Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Năm Uẩn (song ngữ)

28 Tháng Chín 201511:18(Xem: 9872)
Năm Uẩn (song ngữ)

Năm Uẩn - Barbara O'Brien
(The Five Skandhas - Barbara O'Brien)

Chuyển Ngữ: Nguyễn Văn Tiến


Nam Uan 1

Năm Uẩn

Đức Phật Thích Ca đã thường nói về Năm Uẩn, cũng còn được gọi là Năm Tập Hợp, hoặc là Năm Đống Hàng Cao Như Ngọn Núi. Nói chung, năm uẩn có thể được nghĩ như sau, khi năm thành phần nầy xảy ra cùng một lúc, sẽ tạo nên một con người. Mọi điều mà chúng ta nghĩ như là "Cái Tôi", chính là một chức năng của năm uẩn. Nói một cách khác, chúng ta có thể nghĩ rằng con người là một quá trình của năm uẩn.

Khi Đức Phật dạy về Bốn Sự Thật Cao Quý (Tứ Diệu Đế), ngài bắt đầu bằng Sự Thật Thứ Nhất, cuộc đời là "khổ" (dukkha). Điều nầy được dịch ra là "cuộc đời là đau khổ," hoặc là "căng thẳng", hoặc là "không làm chúng ta hài lòng." Nhưng Đức Phật cũng dùng từ ngữ nầy theo ý nghĩa là "vô thường", và "có điều kiện." Có điều kiện có nghĩa là phải phụ thuộc vào một cái gì khác, hoặc là bị ảnh hưởng bởi điều gì khác.

Đức Phật dạy rằng năm uẩnđau khổ.

Các thành phần của năm uẩn cùng nhau làm việc, rồi chúng tạo nên một con người, hoặc là một "Cái Tôi." Tuy nhiên, Đức Phật dạy rằng không có "Cái Tôi" trong năm uẩn. Hiểu biết về năm uẩn, giúp cho chúng ta nhìn thấy những ảo ảnh của Cái-Tôi.

Xin lưu ý rằng những lời giải thích dưới đây rất là căn bản. Các tông phái khác nhau của Phật Giáo giải thích về năm uẩn hơi khác nhau, vì thế khi bạn tìm hiểu thêm về năm uẩn, bạn có thể thấy rằng những lời giảng dạy của một tông phái nầy, không hoàn toàn giống lời giảng dạy của một tông phái khác. Tôi cố gắng giải thích ý nghĩa của từ ngữ năm uẩn, để chúng không tùy thuộc vào một tông phái nào.

Trong cuộc thảo luận nầy, trước hết tôi sẽ nói về Sáu Giác Quan (Sáu Căn) và Sáu Đối Tượng Của Sáu Giác Quan (Sáu Trần), và tôi sẽ liệt kê dưới đây để chúng ta cùng tham khảo:

SÁU GIÁC QUAN (SÁU CĂN), GỒM CÓ:

1) Mắt
2) Tai
3) Mũi
4) Lưỡi
5) Thân
6) Ý

SÁU ĐỐI TƯỢNG CỦA SÁU GIÁC QUAN (SÁU TRẦN), GỒM CÓ:

1) Hình Tướng Trông Thấy (Sắc)
2) Âm Thanh (Thanh)
3) Mùi Hương (Hương)
4) Mùi Vị (Vị)
5) Những Gì Ta Xúc Chạm (Xúc)
6) Những Suy NghĩÝ Tưởng (Pháp)

NĂM UẨN LÀ GÌ? DƯỚI ĐÂY LÀ NHỮNG HƯỚNG DẪN CĂN BẢN:

1) UẨN THỨ NHẤT: HÌNH-TƯỚNG (SẮC), TIẾNG PHẠN LÀ RUPA

Từ ngữ tiếng Phạn Rupa, là hình-tướng hoặc là vật chất, là cái gì thuộc về vật chấtchúng ta có thể cảm thấy. Trong thời kỳ đầu tiên của văn học Phật giáo, hình-tướng (sắc) bao gồm Bốn Yếu Tố Lớn còn gọi là Tứ Đại (đất, nước, gió, lửa), cùng với những gì bắt nguồn từ bốn yếu tố trên. Năm giác quan đã được nhắc đến ở trên là (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân) cùng với năm đối tượng tương ứng là (sắc, thanh, hương, vị, xúc) là những gì bắt nguồn từ bốn yếu tố lớn nói trên.

Nói một cách khác cho dễ hiểu, hình-tướng (sắc) là một cái gì đó ngăn trở các giác quan. Thí dụ, một món đồ vật có hình tướng, nếu hình-tướng nầy ngăn trở tầm nhìn của bạn - vì bạn không thể nhìn thấy phía sau của hình-tướng nầy - hoặc là nếu hình-tướng nầy chiếm một khoảng không gian.

2) UẨN THỨ NHÌ: CẢM-GIÁC (THỌ), TIẾNG PHẠN LÀ VEDANA

Từ ngữ tiếng Phạn Vedana, là cảm-giác về thể chất hoặc tinh thầnchúng ta trải nghiệm qua sự tiếp xúc của sáu giác quan (sáu căn) với thế giới bên ngoài (sáu trần). Nói một cách khác, đấy là những cảm-giác qua sự tiếp xúc của mắt với hình tướng trông thấy, qua tai với âm thanh, qua mũi với mùi hương, qua lưỡi với mùi vị, qua thân thể với những gì ta xúc chạm, qua tâm (manas) với những suy nghĩý tưởng

Điều quan trọng đặc biệt để hiểu về tâm (manas), trong năm uẩn, là một giác quan, giống y hệt như mắt hoặc tai. Chúng ta thường có khuynh hướng nghĩ rằng, tâm là một cái gì đó giống như tinh thần hoặc linh hồn, nhưng khái niệm nầy thì không thích hợp với Phật Giáo.

Bởi vì cảm-giác (thọ) là trải nghiệm của sự vui thích hoặc sự đau đớn, nên những điều kiện của nó là sự ham muốn, hoặc là muốn nắm giữ lấy sự vui thích, hoặc là muốn lẫn tránh đi sự đau đớn.

3) UẨN THỨ BA: SỰ-NHẬN-BIẾT (TƯỞNG), TIẾNG PHẠN LÀ SAMJNA, HOẶC TIẾNG PALI LÀ SANNA

Từ ngữ tiếng Phạn samjna, là giác quan nhận-biết. Hầu hết những gì chúng ta gọi là sự suy nghĩ phù hợp với sự tập hợp của sự-nhận-biết (tưởng).

Từ ngữ tiếng Phạn samjna có nghĩa là "sự tổng hợp những kinh nghiệm." Đó là khả năng khái niệm hóa và nhận biết mọi thứ bằng cách kết hợp chúng với những thứ khác. Thí dụ, chúng ta nhận ra đôi giày như là đôi giày bởi vì chúng ta kết hợp chúng với kinh nghiệm chúng ta biết trước kia về đôi giày.

Khi chúng ta nhìn thấy một cái gì đó lần đầu tiên, chúng ta tự động tìm kiếm trong đầu óc của chúng ta, những thể loại mà chúng ta có thể kết hợp với đối tượng mới nầy. Thí dụ, chúng ta nhìn thấy "một dụng cụ có tay cầm mầu đỏ," và chúng ta đặt chúng vào thể loại "dụng cụ" và "mầu đỏ." Hoặc là, chúng ta có thể kết hợp đối tượng với bối cảnh của nó - chúng ta nhận biết một bộ máy là máy tập thể dục bởi vì chúng ta thấy chúng ở phòng tập thể dục.

4) UẨN THỨ TƯ: NHỮNG HÀNH-ĐỘNG-CỦA-TÂM-THỨC (HÀNH), TIẾNG PHẠN LÀ SAMSKARA, HOẶC TIẾNG PALI LÀ SANKHARA

Tất cả những hành động cố ý, tốt và xấu, được bao gồm trong tập hợp của những hành-động-của-tâm-thức. Những hành-động-của-tâm-thức hoạt động như thế nào? Chúng ta hãy nhớ đến những bài kệ đầu tiên của Kinh Pháp Cú (sau đây là bản dịch của Acharya Buddharakkhita) -

Tâm dẫn đầu tất cả các trạng thái về tinh thần. Tâm là chủ; tâm là nơi tất cả mọi ý tưởng bắt nguồn. Nếu một người nói, và hành động với tâm ô nhiễm, đau khổ sẽ theo sau người ấy, giống như các bánh xe theo sau chân con bò kéo.

Tâm dẫn đầu tất cả các trạng thái về tinh thần. Tâm là chủ; tâm là nơi tất cả mọi ý tưởng bắt nguồn. Nếu một người nói, và hành động với tâm thanh tịnh, hạnh phúc sẽ theo sau người ấy, giống như bóng với hình, không bao giờ lìa xa.

Sự tập hợp của những hành-động-của-tâm-thức có liên quan đến nghiệp, bởi vì các hành vi cố ý sẽ tạo nghiệp. Những hành-động-của-tâm-thức cũng chứa nghiệp tiềm ẩn, và nghiệp nầy xác định thái độ và tính thiên vị của chúng ta. Những thành kiến ​​và định kiến ​​thuộc về loại uẩn này, cũng như sự quan tâm và sự hấp dẫn.

5) UẨN THỨ NĂM: CÁI BIẾT (THỨC), TIẾNG PHẠN LÀ VIJNANA, HOẶC TIẾNG PALI LÀ VINNANA

Từ ngữ tiếng Phạn vijnana, là một phản ứng mà có một trong sáu giác quancăn bản, và có một trong số sáu hiện tượng tương ứng là đối tượng của nó. Thí dụ, cái-biết về nghe có tai làm căn bản, và âm thanh là đối tượng của nó. Cái-biết thuộc về tinh thần có tâm (manas) làm căn bản, và ý tưởng hoặc sự suy nghĩ là đối tượng của nó.

Điều quan trọng phải hiểu là cái-biết tùy thuộc các uẩn khác, và không tồn tại một cách riêng biệt. Đây là một cái-biết nhưng không phải là một sự nhận biết, vì sự nhận biếtchức năng của uẩn thứ ba (sự nhận biết, tưởng). Cái-biết nầy không phải là cảm giác, vì cảm giác là uẩn thứ hai (cảm-giác, thọ). Đối với hầu hết mọi người, đây là một cách khác để nghĩ về "cái-biết."

Điều quan trọng khác cần phải nhớ về cái-biết (thức), thì đây không phải là uẩn "đặc biệt", hoặc là uẩn "ở vị trí cao hơn" các uẩn khác. Cái-biết (thức) không phải là "cái-tôi." Hành động và phản ứng của tất cả năm uẩn tạo ra ảo ảnh của một cái-tôi.

The Five Skandhas

The historical Buddha spoke often of the Five Skandhas, also called the Five Aggregates or the Five Heaps. The skandhas, very roughly, might be thought of as components that come together to make an individual. Every thing that we think of as "I" is a function of the skandhas. Put another way, we might think of an individual as a process of the skandhas.

When the Buddha taught the Four Noble Truths, he began with the first Truth, life is "dukkha." This is often translated as "life is suffering," or "stressful" or "unsatisfactory." But the Buddha also used the word to mean "impermanent" and "conditioned." To be conditioned is to be dependent on or affected by something else.

The Buddha taught that the skandhas were dukkha.

The component parts of the skandhas work together so seamlessly that they create the sense of a single self, or an "I." But the Buddha taught that there is no "self" occupying the skandhas. Understanding the skandhas is helpful to seeing through the illusion of self.

Please note that the explanation here is very basic. The various schools of Buddhism understand the skandhas somewhat differently, so as you learn more about them you may find that the teachings of one school don't exactly match the teachings of another. The explanation that follows is as nonsectarian as I could make it.

In this discussion I'll be talking about the Six Organs or Faculties and their corresponding objects, so I'm going to list them here for reference:

THE SIX SENSE ORGANS OR FACULTIES

Eye
Ear
Nose
Tongue
Body
Mind

THE SIX CORRESPONDING OBJECTS

Visible form
Sound
Odor
Taste
Tangible things
Thoughts and ideas

WHAT ARE THE SKANDHAS? HERE IS A BASIC GUIDE. (THE NON-ENGLISH NAMES GIVEN FOR THE SKANDHAS ARE IN SANSKRIT UNLESS OTHERWISE NOTED.)

THE FIRST SKANDHA: FORM (RUPA)

Rupa is form or matter; something material that can be sensed. In early Buddhist literature, rupa includes the Four Great Elements (solidity, fluidity, heat, and motion) and their derivatives. These derivatives are the first five faculties listed above (eye, ear, nose, tongue, body) and the first five corresponding objects (visible form, sound, odor, taste, tangible things).

Another way to understand rupa is to think of it as something that resists the probing of the senses. For example, an object has form if it blocks your vision - you can't see what's on the other side of it - or if it blocks your hand from occupying its space.

THE SECOND SKANDHA: SENSATION (VEDANA)

Vedana is physical or mental sensation that we experience through contact of the six faculties with the external world. In other words, it is the sensation experienced through the contact of eye with visible form, ear with sound, nose with odor, tongue with taste, body with tangible things, mind (manas) with ideas or thoughts.

It is particularly important to understand that manas - mind - in the skandhas is a sense organ or faculty, just like an eye or an ear. We tend to think that mind is something like a spirit or soul, but that concept is very out of place in Buddhism.

Because vedana is the experience of pleasure or pain, it conditions craving, either to acquire something pleasurable or avoid something painful.

THE THIRD SKANDHA: PERCEPTION (SAMJNA, OR IN PALI, SANNA)

Samjna is the faculty that recognizes. Most of what we call thinking fits into the aggregate of samjna.

The word "samjna" means "knowledge that puts together." It is the capacity to conceptualize and recognize things by associating them with other things. For example, we recognize shoes as shoes because we associate them with our previous experience with shoes.

When we see something for the first time, we invariably flip through our mental index cards to find categories we can associate with the new object. It's a "some kind of tool with a red handle," for example, putting the new thing in the categories "tool" and "red." Or, we might associate an object with its context - we recognize an apparatus as an exercise machine because we see it at the gym.

THE FOURTH SKANDHA: MENTAL FORMATION (SAMSKARA, OR IN PALI, SANKHARA)

All volitional actions, good and bad, are included in the aggragate of mental formations. How are actions "mental" formations? Remember the first lines of the dhammapada (Acharya Buddharakkhita translation) -

Mind precedes all mental states. Mind is their chief; they are all mind-wrought. If with an impure mind a person speaks or acts suffering follows him like the wheel that follows the foot of the ox.

Mind precedes all mental states. Mind is their chief; they are all mind-wrought. If with a pure mind a person speaks or acts happiness follows him like his never-departing shadow.

The aggregate of mental formations is associated with karma, because volitional acts create karma. Samskara also contains latent karma that conditions our attitudes and predilections. Biases and prejudices belong to this skandha, as do interests and attractions.

THE FIFTH SKANDHA: CONSCIOUSNESS (VIJNANA, OR IN PALI, VINNANA)

Vijnana is a reaction that has one of the six faculties as its basis and one of the six corresponding phenomena as its object. For example, aural consciousness - hearing - has the ear as its basis and a sound as its object. Mental consciousness has the mind (manas) as its basis and an idea or thought as its object.

It is important to understand that consciousness depends on the other skandhas and does not exist independently from them. It is an awareness but not a recognition, as recognition is a function of the third skandha. This awareness is not sensation, which is the second skandha. For most of us, this is a different way to think about "consciousness."

It is also important to remember that vijnana is not "special" or "above" the other skandhas. It is not the "self." It is the action and interaction of all five skandhas that create the illusion of a self.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8939)
Chánh Ngoa Tập (Uốn nắn những điều sai ngoa) trích từ bộ Vân Thê Pháp Vựng, Đời Minh, chùa Vân Thê ở Cổ Hàng, Sa-môn Châu Hoằng soạn, Như Hòa dịch.
(Xem: 26079)
Từ điển bách khoa Phật giáo Việt Nam, Tập 1 và 2; HT Thích Trí Thủ chủ trương, Lê Mạnh Thát chủ biên
(Xem: 13775)
Các tác phẩm Phật giáo viết bằng Buddhist Hybrid Sanskrit xuất hiện sau khi Pāṇini đã hoàn thành việc chuẩn hóa tiếng Phạn vào khoảng đầu thế kỷ thứ 4 trước dương lịch.
(Xem: 27918)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, các đệ tử tiếp tục truyền bá giáo lý của ngài trong nhân gian. Đồng thời, để bảo đảm giáo lý của ngài một cách trung thực cho hậu thế, họ đã gom lại kết tập để soạn thành một tập toàn bộ kinh điển.
(Xem: 19808)
Tu Tuệ là cách tu tập bằng thiền định phân giải, tức hướng vào mục tiêu phát huy sự hiểu biết, một sự hiểu biết siêu nhiên về bản chất đích thực của mọi vật thể và mọi biến cố...
(Xem: 7741)
Nghiệp không phát động từ bên ngoài mà sinh ra từ bên trong tâm thức của chính mình. Mỗi hành động (karma) đều tạo ra một hậu quả.
(Xem: 7601)
Làm sống lại những tiến bộ của người xưa, mỗi Phật tử sẽ trở thành gạch nối giữa quá khứhiện tại... Đỗ Thuần Khiêm
(Xem: 7456)
Khái quát trên đủ thấy Ðại Tạng kinh Hán văn là một bảo vật vô giá của Phật giáo và chung cho cả nền văn hóa thế giới... HT Thích Thiện Siêu
(Xem: 8007)
Cũng giống như trong Phật giáo, vạn pháp không hiện hữu, chỉ có mối liên hệ của chúng là hiện hữu... Trịnh Xuân Thuận
(Xem: 9715)
Trên thực tế, tất cả giáo huấn của Đức Phật đều nhằm giúp chúng ta vượt qua những khó khăn trong cuộc sống. Phương pháp tiếp cận thật sự rất hợp lýthực tiễn.
(Xem: 22676)
Phật Giáo Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử của nó luôn luôn gắn liền với dòng sinh mệnh của dân tộc... Trần Tri Khách
(Xem: 16903)
Khi Đức Phật ra đời, Ngài đã chỉ bày rõ ràng, cặn kẽ cho người xuất gia cũng như người tại gia ở từng địa hạt một của tâm linh... HT Thích Như Điển
(Xem: 8523)
Đức Phật A Di Đà không tự làm cho tội của chúng sanh tự tiêu hủy, mà cảnh giới của Ngài là nơi những chúng sanh ấy có thể nương nào đó để tồn tạitiến tu thêm nữa... HT Thích Như Điển
(Xem: 10377)
Phương pháp chuyển hóa tâm thức của Đạo Phật không chỉ là một vấn đề niềm tin mà cũng là một niềm tin đạt đến được qua thiền phân tích... Đức Đạt Lai Lạt Ma
(Xem: 10538)
Sau khi dạy cho chúng ta hiểu khổ là gì và nguồn gốc của khổ, Đức Phật đã chỉ cho chúng ta con đường diệt khổ, tức là Bát Chánh Đạo...
(Xem: 11244)
Theo truyền thống tín ngưỡng của dân gian, có lẽ hình tượng 2 vị Thần TàiThổ Địa không xa lạ gì với người dân Việt Nam.
(Xem: 9876)
Phật giáo Mỹ sẽ phải phản ánh những nguyên tắc dân chủ, trong cái nghĩa “tự do và công lý cho mọi người”.
(Xem: 10540)
Muốn được giải thoát, trước hết chúng ta phải quan sát sự vật một cách thật cặn kẽ để có thể biết được và hiểu rõ bản chất thật sự của chúng.
(Xem: 12672)
Ý niệm về kinh liễu nghĩa và kinh không liễu nghĩa song hành với ý niệm về hai sự thật: Sự Thật Tương ĐốiSự Thật Tuyệt Đối.
(Xem: 8770)
Bản-thể-của-Phật còn gọi là Như Lai Tạng, Phật Tính, Pháp Giới, Chân Như... (tiếng Phạn là Tathagatagarbha), là một khái niệm quan trọng của Đại Thừa Phật Giáo.
(Xem: 19835)
Khi gọi là điều đạo đức, người ứng dụng hành trì sẽ cảm thấy có nhu cầu hướng tới, bởi điều đạo đức luôn mang đến hạnh phúc an lành cho con người.
(Xem: 20798)
Bát chánh đạocon đường tâm linh có khả năng giúp cho người phàm trở thành bậc Thánh. Trước hết là Chánh kiến, tức tầm nhìn chân chính...
(Xem: 21338)
Đọc Bát Đại Nhân Giác để trải nghiệm các giá trị cao siêu trong từng nếp sống bình dị, theo đó hành giả có thể tự mình mở mắt tuệ giác, trở thành bậc đại nhân...
(Xem: 13408)
Phật pháp ẩn tàng trong tất cả sự sự vật vật, và con đường giác ngộNhư Lai tuyên thuyết vốn dành cho tất cả chúng sinh có duyên được tiếp cận với đạo Phật.
(Xem: 10540)
Biết thân là huyễn mộng còn khó vứt bỏ huống hồ người chẳng giải ngộ. Nương vào lời Phật mà hành, tự ta mới có thể chuyển mệnh...
(Xem: 9514)
Sáu ba-la-mật là Bồ-tát hạnh. Bồ-tát hạnh gồm có hai sự tích tập: tích tập phước đức là làm lợi lạc cho người khác và tích tập trí huệ là xóa tan bóng tối vô minh...
(Xem: 26739)
Theo giáo lý đạo Phật, không ai có thể siêu độ cho ai, không ai có thể giải thoát cho ai, ngoại trừ chính cá nhân người đó.
(Xem: 10727)
Những Tỷ-kheo trong hội chúng bậc Thánh rõ biết “Đây là khổ”. Vì thấy rõ khổ nên nhàm chán, viễn ly, không tham danh vọng...
(Xem: 12097)
Trung quán tông luận phá mọi kiến giải về Thực tướng, không phải để phủ nhận Thực tướng mà để đưa đến Prajña (trí tuệ Bát-nhã)...
(Xem: 30856)
Đây là bộ sách trích lục những từ ngữ trong phần “Chú Thích” và “Phụ Chú” của bộ sách GIÁO KHOA PHẬT HỌC do chúng tôi soạn dịch...
(Xem: 14104)
Người Phật tử, dù là xuất gia hay tại gia đều không thể sống buông thả, phóng dật. Bởi lẽ, chúng ta nhận thức đời người là vốn quý, cuộc sống lại có hạn.
(Xem: 11127)
Môn Nhân minh học Phật giáo dạy chúng ta tư duy đúng đắn để có nhận thức đúng đắn, là chìa khóa của mọi thành công ở đời.
(Xem: 11081)
Ý thức sâu sắc của người Phật tử đối với tầm quan trọng thực tiễn của hiện tại khiến cho họ năng động hơn, tỉnh táo hơn, làm việc hết mình trong hiện tại.
(Xem: 11223)
Đạo Phật nhắc nhủ chúng ta, muốn giác ngộgiải thoát, đi theo con đường Phật chỉ bày thì phải đi, phải tu, chứ không thể nói suông được.
(Xem: 11616)
Tất cả Phật tử chúng ta hãy sống thiện như những cái cây có bộ rễ toàn hút những chất ngọt trong đất. Nhất định đời sống chúng ta sẽ an lạc hạnh phúc.
(Xem: 12707)
Để dạy Vô ngãVô phân biệt trong khi hành động theo cách phân biệt kỳ thị là không phù hợp lời nói với hành động.
(Xem: 24009)
Kiến thức là gì? Nó đã được thu thập hàng nghìn năm qua hằng bao kinh nghiệm, tích trữ trong trí não như kiến thức và ký ức. Và từ ký ức đó, tư tưởng (thought) phát sanh.
(Xem: 14900)
Hiện tại là giờ phút duy nhất mà mình có thể chọc thủng được bức màn thương đau, bức màn vô minh để có thể tiếp xúc được ngay với an lạc, với hạnh phúc, với tuệ giác.
(Xem: 11610)
Góp duyên để người xuất gia hoàn thành sứ mạng thiêng liêng đồng nghĩa với hạnh nguyện hộ pháp.
(Xem: 20222)
Nếu ai bị ái làm khổ thân mà diệt được thì gọi là cứu cánh, cứu cánh phạm hạnh, cứu cánh an ổn, cứu cánh vô dư (Niết-Bàn).
(Xem: 10592)
Trong các thứ hạnh phúc, được thực tập và sống theo lời Phật dạy là an vui, hạnh phúc lớn nhất. Nhờ đó, ta có được bình yên, hạnh phúc thật sự...
(Xem: 10357)
Muốn vô hiệu hóa cơn giận, trước khi nó bộc phát, Phật dạy ta hãy thường xuyên quán chiếu, xem xét sâu vào nội tâm để ta luôn tỉnh giác từng tâm niệm của mình.
(Xem: 12231)
Xin hãy đọc Kinh điển với tâm sáng suốt thanh tịnh, không vội tin chắc vào bất kỳ điều gì, mà phải nỗ lực thông qua sự hành trì thực nghiệm...
(Xem: 11479)
Sự thật về mọi sự là vô thường, khổ, vô tự tánh, vô ngã, giả hợp, như mộng, như huyễn được đạo Phật gọi là chân lý tuyệt đối, tối hậu (chân đế).
(Xem: 14266)
Cùng với chánh niệm thường trực, tàm và quý chính là hai nhân tố vô cùng quan trọng để mỗi người tự răn nhắc mình hướng thượng và thăng hoa.
(Xem: 11927)
Do định sinh trí huệ, dùng trí huệ này quán sát các pháp sẽ thấy biết như thật, quán sát vũ trụ vạn vật đúng như nó là, không sai sót mảy may.
(Xem: 24589)
Những gì Đức Phật dạy chúng ta, bằng hai con đường: tâm linh và khoa học con người sẽ đạt được cứu cánh giải thoát khỏi tất cả mọi ràng buộc...
(Xem: 12325)
Chúng ta phải cố gắng loại trừ tất cả những cảm xúc tiêu cực và phát triển những cảm xúc tích cực - vô hạn lượng - đặc biệt trong sự thực hành Phật Giáo...
(Xem: 22244)
Để thành tựu được lễ dâng y kathina, người thí chủ cần phải có sự hiểu về tấm y gọi là “Y Kathina” và nghi thức làm lễ dâng y kathina đến chư Tỳ khưu Tăng.
(Xem: 12537)
Đối với nhà Phật cho là con người ai cũng có Phật tánh, mà có Phật tánh tức là có tánh tốt.
(Xem: 12708)
Có thể nói, sự hiểu biết đúng đắn thuyết nhân quả nghiệp báo của đạo Phật sẽ tạo cho mỗi người một ý thức trách nhiệm rất cao đối với cá nhân mình và xã hội.
(Xem: 12613)
Đã là người đệ tử thì chúng ta phải tin và hành theo lời dạy của Phật, đó mới đúng là người đệ tử chân chánh, biết tôn sư trọng đạo, hiếu nghĩa trọn vẹn.
(Xem: 16794)
Có một thời gian Tôn-giả Đại Mục-kiền-Liên phụ trách trông coi việc dựng thiền-thất tại vườn Lộc-Dã; một hôm trong lúc Tôn-giả đang đi kinh hành trên khoảng đất trống...
(Xem: 13720)
Bất cứ một hiện tượng nào được phát sinh ra cũng đều phải nhờ vào một sự kết hợp của nhiều nguyên nhân và nhiều điều kiện...
(Xem: 13019)
Cách tốt nhất để vượt thắng những điều không may, hay những thứ xui xẻo hãy tự mình làm nên những công đứcthiền quán về tánh không...
(Xem: 13468)
Nghiệp báo của sự tàn phá môi trường được phản ánh trong cuộc thảm sát đẫm máu bạo tàn dòng họ Thích Ca (Sakyā) bởi lòng hiềm thù mê muội của vua Tỳ Lưu Ly...
(Xem: 12547)
Với người xuất gia, phẩm vị được khẳng định ở giới hạnh chứ không phải ở tuổi tác. Có thể đầu xanh tuổi trẻ nhưng vẫn được tôn trọng cung kính...
(Xem: 14441)
Lòng tin là không nghi ngờ, không thắc mắc, không do dự, trung thành, tín cẩn. Khi nói chuyện với một người, có khi chúng ta tin liền điều người ấy nói...
(Xem: 38412)
Sách này thâu kết lời giảng của đức Đalai Lama về bài kinh ngắn mang tựa đề Bát Nhã Tâm Kinh, một trong những bộ kinh Phật giáo Ðại thừa quý giá nhất.
(Xem: 14616)
Chi tiết nổi bật nhất của pho tượng là đôi chân không tréo vào nhau trong tư thế ngồi thiền mà lại có vẻ như buông lơi: một chân gập lại và một chân buông thõng.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant