Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Thiên ĐườngĐịa Ngục Trong Đạo Phật (song ngữ)

29 Tháng Chín 201508:22(Xem: 8761)
Thiên Đường Và Địa Ngục Trong Đạo Phật (song ngữ)

Thiên ĐườngĐịa Ngục Trong Đạo Phật
(Heaven And Hell In Buddhism - London Buddhist Vihara)

Tu Viện Phật Giáo Luân Đôn (London)

Chuyển Ngữ: Nguyễn Văn Tiến

Thien duong va dia nguc

Thiên ĐườngĐịa Ngục Trong Đạo Phật

1) ĐẠO PHẬT KHÔNG CÔNG NHẬN MỘT VỊ THƯỢNG ĐẾ, LÀ MỘT NGƯỜI SÁNG TẠO RA VŨ TRỤ. NHƯ VẬY, ĐẠO PHẬT ĐÃ GIẢI THÍCH NHƯ THẾ NÀO VỀ NGUỒN GỐC CỦA TRÁI ĐẤT, VÀ VŨ TRỤ?

Đây là một trong những câu hỏi mà Đức Phật đã không trả lời. Đức Phật nhận biết rằng, bất cứ câu trả lời nào của ngài, cũng sẽ tạo ra những sự bất đồng ý kiến, và sẽ có sự tranh luận kéo dài trong nhiều ngày. Đức Phật nói rằng, "Không ai có khả năng biết được, sự bắt đầu của thế giới luân hồi (trong các cuộc sống diễn tiến liên tục, ở trong vòng sinh tử). Con người vì thiếu hiểu biết, và bị trói buộc bởi lòng ham muốn, họ đãng trí, và hay đi lang thang, nên họ không thể nào nhận biết được nguồn gốc của con người.

Vũ trụ, và các thành phần của vũ trụ, phải tuân theo luật tuần hoàn của sự sinh ra, của sự chết đi, và của sự tái sinh, do đó thời điểm tuyệt đối khởi đầu của vũ trụ thì không-thể-nghĩ-bàn.

2) DÂN SỐ CỦA CON NGƯỜI TRÊN TRÁI ĐẤT ĐÃ ĐƯỢC TĂNG LÊN NHIỀU-TRIỆU NGƯỜI TRONG NHIỀU-NĂM. THEO Ý NGHĨA CỦA SỰ TÁI SINH, CHÚNG TA GIẢI THÍCH ĐIỀU NẦY NHƯ THẾ NÀO?

Theo các bản văn cổ, có vô số các hệ thống thế giới trong vũ trụ. Trái đất (là một cõi nhỏ không đáng kể trong vũ trụ), không phải là nơi duy nhất có sự sống tồn tại. Người ta nói rằng có ba-mươi-mốt cõi (thế-giới), hoặc là nơi chốn có các sinh vật trong vũ trụ, và trái đất nơi con người cư ngụ chỉ là một trong số các cõi nầy. Một chúng sinh được sinh ra từ một cõi nào đó, tùy thuộc vào nghiệp của họ. Đức Phật nói rằng số lượng của chúng sinh trong vũ trụ lớn đến nỗi, chúng ta không thể nào đếm hết được. Do đó, chúng sinh được sinh ra trong cõi người, có thể đã đến từ một trong ba-mươi-mốt cõi nói trên.

3) THIÊN ĐƯỜNGĐỊA NGỤC, CÓ THẬT KHÔNG?

Các kinh sách Phật Giáo nói rằng có ba-mươi-mốt cõi, hoặc là nơi chốn có các sinh vật trong vũ trụ, kể cả cõi người. Chúng sinh được sinh ra trong một cõi nào đó, tùy thuộc vào nghiệp đã tích lũy của họ.

Cõi thấp kém hơn cõi người, gồm có bốn cõi (A Tu La, Ngạ Quỷ (Quỷ Đói), Súc Sanh (Súc Vật), và Địa Ngục) được mô tả như là những cõi không-có-hạnh-phúc. Những chúng sinh bị sinh ra trong những cõi nầy, là do kết quả của những nghiệp bất thiện mà họ đã làm. Những chúng sinh tham lam quá mức, và có quá nhiều sự dính mắc vào của cải thế gian, có thể bị tái sinh vào cõi Ngạ Quỷ, và họ có thể bị lôi kéo đến nơi mà họ bị dính mắc.

Cõi cao đẹp hơn cõi ngườicõi Trời Chư-Thiên, và cõi Trời Phạm-Thiên. Khi chúng-sinh ở cõi cao hơn, thì sinh hoạt trong cuộc sống của họ có nhiều sự khôn khéo, và sự thông minh hơn, và những chúng sinh nầy có nhiều tuổi thọ hơn.

Những Chư-Thiên có hình tướng vật chất được cấu tạo từ những chất liệu tinh tế hơn so với cõi người. Họ có những giác quan giống như người, và họ tận hưởng cuộc sống với nhiều khoái lạc. Họ cũng có thể có nhiều phép thần thông.

Cõi Trời Phạm-Thiên được mô tả là cõi vừa có hình-tướng, và cũng là cõi không-có-hình-tướng. Trong cõi không-có-hình-tướng, họ hoàn toàn không có thân thể vật chất. Họ sống vượt ra khỏi các cảm giác về vật lý, và họ sống trong trạng thái bình an.

Chúng-sinh ở trong những cõi cao hơn, được mô tả như những Thiên Nhân, và tuổi thọ của họ được biết là kéo dài hàng tỷ năm, so với cuộc sống ở cõi người. Đấy cũng là lý do tại sao chúng ta gọi họ là những vị "Thần" hoặc vị "Trời."

Mặc dù tuổi thọ của chúng-sinh ở những cõi cao hơn kéo dài nhiều triệu năm, so với trái đất, nhưng cuối cùng, rồi họ cũng phải chết, vì cuộc sống trong tất cả các cõi nầy đều là có điều kiện. Đó là, sự hoạt động của luật nhân quả, và tất cả mọi sự vật có điều kiệnvô thường.

Đấy là ý nghĩa của các thuật ngữ 'Thiên Đường' và 'Địa Ngục' trong giáo lý của Phật Giáo. Cho nên, trong Đạo Phật, không có cõi trời vĩnh viễn, hoặc là địa ngục vĩnh viễn, giống như các tôn giáo khác đã giảng dạy.

4) NIẾT BÀN KHÁC BIỆT VỚI THIÊN ĐƯỜNG VĨNH-CỬU, MÀ ĐÃ ĐƯỢC NÓI ĐẾN TRONG NHỮNG TÔN GIÁO KHÁC, NHƯ THẾ NÀO?

Niết Bàn không phải là một cõi, nơi mà có cuộc sống. Niết Bàn có nghĩa là 'dập tắt ngọn lửa' - dập tắt đi những ngọn lửa, những lý do gây ra vòng sinh tử luân hồi - thế nên, Niết Bàn cũng có nghĩa là không-có sự tái sinh. Niết Bàn không thể được diễn tả theo kinh nghiệm bình thường của chúng ta, vì như thế thì rất hạn chế. Niết Bàn thì không lệ thuộc vào luật nhân quả, cho nên Niết Bàn thì vĩnh viễn.

Niết Bàn là một trạng thái chúng ta đạt được, khi chúng ta hãy còn sống; đây không phải là một điều gì đó chúng ta đạt được sau khi chết. Niết Bànchúng ta đạt được là kết quả do những nỗ lực của chính chúng ta, chứ không phải là kết quả do sự phán xét của một vị thần, hoặc một vị Thượng Đế.

5) CON NGƯỜI CÓ THỂ TÁI SINH LÀM SÚC VẬT, HOẶC LÀ CÂY CỎ, HAY KHÔNG?

Theo giáo lý, súc vậtchúng sinh cũng giống như con người, bao gồm sự kết hợp của tâm-và-thân (nama-rupa). Súc vật cũng không thể nào tránh khỏi nghiệp, giống như con người. Một chúng sinh bị sinh ra trong cõi súc sinh (là cõi thấp kém hơn cõi người) là kết quả của nghiệp bất thiện.

Cây cỏ không phải thuộc loại có thần thức (vinnana), giống như con người, cho nên, con người bị tái sinh thành cây cỏ là điều không thể xảy ra được.

Heaven And Hell In Buddhism

1. BUDDHISM DOES NOT RECOGNISE A CREATOR GOD. HOW IS THE ORIGIN OF THE EARTH AND THE UNIVERSE EXPLAINED IN BUDDHISM?

This was one of the questions at which the Buddha remained silent. The Buddha realised that any answer would create much controversy and argument. The Buddha said, “Without cognisable beginning is this samsara (cycle of existence). The earliest point of beings who, obstructed by ignorance and fettered by craving, wander and fare on, is not to be perceived”.

The universe and its components are subject to the cyclic law of birth, death and rebirth, therefore an absolute begining is inconceivable.

2. THE HUMAN POPULATION ON EARTH HAS BEEN INCREASING BY THE MILLIONS OVER THE YEARS. HOW CAN THIS BE EXPLAINED IN TERMS OF REBIRTH?

According to the ancient texts, there are countless world systems in the universe. The earth (an insignificant speck in the universe) is not the only place where life exists. It is said that there are thirty-one planes or states of existence in the universe and human plane is just one of them. A being is born to a particular plane depending on his accumulated kamma. The Buddha said that the number of beings in the universe is so vast that it cannot be counted. Therefore beings can be born from any of these planes into the human plane.

3. IS THERE A HEAVEN AND A HELL?

The Buddhist texts states that there are thirty one planes or states of existence in the universe, including that of humans. Beings are born into a particular plane depending of their accumulated kamma.

Below the human plane are four planes (Asura,Peta,Thiracchana and Niraya) which are described as unhappy states of existence. Beings are born into these states as a result of their unwholesome kamma. Excessive greed and attachment to worldly belongings may cause re-birth in the Peta plane and be drawn to the place of attachment.

Above the human plane are the Deva and Brahma planes. As the level of plane becomes higher, more subtle is the state of existence and longer is the life span.

The Devas have physical forms which are composed of more subtle material than that in the human plane. They possess physical senses as in humans and enjoy a life of great pleasure. They may also possess supernormal powers.

The Brahma planes are described as form and formless states. In the formless states, the beings are devoid of any material bodies. They transcends all physical sensations and exist in a state of equanimity.

Beings in these higher planes are described as celestial beings and their life span is said to last billions of years relative to earthly life.

It may well be that so called 'gods' are such beings.

Even though the life-spans in these higher planes of existence last millions of years relative to earth, they eventually come to an end, since the existence in all these planes are conditioned: that is, the laws of cause and effect operate, and all conditioned things are impermanent.

This is what is meant by the terms ‘heaven' and 'hell' in Buddhist teachings: there are no permanent heavens or hells as taught in other religions.

4. HOW IS NIBBANA DIFFERENT FROM THE EVER­LASTING HEAVEN, AS TAUGHT IN SOME RELIGIONS?

Nibbana is not a realm of existence. Nibbana literally means ‘blowing out’ - blowing out the causes that produce results in the cycle of life - hence there will be no rebirth. Nibbana cannot be described in terms of our normal experience, which is so limited. Nibbana is not subject to the law of cause and effect, therefore it is permanent.

Nibbana is a state to be attained whilst we are still alive; it is not something we reach after death. It is to be attained as a result of our own efforts, not from the judgment of a divine being.

5. CAN HUMANS BE REBORN AS ANIMALS OR TREES?

According to the teachings, animals are sentient beings just as humans, comprised of mind-matter (nama-rupa) combination. They are subject to the same kammic laws as humans. A being may be born in the animal plane (which is classed below that of human) as a result of unwholesome kamma.

Plants do not have the type of consciousness (vinnana) inherent in a sentient being, therefore rebirth as a plant or tree is not possible.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 163)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 215)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 409)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 310)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 338)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 386)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 622)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 679)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 639)
Tóm tắt: Phật giáo là tôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 685)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 600)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 541)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 594)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 686)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 702)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 800)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 598)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 492)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 574)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 669)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 588)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 591)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 695)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 711)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 703)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 769)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 794)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 770)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 961)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 829)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1388)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 913)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1078)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 832)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1061)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 993)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 981)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1122)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1400)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 1748)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 971)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1160)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 971)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 818)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 949)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 972)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1395)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1144)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1174)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 924)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1068)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1518)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1398)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1391)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 981)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1375)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1289)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1213)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 1254)
Khi học sinh từng người, từng người tốt nghiệp rời khỏi Phật học viện rồi, tôi bắt đầu xây dựng Biệt phân viện[1]khắp nơi, để ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant