ nay chúng ta vĩnh viễn sẽ không bao giờ được nhìn thấy người thân yêu đó trên cõi đời này nữa.
(Xem: 5288)
Như các phần trước đã nói, chân tâm không sinh diệt và vọng tâm sinh diệt luôn tồn tại nơi mỗi con người chúng ta.
(Xem: 3149)
Thiền học là một môn học nhằm mục đích đào luyện trí tuệ để được giác ngộgiải thoát sanh tử mong đạt đến niết bàn tịch tịnh
(Xem: 4764)
Khi đức Phật đản sinh, trên trời có chín rồng phun hai dòng nước ấm mát tắm rửa cho Ngài
(Xem: 4559)
Mỗi độ tháng Tư về, trong tâm thức của những người con Phật đều hiển hiện hình ảnh huy hoàng Phật đản sinh bước đi trên bảy đóa sen
(Xem: 4293)
Phật giáo Đại thừa có cách nhìn nhận mới về đức Phật và lời dạy của ngài.
(Xem: 4743)
Đức Phật Thích Ca là một đức Phật lịch sử xuất hiện giữa thế gian để dẫn dắt chúng sinh thoát khỏi khổ đau, đạt đến an lạc giải thoát.
(Xem: 4491)
Con người được sanh ra từ đâu là một nghi vấn vô cùng nan giải cho tất cả mọi giới và mãi cho đến thế kỷ 21 này vấn đề con người vẫn còn phức tạp chưa được ai minh chứng cụ thể.
(Xem: 4607)
Kinh Pháp Cú dành riêng hẳn một phẩm gọi là “Phẩm Tỳ kheo” để đề cập tới các người xuất gia.
(Xem: 7219)
Cuộc sống biến đổi không ngừng, mỗi một thời gian, mỗi một thế hệ có cách sống và nghĩ suy ứng xử có khác nhau.
(Xem: 5214)
Trước hết, thời gian vật lý là khách quan và tồn tại bên ngoài tâm trí con người và là một phần của thế giới tự nhiên, thứ hai, thời gian tâm lý chủ quan và có sự tồn tại phụ thuộc vào ý thức.
(Xem: 5009)
Hôm nay nhân ngày đầu năm, tôi có vài điều nhắc nhở tất cả Tăng Ni, Phật tử nghe hiểu ráng ứng dụng tu để xứng đáng với sở nguyện của mình.
(Xem: 4599)
Huyễn: Có nhiều nghĩa như tạm bợ, hư dối, phù du, huyễn hoặc, ảo ảnh, thay đổi luôn luôn, có đó rồi mất đó, biến dịch hoài trong từng sát-na.
(Xem: 5618)
Ngạ quỷ nghe kinh là một trong những đề tài khá quen thuộc trong kinh Phật. Người phàm thì không ai thấy loài ngạ quỷ, trừ một vài trường hợp đặc biệt.
(Xem: 5271)
Từ thế kỷ trước, người ta đã tìm được rải rác các thủ cảo (manuscripts) kinh Phật cổ xưa nhất viết bằng văn tự Kharosthi chôn ở các di tích Phật giáo ở Gandhāra, Bắc Afghanistan.
(Xem: 4163)
Thư Viện Quốc Hội Mỹ đã công bố một văn bản quí hiếm từ 2.000 năm trước của Phật Giáo và văn bản cổ này đã giúp cho chúng ta ...
(Xem: 6021)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 4722)
Trước hết xin giới thiệu sơ lược những nét chính của hai bộ kinh Đại thừa lớn ở Ấn Độ mà chúng đã trở nên đặc biệt quan trọng trong Phật Giáo Đông Á.
(Xem: 4881)
Từ khi Đức Như Lai Thế Tôn thị hiện cho đến hiện tại là 2019, theo dòng thời gian tính đếm của thế nhân thì cũng đã gần 2600 năm.
(Xem: 5485)
Tôn giả Tịch Thiên (Shantideva) là con của vua Surastra, sinh vào khoảng thế kỷ thứ VII ở Sri Nagara thuộc miền Nam nước Ấn.
(Xem: 5622)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 5824)
Này các Tỳ-kheo, ta cho phép học tập lời dạy của Đức Phật bằng tiếng địa phương của chính bản thân (sakāya niruttiyā)
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant