Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phật Chú Có Nên Dịch Nghĩa Không ?

15 Tháng Tám 201507:36(Xem: 16247)
Phật Chú Có Nên Dịch Nghĩa Không ?

Phật Chú Có Nên Dịch Nghĩa Không ?

buddha

Có Hai Câu Hỏi ?

 

1. Phật Chú Có Nên Dịch Nghĩa Không ?

2. Tri Thức, Trí Thức, Học Thức, Khác Nhau Thế Nào ?

 

Nam Mô Từ Phụ Thích Ca Mâu Ni Phật

1.     Về Mật Chú :

Lúc hồi còn học ở Thừa Thiên, Các ôn Trưởng Lão thường dạy các Thầy các chú không nên ham biết mật ngữ trong chú nói gì mà cứ nghiệm hiểu đề danh của “Chú” là biết hết cả rồi. Chú tâmthọ trì do Tâm cảm tha thiết là Ứng quả rõ ràng. Dịch ra rồi, tất cả mầu nhiệm sẽ biến mất hết.

Thú thật lời dạy chí thiết đó, chúng tôi tuy không dám không tin, nhưng lòng vẫn còn muốn khám phá ! Điều hiểu tất đã hiểu, vì ngay nơi đề danh như : Bạt Nhứt Thiết Nghiệp Chướng Căn Bản Đắt Sanh Tịnh Độ Đà La Ni”. Đề Danh qúa rõ, “Nhổ bỏ hết cội gốc phiền não chướng nghiệp tất sanh về Tịnh Độ” Gọi tắt là Vãng Sanh Tịnh Độ Thần Chú.

 

    Mãi cho đến khi có vị sư dịch Chú Bát Nhã :

    Yết Đế Yết Đế Ba La Yết Đế Ba La Tăng Yết Đế Bồ Đề Ta Bà Ha…… Rằng Là,

1.Qua rồi qua rồi, qua bên kia rồi, tất cả qua bên kia rồi, giác ngộ rồi đó.

(Gate, gate, paragate,parasamgate, bodhi svaha!)

English :Gone,gone,gone beyond,gone altogether beyond, bodhi.

France: Allez,allez, allez au-dela,allez completment au-dela, sur la rive du Satori

2. Vượt qua,vượt qua, vượt qua bên kia,hoàn toàn vượt qua,tìm thấy giác ngộ.

3.Đi qua, đi qua,Đi qua bờ bên kia, đã đi qua đến bờ bên kia. Reo vui.

(4). Còn nghe nói mơ hồ :     Bổng nghe ai đó họ ngậm ngùi ! Sao tựa như tiếng gọi “Tiến lên tiến lên..tiến mạnh lên ….vậy !

Thử tụng các lời dịch đó, nếu thấy đó là Tân Học ! Là diệu tụng…hơn đọc ..Yết đế…Cứ tự nhiên.

Tóm lại : Cùng hiểu Bát Nhã Ba La MậtTrí Huệ Đại Thặng là tốt.

    Từ lâu, tôi muốn dịch Chú Lăng Nghiêm, nhưng rồi nhận thấy trong Thần Chú ẩn quá nhiều Mật Nghĩa ! Có khi một chữ mà chữ ẩn còn có năm bảy chữ không lộ. Tôi chợt hiểu.

Phàm ngôn của mình mà dịch chú. Nói ra, chẳng khác gì nhà giáo ngoại mất “tư cách con người”là Đắt Lộ; y nói bập bẹ tiếng Việt chưởi Đức Phật bằng thằng,chưỡi ông bà tổ tiên Người Việt là ma quỷ hồi thời Chúa Trịnh Tráng Nhà Lê ! Chúa Trịnh đuổi, y qua Macau 1652 thì phải.

 Rồi mới đây trên net thấy ca ngợi Chú Đại Bi đã được dịch !?

     TT Nguyên Tạng Chủ Biên Trang Nhà Quảng Đức, thảo luận với tôi về điều nầy, sau đó thì có vài Phật Tử phone hỏi 2 câu hỏi có vẻ nóng bỏng như trên. Về vấn đề có nên dịch Thần Chú Không ? Trả lời không phải khó, nhưng để thẩm thấu ý nghĩa Tôi xin hỏi quí vị : “Khi nói, Não bộ con người, Ngũ Tạng con người, Phổi, Gan, Mật, Tim, Óc vô cùng mầu nhiệm, quí báu Phải không ? Trân trọng quí giá vô cùng, tất cả ai ai cũng hiểu cũng quí, Phải không ? Tò mò muốt biết ?

“ Mổ ra coi chơi ? Banh ra coi cho biết nó quí như thế nào “? Ô Kê ? Được chứ ?! Ha ha ! Tất là, không ai chịu làm chứ  gì ? Để yên như thế ! Quí giá vô cùng tận ! Banh nó ra rồi ? Chèn ôi ! Rụng rời ! Hết  tụng ?!

  Sự kín nhiệm của Phật chú không nên dịch là thế đó ! Đừng chủ quan kết luận rằng, xưa nay các Thầy vì “dốt” nên không ai dịch.

Ai, hân hoan điều đó thì cứ mà hân hoan ! Còn phần lớn, thọ trì nhiều, tín tâm vững là ấn điểm quan trọng cho việc Trì Chú.

   Còn ai muốn chơi trội, là nhơn sư , không biết có giống người cơm nóng sốt không thích ăn, phơi cho nguội khô rồi mới ăn . Tùy ý !? Tụng theo bản dịch như ăn cơm nguội cũng có người thích kiểu ăn nầy.

   Ăn, Sáng Ăn ! Trưa ăn ! Muốn no thì ăn ! Muốn hết Nghiệp thì Tu ! Thì, Trì Chú ! Đó là “Thực Phẩm ngon” của Người Tu Hành xưa cũ.

A Di Đà Phật.

2.   Về, -Tri –Trí  -Học /Thức :

TRI THỨC,

Ai đó trong nhân loạivui lòng hướng dẫn, chỉ dẫn, sửa sai cho Người khác,với một cõi lòng thiết tha thành thật, đúng đắn Tận tâm không câu nệ thời gian, một lần hai lần ba lần nhiều lần mà vẫn vui vẻ cho đến cuối cùng; Người hưởng thọ sự giáo dục bang trợ được thông suốt trọn vẹn đúng như pháp. Người Thầy đó là bậc Tri Thức. Bậc hiểu biếtkhông lộ cho ai biết là bậc TRI THỨC.

   Chỉ dẫn, mới một lần, hai lần đã vội càu nhàu sì sạt, đưa người yếu đuối qua đường, người ta ngờ ngạt, chậm chạp thì đã sừng sộ quay tới quay lui. Ỷ lại thông minh, lên bực giảng bị hỏi những câu nan giải thì đỏ mặt giận hờn nói càn thích bậy. Trên lập trường giao lưu với cuộc đời chỉ biết xưng danh như thùng rỗng, tự ái tràn đầy, đã không Tri-Thức, Học thức, Trí thức cũng không, như thế là người không Tri Thức dù cho có thêm bằng cấp học thức gì đó. Nhứ thế, chã có thức nào hết.

 

Trí Thức, Thực luận về Trí Thức, là người có Bản Tánh đặc biệt xuất sắc. nghe những lý luận về nhiều phương diện Họ biết ngay điều đó là đúng hay không đúng . Không có trình độ để cấp bằng cấp Trí Thức, chì có quí kính và ngưỡng mộ.

  Thí dụ, Trong nhiều các trường hợp nhưng đây chỉ áp dụng trường hợp hội luận. để thấy ai là Người Tri-Thức. Người tu, còn có Vô Sư Trí.

Luận giả nói : Trên thế gian nầy mọi loài, mọi thứ, mọi vật, có hình hay không có hình đều do, Một Đấng  có tên là “Tạo Hóa” tạo ra ! Khán thính giả đều vỗ tay (!). Không ai có ý kiến (?)

     Nhưng, người Trí Thức cho đó là Luận giả nói sai.  Tại sao ? Người Trí Thức khẳng định trong thế gian không có Đấng Tạo Hóa ? Đấng tạo hóa chỉ là bịa đặt của danh ngôn ! Hay từ một biện trí thiếu sáng suốt rồi dẫn thành một ẩn kín mưu mô hay đầu tư …sẽ, hay đã xuất hiện.

  Vậy luận lý của Trí thức :

Là, Đấng đó, do đâu mà có ? Ai bày ra ? Đấng đó tự có ? Hay có Cha có Mẹ đẻ ra ! Hay từ hư không xuất hiện có đủ chứng minh chưa?

   Có khi lại dựng đứng lý luận, Tạo Hóa như ông thợ gốm, nhồi đất sắt nặn ra chậu, vung, bình, chén …Đúng thế, nhưng đất sắt, nước, ông Thợ

phải nhờ vật liệu mà ông không tự có. Cũng chỉ là thợ gốm.

Nếu không do đâu mà có ? Thì là nói hoang đưởng vô bằng cớ ! Nếu trưng dẫn có giấy trắng mực đen in ra ! Là do có người in ấn ra ! Vì có sách in ấn ra, nên có Đấng Tạo Hóa thật , Thế thì người in ấn ra giấy trắng mực đen đó chính là Đấng tạo hóa. Đấng Tạo Hóa cũng chỉ là một người bình thường như bao người bình thường khác ? Người bình thường đó lại  có thể sinh sản ra mọi thứ, mọi hình, mọi vật ? Đừng đùa, trẻ nít cười đấy !

Ta thữ lý luận theo logic trí thức. Ông Đấng nầy giả tỉ là người Do Thái đi, đâu có thể sanh ra người Việt Nam được, còn nói chi Tây, Mỹ, Ma-rốc, Tàu mọi v.v…   Nhưng còn lạ lùng quái dị nữa, nào thú vật, Bò Heo Chó…Kể cả làm bão lụt nửa , cũng là đấng ấy làm ra (?) Không có lý nào cái ông Đấng nầy có đủ các hình trạng : Người đẻ ra Người ! Mèo đẻ ra mèo ? Làm gì có chuyện muốn biến gì cũng được. Không đúng đâu bạn! Đừng ép người ta ăn thuốc độc !  Lý thuyết thiên hình vạn trạng trong một “Thể Đấng ” Chỉ có cách đặt kín trong Thần Học mới tạm dấu não loạn mê hoặc để hù kẻ ngu thời tiền sử! Quẹt cây diêm quẹt chúng thất kinh hồn via tưởng có vô số ông thần lửa nằm trong Hộp diêm quẹt !.

        Tà thuyết có vũ lực đến đâu cũng không tấn công làm lộng được Trí của người trí. Người đó đúng là TRÍ THỨC. Trí Thức là như thế.

 

Học Thức,

Học Thức là Từ nơi sự học hiểu theo các lớp có Trường ốc Do Chánh Phủ thiết lập, hay do tư nhân thiếp lập, có thi cử rõ ràng, có chứng minh, bằng cấp, đó là cái thực học, học thức chính gốc của họ, Từ nơi Học. Còn phải nói đúng nghĩa, là phải hiểu thấu tường tậu sự đã học để thực hành không ra ngoài cái hiểu biết của học, nên gọi là Học Thức !

    Còn nửa, Học Thức dù có bằng cấp bảo đảm, nhưng thiếu Trí Thức, tâm địa hẹp hòi, thì có thể đi ngược Khoa Học tin hảo tin quàng bị sa ngã vào Nhất thần hay đa thần giáo dễ như trở bàn tay. Tệ hơn, do thiếu Tri-thức nên cố nổi gân cổ để bao biện che lấp cho nhiều lỗi lầm như nhà viết  con chiên tú gàn chẳng hạn.

Người Học Thức mà có tâm giúp đời, giúp nước, họ có thể gom thu những hiểu biết sáng tạo, phải nói, phải viết đứng sự thật, mở mang cho tiến hóa ! Nếu vọng ngọai, tà tín gồng gánh thêm vào cái biến thức phi nhân nghĩa đạo đức bôi nhọ chính cái bằng cấp “Thực Học” của mình ! Trịn lên bằng cấp là những tôi tớ của Thực dân. Thành ra kẻ tồi trên dòng khoa bảng.

 

Do thiếu Học thức, nên ở đời thường lầm ! Rồi lại hay chê : Ông ấy có bằng cấp có học thức mà sao “Ngu” quá vậy. Có những lời chê quá đáng như thế là vì không chịu hiểu kỷ hai chữ Học Thức.

  Phuơng Tây có câu: “Cái ngu cửa người Học-thức, Ngu hơn cái “Ngu”

Của người không học thức”. Nên rõ ràng, Ông nầy ổng đậu bằng Kỷ Sư Cầu Cống, thì ổng là học thức về cầu cống, ổng đâu cỏ thể vào nhà thương mỗ xẽ người bịnh đau ruột được ! Phải không ?

Ông nầy ổng là BS Toàn Khoa, Bịnh gì ổng cũng hiểu, ổng trị bá bịnh, những ổng vẫn tin ông Trời là vạn năng, đó là tự ổng có đức tin không hướng theo lối văn minh khoa học, ổng không thèm phân biệt tà và chánh thế thôi, dù ổng cũng là văn minh khoa học?  Không Nên chê trách vào cái bằng cấp của người ta được.

 Trên đời nầy tự do muốn tin những gì mà Người có Trí không TIN. Thì nên tìm vào Thần Học. Tóm lại, học thức chỉ “Hơn” người không học thức mà thôi. Tuy nhiên, Người có bằng cấp mà đủ Trí, đủ Tri, là Người Toàn Vẹn. Đó là Người Học Thức xứng đáng.

   Quan trọng hơn và thú vị hơn là nhà Học ThứcNhân Bản ! Nhà học thức nầy sau giờ làm việc về nhà “Chào Cha Mẹ Con Mới Về” ! Tiếng gọi “CHA MẸ” thiêng liêng nhất chỉCha Mẹ Ruột ! Còn thằng cha ngoại lai tuyệt đối không bao giờ gọi ! Trừ phi nhân thêm hai chân.

Đó là Học Thức Nhân Bản.

Kính Chào bái chư vị Tri Thức.

 

   

Viết tại Chùa Bảo Vương, Mùa An Cư PL 2559

  HT. Thích Huyền Tôn

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1615)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1538)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1482)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 1069)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1454)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1396)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1308)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 1359)
Khi học sinh từng người, từng người tốt nghiệp rời khỏi Phật học viện rồi, tôi bắt đầu xây dựng Biệt phân viện[1]khắp nơi, để ...
(Xem: 1691)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển. Phật thuyết từ chứng ngộ
(Xem: 1908)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định. Định có nghĩa là tâm hành giả trụ vào một đối tượng nào đó khiến cho ý không bị tán loạn, dần dần tâm ý trở nên trong sáng và phát sinh trí tuệ.
(Xem: 1423)
Chúng ta đau khổ do vì vô minh, cho nên chúng ta cần phải đoạn trừ những quan điểm lệch lạc sai lầm và phát triển quan điểm đúng đắn.
(Xem: 1085)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh, bất đoạn và bất thường, bất nhất và bất dị, bất lai và bất xuất, là sự tịch diệt mọi hý luận, và là an ổn.
(Xem: 1416)
Lý tưởng giáo dục và những phương pháp thực hiện lý tưởng này, hiển nhiên Phật giáo đã có một lịch sử rất dài.
(Xem: 1978)
Tuệ Trung Thượng Sĩ (慧中上士), Thiền sư Việt Nam đời Trần (1230-1291) có viết trong bài Phóng cuồng ngâm (放狂吟):
(Xem: 1447)
Nhân loại luôn luôn hướng về sự hoàn thiện của chính mình trong tất cả mọi mặt, vật chấttinh thần.
(Xem: 1541)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết nên quyết chí xuất gia học đạo. Đức Phật thành đạo tại thế gian này và cũng hoằng pháp bốn mươi chín năm cũng tại thế gian này.
(Xem: 1372)
Có phải bạn rất đỗi ngạc nhiên về tiêu đề của bài viết này? Có thể bạn nghĩ rằng chắc chắn có điều gì đó không ổn trong câu chuyện này, bởi vì lịch sử về cuộc đời của đức Phật xưa nay không hề thấy nói đến chuyện đức Phật đi tới Châu Âu và Châu Phi. Bạn nghĩ không sai.
(Xem: 2836)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1365)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông, như một số vị thầy hiện nay đã ngộ nhận, khi nói rằng pháp môn này xuất phát từ Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết
(Xem: 1398)
Trong quá trình phát triển, Phật giáo xuất hiện tư trào Đại thừa, nhấn mạnh lý tưởng Bồ tát đạo.
(Xem: 1701)
Tuy Phật giáo Nguyên thủyđại thừa có hai con đường đi đến giải thoát giác ngộ khác nhau.
(Xem: 1658)
Trong cuộc sống này, ai cũng muốn mình có được một sự nghiệp vẻ vang. Người đời thì có sự nghiệp của thế gian.
(Xem: 1620)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1458)
Nhận thức Phật giáo về chân lý có lẽ là một trong những mối quan tâm hàng đầu với những ai đang nghiên cứu hoặc tìm hiểu đạo Phật.
(Xem: 2618)
Con người sống do và bằng ý nghĩ. Ý nghĩ cao cấp thì cuộc sống trở nên cao cấp; ý nghĩ thấp kém thì cuộc sống thành ra thấp kém.
(Xem: 1598)
Đạo nghiệpsự nghiệp trong đạo. Tuy nhiên cái gì hay thế nào là sự nghiệp trong đạo thì cần phải phân tích cặn kẽ để hiểu đúng và thành tựu đúng như pháp.
(Xem: 1597)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1396)
Lục Tổ Huệ Năng, từ khi đến học với Ngũ Tổ một thời gian ngắn ngộ được bản tâm, rồi trải qua mười lăm năm với đám thợ săn
(Xem: 1414)
Của báu thế gian chỉ tồn tại khi ta còn thở. Ngay khi chúng ta nằm xuống, chúng sẽ thuộc về người khác.
(Xem: 1598)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả vinh hoa phú quý...
(Xem: 1533)
Trong cả Phật giáo Nguyên thủy lẫn Phật giáo Đại thừa đều có tư tưởng về Bồ tát. Các ngài xả thânhạnh nguyện mang lại lợi lạc cho chúng sanh
(Xem: 1436)
Một người đã phát tâm Bồ đề được gọi là một Bồ tát. Đời sống Bồ tát là chiến đấu chống lại sự xấu ác trong lòng người để giải thoát họ khỏi khổ đau.
(Xem: 1413)
Xung đột là một hiện tượng phổ biến. Nó hiện diện khắp mọi ngõ ngách của cuộc sống, từ trong những mối quan hệ ...
(Xem: 1502)
Trong Kinh tạng, khái niệm nghiệp thường được nhắc đến một cách đơn giản và khái quát như nghiệp thiện, ác hoặc nghiệp của thân, miệng, ý.
(Xem: 2174)
Đức Phật Dược sư là một đấng Toàn giác. Để hiểu rõ ngài là ai, bản thể của ngài là gì, vai trò của ngài như thế nào…, trước tiên chúng ta cần hiểu thế nào là một chúng sinh giác ngộ.
(Xem: 1527)
Chơn Thật Ngữ chính là Phật ngữ, là chánh pháp ngữ, là thanh tịnh ngữ vì nó đem lại niềm tin sự hoan hỷ an lạclợi ích chúng sanh.
(Xem: 1473)
Ý thức thì suy nghĩ như thế này, nếu sanh thì không phải là diệt, nếu thường thì không phải là vô thường, nếu một thì không phải khác
(Xem: 1591)
Theo kinh điển Phật giáo, việc lắng nghe chính xác, rõ ràng và đầy đủ là một trong những nền tảng quan trọng để thành tựu trí tuệ.
(Xem: 1815)
Chân lý Phật, vừa giản dị vừa rất thâm sâu. Vì thế, Đức Phật đã mượn những câu chuyện dụ ngôn, gắn với hình ảnh của ...
(Xem: 1503)
Tích Niêm Hoa Vi Tiếu kể rằng một hôm trên núi Linh Thứu, Đức Thế Tôn lặng lẽ đưa lên một cành hoa.
(Xem: 1366)
Kinh Pháp Hoa, hay Kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma Puṇḍarīka Sūtra), là một trong những bộ kinh quan trọng
(Xem: 1644)
Khi ánh sao mai vừa tỏ rạng cũng là lúc Đức Phật thành tựu chân lý tối thượng.
(Xem: 1384)
Tất cả các pháp tướng Như hay lìa tướng Như đều không thối chuyển đối với Vô thượng Giác ngộ
(Xem: 1670)
Tất cả chúng sinh mê hoặc điên đảo từ vô thỉ. Nay dùng giác pháp của Phật khai thị, khiến chúng sinh nghe mà ngộ nhập.
(Xem: 2348)
Người tu hành theo Phật Giáo nhắm mục đích là tự mình chứng ngộ và vận dụng cái Tâm đó.
(Xem: 1442)
Về cơ bản, lý duyên khởi giải thoát mô tả tâm lý của thiền, nghĩa là, những gì xảy ra trong tiến trình hành thiền được hành giả trải nghiệm từ lúc đầu cho đến lúc cuối.
(Xem: 1931)
Trong bài này sẽ trích vài đoạn kinh của Kinh Ma ha Bát nhã ba la mật, phẩm Đại Như thứ 54, do Pháp sư Cu Ma La Thập dịch để tìm hiểu về Chân Như.
(Xem: 1656)
Còn gọi là Quy Luật Duyên Khởi, vì đó là lý thuyết về quy luật tự nhiên, quy luật không thuộc về của riêng ai.
(Xem: 1728)
Hình thành tại Ấn Độ từ thế kỷ VI trước Công nguyên, Phật giáo đã phát triển việc truyền bá chánh pháp khắp xứ Ấn Độ và...
(Xem: 1598)
Khi hiểu được việc lành dữ đều có quả báo tương ứng, chỉ khác nhau ở chỗ đến sớm hay muộn mà thôi,
(Xem: 1923)
Tư tưởng chủ đạo của Thuyết nhất thiết Hữu Bộ là: “các pháp ba đời luôn thật có, bản thể luôn thường còn”,
(Xem: 1650)
Xa lìa tà hạnh (không tà dâm) có nghĩa chính yếu là nguyện chung thủy với người bạn đời của mình.
(Xem: 1412)
Người đệ tử Phật thực hành pháp thứ hai một cách hoàn hảo là không trộm cướp, chính xácxa lìa việc lấy của không cho.
(Xem: 1711)
Sau khi phát tâm quy y Tam bảo, người Phật tử được khuyến khích giữ giới (thực hành năm pháp), giới thứ nhất là xa lìa sát sinh.
(Xem: 1564)
Phải nói rằng Tăng đoàn là sự đóng góp rất lớn cho hạnh nguyện độ sanh của Đức PhậtTăng đoàn đã thay Phật để truyền bá Đạo
(Xem: 1522)
Đứng trước biến động khó khăn của cuộc đời, Phật giáo với tinh thần từ bitrí tuệ, lấy tôn chỉ Phật pháp bất ly thế gian pháp đã
(Xem: 1309)
Trong bài Kinh Devadaha, Đức Phật đã luận giải chi tiết về nghiệp. Trái ngược với quan điểm cho rằng nghiệp là định mệnh luận,
(Xem: 1237)
Trong kinh điển tiểu thừa có một điểm khác biệt rất rõ nét so với kinh điển đại thừa, đó là bối cảnh thuyết pháp của Đức Phật.
(Xem: 1276)
Lịch sử tư tưởngtôn giáo của nhân loại có lẽ sẽ đánh dấu một bước ngoặt vào ngày đức Phật, theo truyền thuyết,
(Xem: 1510)
Trong Jataka, tức là những câu chuyện tiền thân của Đức Phật khi ngài còn là một Bồ tát, ngài có nói về hạnh Bồ tát trong...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant