Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phật Chú Có Nên Dịch Nghĩa Không ?

15 Tháng Tám 201507:36(Xem: 16082)
Phật Chú Có Nên Dịch Nghĩa Không ?

Phật Chú Có Nên Dịch Nghĩa Không ?

buddha

Có Hai Câu Hỏi ?

 

1. Phật Chú Có Nên Dịch Nghĩa Không ?

2. Tri Thức, Trí Thức, Học Thức, Khác Nhau Thế Nào ?

 

Nam Mô Từ Phụ Thích Ca Mâu Ni Phật

1.     Về Mật Chú :

Lúc hồi còn học ở Thừa Thiên, Các ôn Trưởng Lão thường dạy các Thầy các chú không nên ham biết mật ngữ trong chú nói gì mà cứ nghiệm hiểu đề danh của “Chú” là biết hết cả rồi. Chú tâmthọ trì do Tâm cảm tha thiết là Ứng quả rõ ràng. Dịch ra rồi, tất cả mầu nhiệm sẽ biến mất hết.

Thú thật lời dạy chí thiết đó, chúng tôi tuy không dám không tin, nhưng lòng vẫn còn muốn khám phá ! Điều hiểu tất đã hiểu, vì ngay nơi đề danh như : Bạt Nhứt Thiết Nghiệp Chướng Căn Bản Đắt Sanh Tịnh Độ Đà La Ni”. Đề Danh qúa rõ, “Nhổ bỏ hết cội gốc phiền não chướng nghiệp tất sanh về Tịnh Độ” Gọi tắt là Vãng Sanh Tịnh Độ Thần Chú.

 

    Mãi cho đến khi có vị sư dịch Chú Bát Nhã :

    Yết Đế Yết Đế Ba La Yết Đế Ba La Tăng Yết Đế Bồ Đề Ta Bà Ha…… Rằng Là,

1.Qua rồi qua rồi, qua bên kia rồi, tất cả qua bên kia rồi, giác ngộ rồi đó.

(Gate, gate, paragate,parasamgate, bodhi svaha!)

English :Gone,gone,gone beyond,gone altogether beyond, bodhi.

France: Allez,allez, allez au-dela,allez completment au-dela, sur la rive du Satori

2. Vượt qua,vượt qua, vượt qua bên kia,hoàn toàn vượt qua,tìm thấy giác ngộ.

3.Đi qua, đi qua,Đi qua bờ bên kia, đã đi qua đến bờ bên kia. Reo vui.

(4). Còn nghe nói mơ hồ :     Bổng nghe ai đó họ ngậm ngùi ! Sao tựa như tiếng gọi “Tiến lên tiến lên..tiến mạnh lên ….vậy !

Thử tụng các lời dịch đó, nếu thấy đó là Tân Học ! Là diệu tụng…hơn đọc ..Yết đế…Cứ tự nhiên.

Tóm lại : Cùng hiểu Bát Nhã Ba La MậtTrí Huệ Đại Thặng là tốt.

    Từ lâu, tôi muốn dịch Chú Lăng Nghiêm, nhưng rồi nhận thấy trong Thần Chú ẩn quá nhiều Mật Nghĩa ! Có khi một chữ mà chữ ẩn còn có năm bảy chữ không lộ. Tôi chợt hiểu.

Phàm ngôn của mình mà dịch chú. Nói ra, chẳng khác gì nhà giáo ngoại mất “tư cách con người”là Đắt Lộ; y nói bập bẹ tiếng Việt chưởi Đức Phật bằng thằng,chưỡi ông bà tổ tiên Người Việt là ma quỷ hồi thời Chúa Trịnh Tráng Nhà Lê ! Chúa Trịnh đuổi, y qua Macau 1652 thì phải.

 Rồi mới đây trên net thấy ca ngợi Chú Đại Bi đã được dịch !?

     TT Nguyên Tạng Chủ Biên Trang Nhà Quảng Đức, thảo luận với tôi về điều nầy, sau đó thì có vài Phật Tử phone hỏi 2 câu hỏi có vẻ nóng bỏng như trên. Về vấn đề có nên dịch Thần Chú Không ? Trả lời không phải khó, nhưng để thẩm thấu ý nghĩa Tôi xin hỏi quí vị : “Khi nói, Não bộ con người, Ngũ Tạng con người, Phổi, Gan, Mật, Tim, Óc vô cùng mầu nhiệm, quí báu Phải không ? Trân trọng quí giá vô cùng, tất cả ai ai cũng hiểu cũng quí, Phải không ? Tò mò muốt biết ?

“ Mổ ra coi chơi ? Banh ra coi cho biết nó quí như thế nào “? Ô Kê ? Được chứ ?! Ha ha ! Tất là, không ai chịu làm chứ  gì ? Để yên như thế ! Quí giá vô cùng tận ! Banh nó ra rồi ? Chèn ôi ! Rụng rời ! Hết  tụng ?!

  Sự kín nhiệm của Phật chú không nên dịch là thế đó ! Đừng chủ quan kết luận rằng, xưa nay các Thầy vì “dốt” nên không ai dịch.

Ai, hân hoan điều đó thì cứ mà hân hoan ! Còn phần lớn, thọ trì nhiều, tín tâm vững là ấn điểm quan trọng cho việc Trì Chú.

   Còn ai muốn chơi trội, là nhơn sư , không biết có giống người cơm nóng sốt không thích ăn, phơi cho nguội khô rồi mới ăn . Tùy ý !? Tụng theo bản dịch như ăn cơm nguội cũng có người thích kiểu ăn nầy.

   Ăn, Sáng Ăn ! Trưa ăn ! Muốn no thì ăn ! Muốn hết Nghiệp thì Tu ! Thì, Trì Chú ! Đó là “Thực Phẩm ngon” của Người Tu Hành xưa cũ.

A Di Đà Phật.

2.   Về, -Tri –Trí  -Học /Thức :

TRI THỨC,

Ai đó trong nhân loạivui lòng hướng dẫn, chỉ dẫn, sửa sai cho Người khác,với một cõi lòng thiết tha thành thật, đúng đắn Tận tâm không câu nệ thời gian, một lần hai lần ba lần nhiều lần mà vẫn vui vẻ cho đến cuối cùng; Người hưởng thọ sự giáo dục bang trợ được thông suốt trọn vẹn đúng như pháp. Người Thầy đó là bậc Tri Thức. Bậc hiểu biếtkhông lộ cho ai biết là bậc TRI THỨC.

   Chỉ dẫn, mới một lần, hai lần đã vội càu nhàu sì sạt, đưa người yếu đuối qua đường, người ta ngờ ngạt, chậm chạp thì đã sừng sộ quay tới quay lui. Ỷ lại thông minh, lên bực giảng bị hỏi những câu nan giải thì đỏ mặt giận hờn nói càn thích bậy. Trên lập trường giao lưu với cuộc đời chỉ biết xưng danh như thùng rỗng, tự ái tràn đầy, đã không Tri-Thức, Học thức, Trí thức cũng không, như thế là người không Tri Thức dù cho có thêm bằng cấp học thức gì đó. Nhứ thế, chã có thức nào hết.

 

Trí Thức, Thực luận về Trí Thức, là người có Bản Tánh đặc biệt xuất sắc. nghe những lý luận về nhiều phương diện Họ biết ngay điều đó là đúng hay không đúng . Không có trình độ để cấp bằng cấp Trí Thức, chì có quí kính và ngưỡng mộ.

  Thí dụ, Trong nhiều các trường hợp nhưng đây chỉ áp dụng trường hợp hội luận. để thấy ai là Người Tri-Thức. Người tu, còn có Vô Sư Trí.

Luận giả nói : Trên thế gian nầy mọi loài, mọi thứ, mọi vật, có hình hay không có hình đều do, Một Đấng  có tên là “Tạo Hóa” tạo ra ! Khán thính giả đều vỗ tay (!). Không ai có ý kiến (?)

     Nhưng, người Trí Thức cho đó là Luận giả nói sai.  Tại sao ? Người Trí Thức khẳng định trong thế gian không có Đấng Tạo Hóa ? Đấng tạo hóa chỉ là bịa đặt của danh ngôn ! Hay từ một biện trí thiếu sáng suốt rồi dẫn thành một ẩn kín mưu mô hay đầu tư …sẽ, hay đã xuất hiện.

  Vậy luận lý của Trí thức :

Là, Đấng đó, do đâu mà có ? Ai bày ra ? Đấng đó tự có ? Hay có Cha có Mẹ đẻ ra ! Hay từ hư không xuất hiện có đủ chứng minh chưa?

   Có khi lại dựng đứng lý luận, Tạo Hóa như ông thợ gốm, nhồi đất sắt nặn ra chậu, vung, bình, chén …Đúng thế, nhưng đất sắt, nước, ông Thợ

phải nhờ vật liệu mà ông không tự có. Cũng chỉ là thợ gốm.

Nếu không do đâu mà có ? Thì là nói hoang đưởng vô bằng cớ ! Nếu trưng dẫn có giấy trắng mực đen in ra ! Là do có người in ấn ra ! Vì có sách in ấn ra, nên có Đấng Tạo Hóa thật , Thế thì người in ấn ra giấy trắng mực đen đó chính là Đấng tạo hóa. Đấng Tạo Hóa cũng chỉ là một người bình thường như bao người bình thường khác ? Người bình thường đó lại  có thể sinh sản ra mọi thứ, mọi hình, mọi vật ? Đừng đùa, trẻ nít cười đấy !

Ta thữ lý luận theo logic trí thức. Ông Đấng nầy giả tỉ là người Do Thái đi, đâu có thể sanh ra người Việt Nam được, còn nói chi Tây, Mỹ, Ma-rốc, Tàu mọi v.v…   Nhưng còn lạ lùng quái dị nữa, nào thú vật, Bò Heo Chó…Kể cả làm bão lụt nửa , cũng là đấng ấy làm ra (?) Không có lý nào cái ông Đấng nầy có đủ các hình trạng : Người đẻ ra Người ! Mèo đẻ ra mèo ? Làm gì có chuyện muốn biến gì cũng được. Không đúng đâu bạn! Đừng ép người ta ăn thuốc độc !  Lý thuyết thiên hình vạn trạng trong một “Thể Đấng ” Chỉ có cách đặt kín trong Thần Học mới tạm dấu não loạn mê hoặc để hù kẻ ngu thời tiền sử! Quẹt cây diêm quẹt chúng thất kinh hồn via tưởng có vô số ông thần lửa nằm trong Hộp diêm quẹt !.

        Tà thuyết có vũ lực đến đâu cũng không tấn công làm lộng được Trí của người trí. Người đó đúng là TRÍ THỨC. Trí Thức là như thế.

 

Học Thức,

Học Thức là Từ nơi sự học hiểu theo các lớp có Trường ốc Do Chánh Phủ thiết lập, hay do tư nhân thiếp lập, có thi cử rõ ràng, có chứng minh, bằng cấp, đó là cái thực học, học thức chính gốc của họ, Từ nơi Học. Còn phải nói đúng nghĩa, là phải hiểu thấu tường tậu sự đã học để thực hành không ra ngoài cái hiểu biết của học, nên gọi là Học Thức !

    Còn nửa, Học Thức dù có bằng cấp bảo đảm, nhưng thiếu Trí Thức, tâm địa hẹp hòi, thì có thể đi ngược Khoa Học tin hảo tin quàng bị sa ngã vào Nhất thần hay đa thần giáo dễ như trở bàn tay. Tệ hơn, do thiếu Tri-thức nên cố nổi gân cổ để bao biện che lấp cho nhiều lỗi lầm như nhà viết  con chiên tú gàn chẳng hạn.

Người Học Thức mà có tâm giúp đời, giúp nước, họ có thể gom thu những hiểu biết sáng tạo, phải nói, phải viết đứng sự thật, mở mang cho tiến hóa ! Nếu vọng ngọai, tà tín gồng gánh thêm vào cái biến thức phi nhân nghĩa đạo đức bôi nhọ chính cái bằng cấp “Thực Học” của mình ! Trịn lên bằng cấp là những tôi tớ của Thực dân. Thành ra kẻ tồi trên dòng khoa bảng.

 

Do thiếu Học thức, nên ở đời thường lầm ! Rồi lại hay chê : Ông ấy có bằng cấp có học thức mà sao “Ngu” quá vậy. Có những lời chê quá đáng như thế là vì không chịu hiểu kỷ hai chữ Học Thức.

  Phuơng Tây có câu: “Cái ngu cửa người Học-thức, Ngu hơn cái “Ngu”

Của người không học thức”. Nên rõ ràng, Ông nầy ổng đậu bằng Kỷ Sư Cầu Cống, thì ổng là học thức về cầu cống, ổng đâu cỏ thể vào nhà thương mỗ xẽ người bịnh đau ruột được ! Phải không ?

Ông nầy ổng là BS Toàn Khoa, Bịnh gì ổng cũng hiểu, ổng trị bá bịnh, những ổng vẫn tin ông Trời là vạn năng, đó là tự ổng có đức tin không hướng theo lối văn minh khoa học, ổng không thèm phân biệt tà và chánh thế thôi, dù ổng cũng là văn minh khoa học?  Không Nên chê trách vào cái bằng cấp của người ta được.

 Trên đời nầy tự do muốn tin những gì mà Người có Trí không TIN. Thì nên tìm vào Thần Học. Tóm lại, học thức chỉ “Hơn” người không học thức mà thôi. Tuy nhiên, Người có bằng cấp mà đủ Trí, đủ Tri, là Người Toàn Vẹn. Đó là Người Học Thức xứng đáng.

   Quan trọng hơn và thú vị hơn là nhà Học ThứcNhân Bản ! Nhà học thức nầy sau giờ làm việc về nhà “Chào Cha Mẹ Con Mới Về” ! Tiếng gọi “CHA MẸ” thiêng liêng nhất chỉCha Mẹ Ruột ! Còn thằng cha ngoại lai tuyệt đối không bao giờ gọi ! Trừ phi nhân thêm hai chân.

Đó là Học Thức Nhân Bản.

Kính Chào bái chư vị Tri Thức.

 

   

Viết tại Chùa Bảo Vương, Mùa An Cư PL 2559

  HT. Thích Huyền Tôn

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 56)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(Xem: 164)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 216)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 410)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 311)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 338)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 387)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 623)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 681)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 641)
Tóm tắt: Phật giáo là tôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 687)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 602)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 547)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 594)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 687)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 705)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 800)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 598)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 494)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 575)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 670)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 590)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 591)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 695)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 712)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 704)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 769)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 795)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 770)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 962)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 830)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1391)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 914)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1080)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 832)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1063)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 994)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 981)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1122)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1403)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 1752)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 972)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1162)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 972)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 827)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 950)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 973)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1395)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1145)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1175)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 925)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1070)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1523)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1399)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1393)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 981)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1376)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1291)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1214)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant