Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Niết Bàn (Song Ngữ)

14 Tháng Chín 201514:19(Xem: 8076)
Niết Bàn (Song Ngữ)
Từ Ngữ Phật Giáo: Niết Bàn
Dharma Data: Nirvana

Chuyển Ngữ: Nguyễn Văn Tiến 

Niết Bàn (Song Ngữ)

Từ Ngữ Phật Giáo: Niết Bàn

Niết Bàn là một trong những từ ngữ phổ biến nhất mà Đức Phật đã dùng cho mục tiêu tôn giáo của ngài, cùng với những từ ngữ khác như là Sự Xuất Sắc (Pantam), Sự An Ninh (Khemam), Sự Trong Sạch (Suddhi), Hòn Đảo (Dipam), Sự Tự Do (Mutti), và Đỉnh Cao Nhất (Paryanam).

Từ ngữ Niết Bàn xuất phát từ nguồn có ý nghĩa là "Dập tắt ngọn lửa", để nói đến việc dập tắt đi những ngọn lửa tham lam, sân hận, và si mê (tham sân si). Khi những phiền não về tình cảm, và tâm lý bị phá hủy đi bởi trí tuệ, tâm chúng ta trở nên tự do, tươi sáng, và vui vẻ, rồi khi chết đi, chúng ta sẽ không còn bị tái sinh.

Từ lâu, các triết gia Phật Giáo đã tranh cãi về Niết Bàn, đây có phải là sự chấm dứt tuyệt đối, hoặc là một trạng thái tâm linh không-thể-diễn-tả được, hay không. Trong suốt cuộc đời Đức Phật, ngài đã bị cáo buộc là một người có chủ nghĩa hư-vô, một lời cáo buộc mà ngài đã mạnh mẽ bác bỏ, rồi ngài nói thêm rằng:

"Chỉ có một điều, và một điều duy nhất ta dạy, đó là sự đau khổ, và cách chấm dứt sự đau khổ". Do đó, Niết Bàn không có nghĩa là hoàn toàn không-có-gì-cả, cũng không có nghĩa là nơi chốn con người sống theo một cách thức nào đó, mà từ ngữ nầy thường được người ta mang ra xử dụng. Một điều chắc chắn rằng, Niết Bàn không phải là thiên đường, và cũng không phải là một cõi cao nhất, nơi mà linh hồn con người trở về với Thượng Đế (Sự Thật Tuyệt Đối), đây là ý tưởng của Ấn Độ Giáo.

Tùy theo cách chúng ta hiểu Niết Bàn là gì, tuy nhiên, Đức Phật nói rằng "Niết Bàn là hạnh phúc tối thượng" (nibbanam paramam sukham), điều nầy cho chúng ta biết rõ ràng rằng, đây là một mục tiêu đáng giá.

Một số lời chỉ trích về ý nghĩa của Niết Bàn đã được bày tỏ. Câu hỏi là nếu có sự khao khát, có sự mong muốn, có sự ham muốn, sẽ gây ra sự tái sinh, thì làm sao chúng tathể đạt đến Niết Bàn? Bởi vì, nếu chúng ta muốn đạt đến Niết Bàn, thì chúng ta sẽ phải làm-tăng-thêm điều-ngăn-cản chúng ta đạt đến Niết Bàn. Lời nhận xét nầy không hiểu rằng, Niết Bàn không phải là một đối-tượng, mà chúng ta nắm được bằng cách mong muốn, rồi sau đó theo đuổi, mà đây là trạng thái của tâm, khi tâm chúng ta hoàn toàn không có sự-tham-muốn.

Sự chỉ trích khác là, chúng ta phải mất thời gian rất lâu để đạt đến Niết Bàn, và có rất ít người đạt đến Niết Bàn. Lời chỉ trích nầy hoàn toàn không tương ứng với quan điểm của Đức Phật, vì trái lại, Đức Phật đã khẳng định rằng, ai cũng có thể đạt đến Niết Bàn, nếu họ làm theo lời hướng dẫn của ngài, một cách cẩn thậnchân thành, thì họ sẽ đạt đến Niết Bàn trong kiếp nầy.

Về điểm nầy, Phật Giáo Nguyên Thủy, Đại Thừa, và Mật Tông đều đồng ý như thế. Tuy nhiên, những người theo Phật Giáo Đại Thừa, mà đã phát nguyện hạnh Bồ Tát, cố tình trì hoãn mục tiêu đến Niết Bàn, để họ ở lại cõi người, sống trong vòng sinh tử luân hồi, giúp đỡ tất cả chúng sinh.

Johansson, R. - Tâm Lý Của Niết Bàn. Garden City, 1970; Tillekeratna, A. - Niết Bàn Và Sự Không Thể Nghĩ Bàn. Colombo, 1995; De Silva, L. - Niết Bàn Như Là Một Kinh Nghiệm Sống. Kandy, 1995.

 

Dharma Data: Nirvana

The most common of several names that the Buddha gave to the goal of his religion, some of the others being the Excellent (Pantam), Security (Khemam), Purity (Suddhi), the Island (Dipam) Freedom (Mutti) and the Culmination (Paryanam).

The word Nirvana comes from the root meaning 'to blow out' and refers to the extinguishing of the fires of greed, hatred and delusion. When these emotional and psychological defilements are destroyed by wisdom, the mind becomes free, radiant and joyful and at death one is no longer subject to rebirth.

Buddhist philosophers have long debated about whether Nirvana is absolute cessation or an ineffable transcendental state. During the Buddha's lifetime he was sometimes accused of being a nihilist, a charge he strongly denied, adding

"One thing and only one thing do I teach, suffering and the cessation of suffering". It would seem therefore that Nirvana is neither complete nothingness or existence being in the way that these words are usually used. One thing is certain though, it is not a heaven state and it is not the absorption of the individual soul into an Absolute, an idea that is more indicative of Hinduism.

However, whichever way it is understood, the Buddha's saying that "Nirvana is the ultimate happiness" (nibbanam paramam sukham) makes it clear that it is a worthwhile goal.

Several criticisms of the doctrine of Nirvana are sometimes expressed. If, it is asked, desire, wanting and craving causes rebirth then how could one ever attain Nirvana because in wanting to attain it one would be strengthening the very thing that prevents it from being attained? This comment fails to understand that Nirvana is not an object that one acquires by wanting and then pursuing, rather it is the state of being utterly without wanting.

Another criticism is that Nirvana takes so long to attain and so few can do it. Neither of these criticisms correspond with the Buddha's view, on the contrary he asserted that anyone can attain Nirvana and that if his instructions are followed sincerely and carefully one could do it within the present life.

On this point Theravada, Mahayana and Tantrayana agree. Mahayanists who have taken the bodhisattva vow, however, deliberately postpone that goal so they can remain in samsara to help all beings.

Johansson, R. The Psychology of Nirvana. Garden City, 1970; Tillekeratna, A. Nirvana and Ineffability. Colombo, 1995; De Silva, L. Nibhana as a Living Experience, Kandy, 1995.

BÀI ĐỌC THÊM: Niết Bàn (Thích Thông Huệ)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 118)
Trong khi các tín ngưỡng về nghiệp và tái sinh là phổ biến vào thời của Đức Phật,
(Xem: 147)
Đây là ba phạm trù nghĩa lý đặc trưng để bảo chứng nhận diện ra những lời dạy của đức Đạo sư một cách chính xác mà không
(Xem: 218)
Đi vào Pháp giới Hoa nghiêm là đi vào bằng bồ đề tâm thanh tịnh và được cụ thể hóa bằng nguyện và hạnh.
(Xem: 147)
Nhị đế là từ được qui kết từ các Thánh đế (āryasatayā) qua nhân quả Khổ-Tập gọi là Tục đế
(Xem: 199)
Quí vị không giữ giới luật có thể không làm hại người khác, nhưng thương tổn tự tánh cuả chính mình.
(Xem: 180)
Lầu các của Đức Di Lặc tượng trưng cho toàn bộ pháp giới của Phật Tỳ Lô Giá Na; lầu các ấy có tên là Tỳ Lô Giá Na Đại Trang Nghiêm.
(Xem: 217)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(Xem: 231)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 315)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 557)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 420)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 433)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 526)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 709)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 765)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 785)
Tóm tắt: Phật giáotôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 795)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 693)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 668)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 678)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 789)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 810)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 905)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 672)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 580)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 678)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 798)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 684)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 690)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 785)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 808)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 790)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 836)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 863)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 850)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 1039)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 914)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1577)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 1022)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1172)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 912)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1173)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 1084)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 1080)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1227)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1502)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 1936)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1053)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1312)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 1055)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 912)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 1038)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 1069)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1495)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1227)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1250)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 989)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1146)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1612)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant