Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Triết Lý Hoa Sen Và Ý Nghĩa Tam Thừa Trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa

11 Tháng Chín 201516:06(Xem: 10766)
Triết Lý Hoa Sen Và Ý Nghĩa Tam Thừa Trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa
TRIẾT LÝ HOA SEN VÀ Ý NGHĨA TAM THỪA
TRONG KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA

Thích Giác Chinh

Triết Lý Hoa Sen Và Ý Nghĩa Tam Thừa Trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa

 

Hoa senbiểu tượng triết lý, tượng trưng cho sự thuần khiếtsinh hóa hồn nhiên[1] trong Phật giáo. Phật giáo Đại thừa[2] sử dụng Liên hoa diệu pháp hay Diệu pháp liên hoa[3] là hình ảnh liên hệ mật thiết đến Niêm hoa vi tiếu[4] và là biểu ngữ ẩn dụ của Tam thừa.[5]

Hoa Sen biểu trưng cho những giá trị đạo đức, sự thuần khiếtthánh thiện, sự duy trì và phát triển Phật pháp, trí tuệ dẫn đến Niết Bàn. Hoa senhình ảnh nhập thế một cách tích cựctiêu biểu nhất. Trên thế giới ít có loài hoa nào có nhiều phẩm chất cao quý như hoa sen. Bởi vậy mà nhà Phật ví nó như những đức tính của người tu hành giải thoát. Điển hình như, khi lễ Tam bảo, hai bàn tay chắp lại làm thành hình hoa sen búp, được gọi là phép lễ lạy “Liên hoa hiệp chưởng”. Bộ Tam y của một vị thầy Tỳ-kheo dùng để mặc hàng ngày và trong nghi lễ được gọi là “Liên hoa phục” hay còn gọi là “Liên hoa y”. Trong thế giới Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà được gọi là “Liên Bang”. Theo Tịnh Độ tông hay còn gọi là Liên tông thì trong thế giới này có rất nhiều hoa sen tinh khiết, thơm ngát hương, v.v… Theo một số giải thích của Tổ sư Liên tông, các nhóm bạn thân hữu cùng tịnh nghiệp để tu tập được gọi là “Liên xã” và thời gian được dùng để niệm Phật được gọi là “Liên liêu”, v.v… Đôi lúc trong đời sống hàng ngày người ta khen tặng một người có đôi mắt trong sáng, tươi đẹp thì gọi là “người có mắt sen” như người Ấn Độ đã gọi “Sri Krishna”, có nghĩa là đôi mắt hoa sen, v.v… rất nhiều ví dụ thú vị.

Ý nghĩa chung nhất cho triết lý loài hoa tinh khiết này là sự tượng trưng cho Tam Bảo – Phật, Pháp, Tăng và là biểu tượng của các đức hạnh Trí tuệ, Hỷ xả, Tinh tấn, Thanh tịnh, Từ bi. Hoa sen mọc trong đầm nước, từ một cõi trần ô trọc, bùn dơ nước đục đã vươn lên trở thành một bông hoa thanh cao, bông hoa thơm ngát, bông hoa của vũ trụ. Bông hoa này đã đi vào tâm thức của mọi người, trở thành hình tượng trong nghệ thuật, văn chương, kiến trúc - điêu khắc và cả trong đời sống hằng ngày... Đặc biệt, hoa sen trở thành biểu tượng trong nghệ thuật Phật giáo và nghệ thuật triết lý của Phương Đông. Nó tượng trưng cho vẻ đẹp thần bí, huyền ảo, tư tưởng sâu kín.

Trong nghệ thuật Việt Nam, hình tượng hoa sen dày đặc từ các phù điêu, đá tảng kê chân cột, bệ tượng Phật đến các dáng gốm và họa tiết trang trí. Hoa sen đã hóa thân vào những bài ca dao, tục ngữ, và câu truyền khẩu trong dân gian, đó là sự dung hòa triết lý Phật giáo và triết lý dân tộc Việt Nam:

“Trong đầm gì đẹp bằng sen
Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng…”

Hay:

“Sen nở trong đầm đỏ trắng phơi,
Bùn nhơ không nhiễm sắc thêm tươi.
Thân ngay, ngó rỗng, gương đầy hột.
Cái lý tu hành cũng thế thôi.”

Sở dĩ người ta cho rằng hoa sen luôn gắn với Phật giáo là vì ở loài hoa này trong hoa đã có quả, nên cách gọi bao hàm nghĩa rộng trong trường hợp này là “vị liên cố hoa”, tượng trưng cho ý nghĩa của triết lý “nhân quả”, mang ý nghĩa Đạo đức học trong triết học Phật giáo.

Việt Nam, có một vài huyền thoại gắn với hoa sen như trong các sách sử phả ký và trong Đại Việt sử ký có ghi: khi Hoàng Hậu Đặng Thị[6] có thai vua Lê Đại Hành (941 - 1005), nhân một đêm nằm ngủ Bà mơ thấy bụng nở hoa sen. Đức vua Điều ngự Giác HoàngTrần Nhân Tông (1258 - 1308) nằm ngủ ở trong Chùa Tư Phúc mơ thấy ở bụng mình, ngay rốn mọc lên một hoa sen, trên hoa sen có một vị Phật thân mình vàng sắc ánh. Vào năm 1049, vua Lý Thái Tông (1028 - 1054) mơ thấy Đức Phật Quan Âm ngồi trên đài sen dắt vua lên ngự ở tòa chính điện trong cung. Chính vì thế mà Liên Hoa Đài[7] (蓮 花 臺) tức là “đài hoa sen” được xây dựng phỏng theo giấc mơ của vua Lý Thái Tông, còn được gọi là Diên Hựu Tự (延 祐 寺) hay Chùa Một Cột, hiện nằm giữa lòng thủ đô Hà Nội. Đó là một số hình ảnh liên đới giữa truyền thống dân tộc và Phật giáo Việt Nam biểu hiện qua triết lý hình tượng hoa sen trong Đạo Phật.

Trước khi tìm hiểu ý nghĩagiá trị Tam thừa trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, thiết nghĩ trước hết chúng ta cần hiểu sơ lược về từ nguyên của đề kinh. Kinh Diệu Pháp Liên Hoa theo tiếng Phạn (Sanskrit) là Saddharmapuṇḍarīka-sūtra. Trong bản dịch Hán Tạng – Đại Chính Tân Tu Đại Tạng Kinh (大 正 新 脩 大 藏 經) cao Tăng đời Tây Tấn, nước Nguyệt ThịTam Tạng Trúc Pháp Hộ[8] dịch từ “Sad”[9] trong Phạn bản là “Chánh” như thấy trong Đại Tạng “正 法 華 經”[10], nhưng Ngài Tam tạng Pháp sư Cưu-ma La-thập đời Hậu Tần nước Quy Tư phụng chiếu dịch”[11] từ “Sad” trong Phạn bản là “Diệu” như đã được thấy trong Đại Tạng là “妙 法 蓮 華 經”[12]. Ở Việt Nam, Hòa thượng Thích Trí Tịnh cũng dịch là “Diệu Pháp Liên Hoa Kinh”[13]; “Dharma”[14] là Pháp; “Puṇḍarīka”[15] là Hoa Sen Trắng; “Sūtra”[16] là Kinh. Ở Việt Nam các dịch giả dịch đầy đủ là “Diệu Pháp Liên Hoa Kinh” như đã thấy lâu nay đã truyền bản, còn được gọi tắt là Pháp Hoa Kinh.

‘Phương’ theo tiếng thuần Việt là phương hướng, phương pháp, phương tiện, v.v…, ‘Tiện’ là dễ dàng, thuận lợi, tiện dụng, tiện ích, tiện lợi, tiện nghi, v.v… “Phương tiện” được hiểu và sử dụng như là một phương pháp thiện xảo, thường xuất hiện trong các bản kinh tiếng Phạn là: upāya-kauśalya (S.), và một số ít kinh điển Pàli là: upāya-kusala.

Trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, đức Phật Thích Ca đã thị hiện để giúp chúng sanh “ngộ nhập Phật tri kiến”. Có nghĩa là Phật chỉ tuỳ cơ duyên, sử dụng các phương tiện bằng niềm tin (S. upāya) mà nói Tam thừa nhưng thực chất chỉ có Phật thừa (S. buddhayāna) dẫn đến giác ngộ. Quan điểm này được làm sáng tỏ bằng ẩn dụ một người cha vì muốn cứu những đứa con ham chơi, không biết nghe lời ra khỏi căn nhà đang cháy nên người cha đành phải hứa cho mỗi người con một món quà tuỳ ý thích của chúng, đứa thì được xe nai, đứa xe dê,... để dụ chúng ra ngoài. Đó là lối giáo hóa tùy duyên làm lợi ích cho chúng sanh, cho hữu tình. Đó là kim chỉ nam cho Phật giáo nhập thế.

Triết lý này như một định hướng có thể vận dụng để giải quyết các vấn đề về xã hội. Hãy cố giúp mọi người, mọi ngành khoa biết rõ về bản chất sự vật hiện tượng vốn y như thật, y như bản nguyên, dù được biểu hiện ở khía cạnh nào đi nữa thì chẳng qua đó chỉ là phương tiện. Do vậy, con người trong xã hội cần phải sống hòa hợp, hòa bình, phát triển và tiến bộ.

 _____________________________

 [1] Monier-Williams, Sanskrit – English Dictionary, phiên bản offline chạy trên Windows.

[2] H. 大 乘, S. Mahāyāna, dịch âm Hán-Việt là Ma-ha-diễn-na (H. 摩 訶 衍 那) hay Ma-ha-diễn (H. 摩 訶 衍), tức là “cỗ xe lớn” hay còn gọi là Đại Thặng tức là “bánh xe lớn” là một trong hai trường phái lớn của Phật giáo; trường phái còn lại là Theravāda (P.), S. Hīnayāna.

[3] 經 文 資 訊, 大 正 新 脩 大 藏 經 第 九 冊, No. 262 “妙 法 蓮 華 經”: (Kinh văn tư tấn), Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, đệ cửu sách, số 262, Diệu Pháp Liên Hoa Kinh. Một trong những bộ kinhPhật giáo Đại thừa xem quan trọng nhất, được lưu hành rộng rãi đó là Diệu Pháp Liên Hoa Kinh (H. 妙 法 蓮 華 經, S. saddharmapuṇḍarīka-sūtra), cũng được gọi vắn tắtkinh Pháp hoa (H. 法 華). The Lotus Sutra, Tshò Volume 9, Number 262, Translated from the Chinese of Kumàrajiva, by Tsugunari Kubo and Akira Yuyama, Numata Center for Buddhist Translation and Research, 2007. Trong dịch bản English, các dịch giả, các nhà xuất bản dịch Saddharmapuṇḍarīka-sūtra là: “The Lotus Sutra” hoặc là “The Saddharmapundarika Sutra” do An abridged rendering produced for WBO Day ’99 ấn hànhphiên dịch.

[4] Niêm hoa vi tiếu (H. 拈 花 微 笑) có nghĩa là: cầm hoa mỉm cười. Đây là một giai thoại thiền, ghi lại sự kiện Đức Phật đưa cành hoa lên khai thị, Tôn giả Ca Diếp mỉm cười, là ý nghĩa chỉ có sự giao cảm, sự rung động giữa hai tâm thức Thầy và Trò, và hai tâm thức này đã đồng nhất. Đó là cái tâm vi diệu Niết-bàn.

[5] H. 三 乘, S. Triyāna; là ba cỗ xe đưa đến Niết-bàn (H. 涅槃, S. Nirvāṇa, P. Nibbāna), đó là Thanh Văn Thừa (H. 聲 聞 乘, S. śrāvakayāna), Độc giác thừa (H. 獨 覺 乘, S. pratyekabuddhayāna) và Bồ-tát thừa (H. 菩 薩 乘, S. bodhisattvayāna).

 

[6] Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Bản kỷ, Quyển 1, Kỷ Nhà Lê, Mục Đại Hành Hoàng Đế.

[7] Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, bản kỷ toàn thư, quyển 2.

[8] 經 文 資 訊, 大 正 新 脩 大 藏 經 第 九 冊 No. 263 “正 法 華 經” (Kinh văn tư tấn), Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh đệ cửu sách, No. 263, Chánh Pháp Hoa Kinh.

[9] Vaidya, Dr. P.L ed. Buddhist Sanskrit Texts No. 6 Saddharmapuṇḍarīka-sūtra, Darbhanga: The Mithila Institute, 1960.

[10] Sđd, 大 正 新 脩 大 藏 經 第 九 冊 No. 263 “正 法 華 經”.

[11] 經 文 資 訊, 大 正 新 脩 大 藏 經 第 九 冊, No. 262 “妙 法 蓮 華 經”: (Kinh văn tư tấn), Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, đệ cửu sách, 262, Diệu Pháp Liên Hoa Kinh.

[12] Sđd, 大 正 新 脩 大 藏 經 第 九 冊, No. 262 “妙 法 蓮 華 經”.

[13] Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, dịch giả: HT. Thích Trí Tịnh, Nxb Tôn Giáo, 2008.

[14] Sđd, Vaidya, Dr. P.L ed. Buddhist Sanskrit Texts No. 6 Saddharmapuṇḍarīka-sūtra.

[15] Sđd, Vaidya, Dr. P.L ed. Buddhist Sanskrit Texts No. 6 Saddharmapuṇḍarīka-sūtra.

[16] Sđd, Vaidya, Dr. P.L ed. Buddhist Sanskrit Texts No. 6 Saddharmapuṇḍarīka-sūtra.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1257)
Khi học sinh từng người, từng người tốt nghiệp rời khỏi Phật học viện rồi, tôi bắt đầu xây dựng Biệt phân viện[1]khắp nơi, để ...
(Xem: 1620)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển. Phật thuyết từ chứng ngộ
(Xem: 1743)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định. Định có nghĩa là tâm hành giả trụ vào một đối tượng nào đó khiến cho ý không bị tán loạn, dần dần tâm ý trở nên trong sáng và phát sinh trí tuệ.
(Xem: 1308)
Chúng ta đau khổ do vì vô minh, cho nên chúng ta cần phải đoạn trừ những quan điểm lệch lạc sai lầm và phát triển quan điểm đúng đắn.
(Xem: 998)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh, bất đoạn và bất thường, bất nhất và bất dị, bất lai và bất xuất, là sự tịch diệt mọi hý luận, và là an ổn.
(Xem: 1307)
Lý tưởng giáo dục và những phương pháp thực hiện lý tưởng này, hiển nhiên Phật giáo đã có một lịch sử rất dài.
(Xem: 1797)
Tuệ Trung Thượng Sĩ (慧中上士), Thiền sư Việt Nam đời Trần (1230-1291) có viết trong bài Phóng cuồng ngâm (放狂吟):
(Xem: 1358)
Nhân loại luôn luôn hướng về sự hoàn thiện của chính mình trong tất cả mọi mặt, vật chấttinh thần.
(Xem: 1460)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết nên quyết chí xuất gia học đạo. Đức Phật thành đạo tại thế gian này và cũng hoằng pháp bốn mươi chín năm cũng tại thế gian này.
(Xem: 1287)
Có phải bạn rất đỗi ngạc nhiên về tiêu đề của bài viết này? Có thể bạn nghĩ rằng chắc chắn có điều gì đó không ổn trong câu chuyện này, bởi vì lịch sử về cuộc đời của đức Phật xưa nay không hề thấy nói đến chuyện đức Phật đi tới Châu Âu và Châu Phi. Bạn nghĩ không sai.
(Xem: 2589)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1280)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông, như một số vị thầy hiện nay đã ngộ nhận, khi nói rằng pháp môn này xuất phát từ Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết
(Xem: 1305)
Trong quá trình phát triển, Phật giáo xuất hiện tư trào Đại thừa, nhấn mạnh lý tưởng Bồ tát đạo.
(Xem: 1589)
Tuy Phật giáo Nguyên thủyđại thừa có hai con đường đi đến giải thoát giác ngộ khác nhau.
(Xem: 1567)
Trong cuộc sống này, ai cũng muốn mình có được một sự nghiệp vẻ vang. Người đời thì có sự nghiệp của thế gian.
(Xem: 1530)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1365)
Nhận thức Phật giáo về chân lý có lẽ là một trong những mối quan tâm hàng đầu với những ai đang nghiên cứu hoặc tìm hiểu đạo Phật.
(Xem: 2512)
Con người sống do và bằng ý nghĩ. Ý nghĩ cao cấp thì cuộc sống trở nên cao cấp; ý nghĩ thấp kém thì cuộc sống thành ra thấp kém.
(Xem: 1514)
Đạo nghiệpsự nghiệp trong đạo. Tuy nhiên cái gì hay thế nào là sự nghiệp trong đạo thì cần phải phân tích cặn kẽ để hiểu đúng và thành tựu đúng như pháp.
(Xem: 1499)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1285)
Lục Tổ Huệ Năng, từ khi đến học với Ngũ Tổ một thời gian ngắn ngộ được bản tâm, rồi trải qua mười lăm năm với đám thợ săn
(Xem: 1332)
Của báu thế gian chỉ tồn tại khi ta còn thở. Ngay khi chúng ta nằm xuống, chúng sẽ thuộc về người khác.
(Xem: 1497)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả vinh hoa phú quý...
(Xem: 1452)
Trong cả Phật giáo Nguyên thủy lẫn Phật giáo Đại thừa đều có tư tưởng về Bồ tát. Các ngài xả thânhạnh nguyện mang lại lợi lạc cho chúng sanh
(Xem: 1335)
Một người đã phát tâm Bồ đề được gọi là một Bồ tát. Đời sống Bồ tát là chiến đấu chống lại sự xấu ác trong lòng người để giải thoát họ khỏi khổ đau.
(Xem: 1306)
Xung đột là một hiện tượng phổ biến. Nó hiện diện khắp mọi ngõ ngách của cuộc sống, từ trong những mối quan hệ ...
(Xem: 1415)
Trong Kinh tạng, khái niệm nghiệp thường được nhắc đến một cách đơn giản và khái quát như nghiệp thiện, ác hoặc nghiệp của thân, miệng, ý.
(Xem: 2067)
Đức Phật Dược sư là một đấng Toàn giác. Để hiểu rõ ngài là ai, bản thể của ngài là gì, vai trò của ngài như thế nào…, trước tiên chúng ta cần hiểu thế nào là một chúng sinh giác ngộ.
(Xem: 1443)
Chơn Thật Ngữ chính là Phật ngữ, là chánh pháp ngữ, là thanh tịnh ngữ vì nó đem lại niềm tin sự hoan hỷ an lạclợi ích chúng sanh.
(Xem: 1411)
Ý thức thì suy nghĩ như thế này, nếu sanh thì không phải là diệt, nếu thường thì không phải là vô thường, nếu một thì không phải khác
(Xem: 1513)
Theo kinh điển Phật giáo, việc lắng nghe chính xác, rõ ràng và đầy đủ là một trong những nền tảng quan trọng để thành tựu trí tuệ.
(Xem: 1749)
Chân lý Phật, vừa giản dị vừa rất thâm sâu. Vì thế, Đức Phật đã mượn những câu chuyện dụ ngôn, gắn với hình ảnh của ...
(Xem: 1429)
Tích Niêm Hoa Vi Tiếu kể rằng một hôm trên núi Linh Thứu, Đức Thế Tôn lặng lẽ đưa lên một cành hoa.
(Xem: 1298)
Kinh Pháp Hoa, hay Kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma Puṇḍarīka Sūtra), là một trong những bộ kinh quan trọng
(Xem: 1572)
Khi ánh sao mai vừa tỏ rạng cũng là lúc Đức Phật thành tựu chân lý tối thượng.
(Xem: 1307)
Tất cả các pháp tướng Như hay lìa tướng Như đều không thối chuyển đối với Vô thượng Giác ngộ
(Xem: 1603)
Tất cả chúng sinh mê hoặc điên đảo từ vô thỉ. Nay dùng giác pháp của Phật khai thị, khiến chúng sinh nghe mà ngộ nhập.
(Xem: 2220)
Người tu hành theo Phật Giáo nhắm mục đích là tự mình chứng ngộ và vận dụng cái Tâm đó.
(Xem: 1376)
Về cơ bản, lý duyên khởi giải thoát mô tả tâm lý của thiền, nghĩa là, những gì xảy ra trong tiến trình hành thiền được hành giả trải nghiệm từ lúc đầu cho đến lúc cuối.
(Xem: 1852)
Trong bài này sẽ trích vài đoạn kinh của Kinh Ma ha Bát nhã ba la mật, phẩm Đại Như thứ 54, do Pháp sư Cu Ma La Thập dịch để tìm hiểu về Chân Như.
(Xem: 1577)
Còn gọi là Quy Luật Duyên Khởi, vì đó là lý thuyết về quy luật tự nhiên, quy luật không thuộc về của riêng ai.
(Xem: 1665)
Hình thành tại Ấn Độ từ thế kỷ VI trước Công nguyên, Phật giáo đã phát triển việc truyền bá chánh pháp khắp xứ Ấn Độ và...
(Xem: 1519)
Khi hiểu được việc lành dữ đều có quả báo tương ứng, chỉ khác nhau ở chỗ đến sớm hay muộn mà thôi,
(Xem: 1858)
Tư tưởng chủ đạo của Thuyết nhất thiết Hữu Bộ là: “các pháp ba đời luôn thật có, bản thể luôn thường còn”,
(Xem: 1568)
Xa lìa tà hạnh (không tà dâm) có nghĩa chính yếu là nguyện chung thủy với người bạn đời của mình.
(Xem: 1354)
Người đệ tử Phật thực hành pháp thứ hai một cách hoàn hảo là không trộm cướp, chính xácxa lìa việc lấy của không cho.
(Xem: 1633)
Sau khi phát tâm quy y Tam bảo, người Phật tử được khuyến khích giữ giới (thực hành năm pháp), giới thứ nhất là xa lìa sát sinh.
(Xem: 1488)
Phải nói rằng Tăng đoàn là sự đóng góp rất lớn cho hạnh nguyện độ sanh của Đức PhậtTăng đoàn đã thay Phật để truyền bá Đạo
(Xem: 1451)
Đứng trước biến động khó khăn của cuộc đời, Phật giáo với tinh thần từ bitrí tuệ, lấy tôn chỉ Phật pháp bất ly thế gian pháp đã
(Xem: 1242)
Trong bài Kinh Devadaha, Đức Phật đã luận giải chi tiết về nghiệp. Trái ngược với quan điểm cho rằng nghiệp là định mệnh luận,
(Xem: 1168)
Trong kinh điển tiểu thừa có một điểm khác biệt rất rõ nét so với kinh điển đại thừa, đó là bối cảnh thuyết pháp của Đức Phật.
(Xem: 1210)
Lịch sử tư tưởngtôn giáo của nhân loại có lẽ sẽ đánh dấu một bước ngoặt vào ngày đức Phật, theo truyền thuyết,
(Xem: 1434)
Trong Jataka, tức là những câu chuyện tiền thân của Đức Phật khi ngài còn là một Bồ tát, ngài có nói về hạnh Bồ tát trong...
(Xem: 1546)
Giáo lý Duyên khởi là nền tảng của triết học Phật giáo, do đó luôn là tâm điểm của những nghiên cứu về sự uyên nguyên của đạo Phật.
(Xem: 1526)
Đức Phật khẳng định: “Trong giáo pháp nào nếu khôngtám Thánh đạo thời ở đó không có quả vị Sa-môn thứ nhất, thứ nhì, thứ ba, thứ tư.
(Xem: 958)
Duyên khởi có nghĩa là hết thảy hiện tượng đều do nhân duyên mà phát sinh, liên quan mật thiết với nhau, nương vào nhau mà tồn tại. Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính,” không có yếu tính quyết định.
(Xem: 1407)
Trong các kinh điển thuộc Hán tạng, ‘Phật thị hiện thuyết pháp’ có thể được xem như là một ‘thuật ngữ’ quen thuộc, phổ biến đối với quý Phật tử Đại Thừa.
(Xem: 1416)
Con người được sinh ra đời, sống trong cuộc đời nhưng càng lớn lên càng cảm thấy mình như vẫn thiếu thốn cái gì, như vẫn là một người thất lạc.
(Xem: 1555)
Có lần khi nói về tám thức tâm vương trong Duy thức học, một người hỏi rằng “con người lo sợ là do thức nào?”.
(Xem: 1799)
Giác ngộ cũng tức là giải thoát. Giải thoát cái gì ? Giải thoát khỏi sinh tử luân hồi, điên đảo mộng tưởng, giống như người đang nằm mơ chợt tỉnh dậy,
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant