Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Thiên ĐườngĐịa Ngục Trong Đạo Phật (song ngữ)

29 Tháng Chín 201508:22(Xem: 8866)
Thiên Đường Và Địa Ngục Trong Đạo Phật (song ngữ)

Thiên ĐườngĐịa Ngục Trong Đạo Phật
(Heaven And Hell In Buddhism - London Buddhist Vihara)

Tu Viện Phật Giáo Luân Đôn (London)

Chuyển Ngữ: Nguyễn Văn Tiến

Thien duong va dia nguc

Thiên ĐườngĐịa Ngục Trong Đạo Phật

1) ĐẠO PHẬT KHÔNG CÔNG NHẬN MỘT VỊ THƯỢNG ĐẾ, LÀ MỘT NGƯỜI SÁNG TẠO RA VŨ TRỤ. NHƯ VẬY, ĐẠO PHẬT ĐÃ GIẢI THÍCH NHƯ THẾ NÀO VỀ NGUỒN GỐC CỦA TRÁI ĐẤT, VÀ VŨ TRỤ?

Đây là một trong những câu hỏi mà Đức Phật đã không trả lời. Đức Phật nhận biết rằng, bất cứ câu trả lời nào của ngài, cũng sẽ tạo ra những sự bất đồng ý kiến, và sẽ có sự tranh luận kéo dài trong nhiều ngày. Đức Phật nói rằng, "Không ai có khả năng biết được, sự bắt đầu của thế giới luân hồi (trong các cuộc sống diễn tiến liên tục, ở trong vòng sinh tử). Con người vì thiếu hiểu biết, và bị trói buộc bởi lòng ham muốn, họ đãng trí, và hay đi lang thang, nên họ không thể nào nhận biết được nguồn gốc của con người.

Vũ trụ, và các thành phần của vũ trụ, phải tuân theo luật tuần hoàn của sự sinh ra, của sự chết đi, và của sự tái sinh, do đó thời điểm tuyệt đối khởi đầu của vũ trụ thì không-thể-nghĩ-bàn.

2) DÂN SỐ CỦA CON NGƯỜI TRÊN TRÁI ĐẤT ĐÃ ĐƯỢC TĂNG LÊN NHIỀU-TRIỆU NGƯỜI TRONG NHIỀU-NĂM. THEO Ý NGHĨA CỦA SỰ TÁI SINH, CHÚNG TA GIẢI THÍCH ĐIỀU NẦY NHƯ THẾ NÀO?

Theo các bản văn cổ, có vô số các hệ thống thế giới trong vũ trụ. Trái đất (là một cõi nhỏ không đáng kể trong vũ trụ), không phải là nơi duy nhất có sự sống tồn tại. Người ta nói rằng có ba-mươi-mốt cõi (thế-giới), hoặc là nơi chốn có các sinh vật trong vũ trụ, và trái đất nơi con người cư ngụ chỉ là một trong số các cõi nầy. Một chúng sinh được sinh ra từ một cõi nào đó, tùy thuộc vào nghiệp của họ. Đức Phật nói rằng số lượng của chúng sinh trong vũ trụ lớn đến nỗi, chúng ta không thể nào đếm hết được. Do đó, chúng sinh được sinh ra trong cõi người, có thể đã đến từ một trong ba-mươi-mốt cõi nói trên.

3) THIÊN ĐƯỜNGĐỊA NGỤC, CÓ THẬT KHÔNG?

Các kinh sách Phật Giáo nói rằng có ba-mươi-mốt cõi, hoặc là nơi chốn có các sinh vật trong vũ trụ, kể cả cõi người. Chúng sinh được sinh ra trong một cõi nào đó, tùy thuộc vào nghiệp đã tích lũy của họ.

Cõi thấp kém hơn cõi người, gồm có bốn cõi (A Tu La, Ngạ Quỷ (Quỷ Đói), Súc Sanh (Súc Vật), và Địa Ngục) được mô tả như là những cõi không-có-hạnh-phúc. Những chúng sinh bị sinh ra trong những cõi nầy, là do kết quả của những nghiệp bất thiện mà họ đã làm. Những chúng sinh tham lam quá mức, và có quá nhiều sự dính mắc vào của cải thế gian, có thể bị tái sinh vào cõi Ngạ Quỷ, và họ có thể bị lôi kéo đến nơi mà họ bị dính mắc.

Cõi cao đẹp hơn cõi ngườicõi Trời Chư-Thiên, và cõi Trời Phạm-Thiên. Khi chúng-sinh ở cõi cao hơn, thì sinh hoạt trong cuộc sống của họ có nhiều sự khôn khéo, và sự thông minh hơn, và những chúng sinh nầy có nhiều tuổi thọ hơn.

Những Chư-Thiên có hình tướng vật chất được cấu tạo từ những chất liệu tinh tế hơn so với cõi người. Họ có những giác quan giống như người, và họ tận hưởng cuộc sống với nhiều khoái lạc. Họ cũng có thể có nhiều phép thần thông.

Cõi Trời Phạm-Thiên được mô tả là cõi vừa có hình-tướng, và cũng là cõi không-có-hình-tướng. Trong cõi không-có-hình-tướng, họ hoàn toàn không có thân thể vật chất. Họ sống vượt ra khỏi các cảm giác về vật lý, và họ sống trong trạng thái bình an.

Chúng-sinh ở trong những cõi cao hơn, được mô tả như những Thiên Nhân, và tuổi thọ của họ được biết là kéo dài hàng tỷ năm, so với cuộc sống ở cõi người. Đấy cũng là lý do tại sao chúng ta gọi họ là những vị "Thần" hoặc vị "Trời."

Mặc dù tuổi thọ của chúng-sinh ở những cõi cao hơn kéo dài nhiều triệu năm, so với trái đất, nhưng cuối cùng, rồi họ cũng phải chết, vì cuộc sống trong tất cả các cõi nầy đều là có điều kiện. Đó là, sự hoạt động của luật nhân quả, và tất cả mọi sự vật có điều kiệnvô thường.

Đấy là ý nghĩa của các thuật ngữ 'Thiên Đường' và 'Địa Ngục' trong giáo lý của Phật Giáo. Cho nên, trong Đạo Phật, không có cõi trời vĩnh viễn, hoặc là địa ngục vĩnh viễn, giống như các tôn giáo khác đã giảng dạy.

4) NIẾT BÀN KHÁC BIỆT VỚI THIÊN ĐƯỜNG VĨNH-CỬU, MÀ ĐÃ ĐƯỢC NÓI ĐẾN TRONG NHỮNG TÔN GIÁO KHÁC, NHƯ THẾ NÀO?

Niết Bàn không phải là một cõi, nơi mà có cuộc sống. Niết Bàn có nghĩa là 'dập tắt ngọn lửa' - dập tắt đi những ngọn lửa, những lý do gây ra vòng sinh tử luân hồi - thế nên, Niết Bàn cũng có nghĩa là không-có sự tái sinh. Niết Bàn không thể được diễn tả theo kinh nghiệm bình thường của chúng ta, vì như thế thì rất hạn chế. Niết Bàn thì không lệ thuộc vào luật nhân quả, cho nên Niết Bàn thì vĩnh viễn.

Niết Bàn là một trạng thái chúng ta đạt được, khi chúng ta hãy còn sống; đây không phải là một điều gì đó chúng ta đạt được sau khi chết. Niết Bànchúng ta đạt được là kết quả do những nỗ lực của chính chúng ta, chứ không phải là kết quả do sự phán xét của một vị thần, hoặc một vị Thượng Đế.

5) CON NGƯỜI CÓ THỂ TÁI SINH LÀM SÚC VẬT, HOẶC LÀ CÂY CỎ, HAY KHÔNG?

Theo giáo lý, súc vậtchúng sinh cũng giống như con người, bao gồm sự kết hợp của tâm-và-thân (nama-rupa). Súc vật cũng không thể nào tránh khỏi nghiệp, giống như con người. Một chúng sinh bị sinh ra trong cõi súc sinh (là cõi thấp kém hơn cõi người) là kết quả của nghiệp bất thiện.

Cây cỏ không phải thuộc loại có thần thức (vinnana), giống như con người, cho nên, con người bị tái sinh thành cây cỏ là điều không thể xảy ra được.

Heaven And Hell In Buddhism

1. BUDDHISM DOES NOT RECOGNISE A CREATOR GOD. HOW IS THE ORIGIN OF THE EARTH AND THE UNIVERSE EXPLAINED IN BUDDHISM?

This was one of the questions at which the Buddha remained silent. The Buddha realised that any answer would create much controversy and argument. The Buddha said, “Without cognisable beginning is this samsara (cycle of existence). The earliest point of beings who, obstructed by ignorance and fettered by craving, wander and fare on, is not to be perceived”.

The universe and its components are subject to the cyclic law of birth, death and rebirth, therefore an absolute begining is inconceivable.

2. THE HUMAN POPULATION ON EARTH HAS BEEN INCREASING BY THE MILLIONS OVER THE YEARS. HOW CAN THIS BE EXPLAINED IN TERMS OF REBIRTH?

According to the ancient texts, there are countless world systems in the universe. The earth (an insignificant speck in the universe) is not the only place where life exists. It is said that there are thirty-one planes or states of existence in the universe and human plane is just one of them. A being is born to a particular plane depending on his accumulated kamma. The Buddha said that the number of beings in the universe is so vast that it cannot be counted. Therefore beings can be born from any of these planes into the human plane.

3. IS THERE A HEAVEN AND A HELL?

The Buddhist texts states that there are thirty one planes or states of existence in the universe, including that of humans. Beings are born into a particular plane depending of their accumulated kamma.

Below the human plane are four planes (Asura,Peta,Thiracchana and Niraya) which are described as unhappy states of existence. Beings are born into these states as a result of their unwholesome kamma. Excessive greed and attachment to worldly belongings may cause re-birth in the Peta plane and be drawn to the place of attachment.

Above the human plane are the Deva and Brahma planes. As the level of plane becomes higher, more subtle is the state of existence and longer is the life span.

The Devas have physical forms which are composed of more subtle material than that in the human plane. They possess physical senses as in humans and enjoy a life of great pleasure. They may also possess supernormal powers.

The Brahma planes are described as form and formless states. In the formless states, the beings are devoid of any material bodies. They transcends all physical sensations and exist in a state of equanimity.

Beings in these higher planes are described as celestial beings and their life span is said to last billions of years relative to earthly life.

It may well be that so called 'gods' are such beings.

Even though the life-spans in these higher planes of existence last millions of years relative to earth, they eventually come to an end, since the existence in all these planes are conditioned: that is, the laws of cause and effect operate, and all conditioned things are impermanent.

This is what is meant by the terms ‘heaven' and 'hell' in Buddhist teachings: there are no permanent heavens or hells as taught in other religions.

4. HOW IS NIBBANA DIFFERENT FROM THE EVER­LASTING HEAVEN, AS TAUGHT IN SOME RELIGIONS?

Nibbana is not a realm of existence. Nibbana literally means ‘blowing out’ - blowing out the causes that produce results in the cycle of life - hence there will be no rebirth. Nibbana cannot be described in terms of our normal experience, which is so limited. Nibbana is not subject to the law of cause and effect, therefore it is permanent.

Nibbana is a state to be attained whilst we are still alive; it is not something we reach after death. It is to be attained as a result of our own efforts, not from the judgment of a divine being.

5. CAN HUMANS BE REBORN AS ANIMALS OR TREES?

According to the teachings, animals are sentient beings just as humans, comprised of mind-matter (nama-rupa) combination. They are subject to the same kammic laws as humans. A being may be born in the animal plane (which is classed below that of human) as a result of unwholesome kamma.

Plants do not have the type of consciousness (vinnana) inherent in a sentient being, therefore rebirth as a plant or tree is not possible.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1610)
Đức Phật khẳng định: “Trong giáo pháp nào nếu khôngtám Thánh đạo thời ở đó không có quả vị Sa-môn thứ nhất, thứ nhì, thứ ba, thứ tư.
(Xem: 1005)
Duyên khởi có nghĩa là hết thảy hiện tượng đều do nhân duyên mà phát sinh, liên quan mật thiết với nhau, nương vào nhau mà tồn tại. Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính,” không có yếu tính quyết định.
(Xem: 1478)
Trong các kinh điển thuộc Hán tạng, ‘Phật thị hiện thuyết pháp’ có thể được xem như là một ‘thuật ngữ’ quen thuộc, phổ biến đối với quý Phật tử Đại Thừa.
(Xem: 1461)
Con người được sinh ra đời, sống trong cuộc đời nhưng càng lớn lên càng cảm thấy mình như vẫn thiếu thốn cái gì, như vẫn là một người thất lạc.
(Xem: 1633)
Có lần khi nói về tám thức tâm vương trong Duy thức học, một người hỏi rằng “con người lo sợ là do thức nào?”.
(Xem: 1899)
Giác ngộ cũng tức là giải thoát. Giải thoát cái gì ? Giải thoát khỏi sinh tử luân hồi, điên đảo mộng tưởng, giống như người đang nằm mơ chợt tỉnh dậy,
(Xem: 1477)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1319)
Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn, còn gọi là Bồ-đề Tát-đa,… Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn (sanskrit), còn gọi là Bồ-đề Tát-đa
(Xem: 1343)
Kính lễ Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn Nay con đem tâm phàm phu suy diễn thánh pháp Là nhờ những bậc tiền bối đã khai triển Pháp này Xin Ngài gia bị cho tâm phàm phu chuyển thành thánh trí
(Xem: 1512)
Con xin đê đầu kính lễ Phật – bậc Nhất thiết trí – đấng Mặt trời tròn thanh khiết. Những tia sáng lời dạy của Ngài đã phá tan bóng đêm trong bổn tâm của chư thiên, loài người và các đường ác.
(Xem: 1116)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau trong suốt nhiều thế kỷ liền đã nỗ lực lý giải khái niệm này bằng cách tận dụng sự hiểu biết hạn chế của mình.
(Xem: 1239)
Dưới đây là một vài dẫn khởi có tính cách thực tiễn đối với sự tu tập công án, được đề ra do các Thiền sư qua nhiều thời đại; từ đó, chúng ta có thể thấy rõ một công án sẽ làm được việc gì để khai triển ý thức Thiền và cũng thấy rõ sự tu tập công án đã bộc lộ cho khuynh hướng nào theo thời gian.
(Xem: 1244)
Có hai hình ảnh quen thuộc gợi lên ý tưởng biến dịch: như dòng sông và như ngọn lửa bốc cháy trên đỉnh núi. Mỗi hình ảnh lại gợi lên một ý nghĩa tương phản: tác thành và hủy diệt.
(Xem: 1670)
Thời gian là một hiện tượng bí ẩn nhất và cũng là sít sao nhất với cuộc sống mỗi người.
(Xem: 1619)
Một thời Thế Tôn trú ở Nālandā, tại rừng Pāvārikamba. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta bạch Thế Tôn:
(Xem: 2909)
Duyên khởi cho bài viết này là từ một bản tin BBC News có nhan đề “Thiền định chánh niệm có thể khiến con người xấu tính đi?”— và từ một số cuộc nghiên cứu khác đã giúp chúng ta có cái nhìn đa diện hơn về Thiền chánh niệm, một pháp môn nhà Phật đang thịnh hành khắp thế giới.
(Xem: 1796)
Khi sinh ra và lớn lên trong cuộc đời này mỗi người đều mang trong mình một huyết thống mà tổ tiên bao đời đã hun đúc, giữ gìntruyền thừa qua nhiều thế hệ.
(Xem: 1352)
Vấn đề tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni phạm tội ba-la-di, thời Phật nghiêm khắc không cho sám hối đều có lý do. Với những lý do đó giống với xã hội bây giờ, cho nên trong chương này chúng tôi thảo luận chung cả hai giai đoạn thời Phật và cuộc sống hiện tại.
(Xem: 1203)
Hiện nay trong nguồn văn hiến hệ Hán truyền, chúng ta tìm thấy nhiều từ ngữ liên quan đến ý nghĩa sám hối như “hối quá 悔過”, “sám hối 懺悔”, “sám-ma 懺摩”, “phát lồ 發露”, thực chất tất cả đều xuất thân từ nghĩa gốc Phạn ngữ (Sanskrit) là từ: kṣama, kṣamayati.
(Xem: 1264)
Trong dòng chảy tâm thức của nhân loại từ xa xưa và cho đến nay luôn chia thành hai hướng, một hướng chảy theo dòng chảy Luân hồi (Saṃsāra), là số chúng sinh tâm tư cấu bẩn phiền não, ngụp lặn trong bùn lầy ố trược.
(Xem: 1374)
Những người con Phật chơn chính, thì lúc nào và ở đâu, họ cũng thực hành phápchánh pháp trở thành đời sống của chính họ. Họ được nuôi dưỡng ở trong chánh pháp và họ vui sống trong chánh pháp mỗi ngày.
(Xem: 1293)
Sự ra đời của Đức Phật nghiễm nhiên đã trở thành sự kiện quan trọng nhất trong suốt mấy ngàn năm tư tưởng Đông phương. Hiện tượng Lâm-tỳ-ni, chính vì thế, đã trở thành một hiện tượng đặc sắc đáng để mọi người nghiên cứu Phật học quan tâm.
(Xem: 1891)
Tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi đau khổ lớn. Đây là động cơ lớn thúc đẩy Thái tử ra đi tìm chân lý.
(Xem: 1645)
Như huyễn là một tính cách, một phương diện của tánh Không. Tánh Khôngvô tự tánh của mọi cái hiện hữu, và vì vô tự tánh nên như huyễn.
(Xem: 1862)
Theo quan niệm nhà Phật thì con người tự ràng buộc mình trong nỗi khổ đau do chính mình gây ra.
(Xem: 1786)
Trên lộ trình hướng về Phật đạo, tôi có duyên được “làm người đưa đò” tại ...
(Xem: 2359)
Bình đẳng tánh trí là gì? Là tánh bình đẳng của đại viên cảnh trí, nghĩa là tánh bình đẳng của tất cả mặt gương và của tất cả bóng hình in vào đó.
(Xem: 1770)
Theo truyền thống Phật giáo Nam tông, y cứ theo lịch Ấn Độ cổ đại, Vũ kỳ An cư (Vassavāsa) bắt đầu từ ngày 16 tháng 6 (tháng Āsālha) và kết thúc vào ngày 16 tháng 9 (tháng Āssina).
(Xem: 2094)
Vào thời Đức Phật, xã hội Ấn Độ rất nhiều học thuyết ra đời, mỗi học thuyết là một quan điểm chủ trương.
(Xem: 2157)
Trong bài này chúng ta sẽ tìm hiểu sơ lược về Đại viên cảnh trí, và trích toàn bộ đoạn nói về trí này trong Kinh Phật Địa, do Tam tạng Pháp sư Huyền Trang dịch ra tiếng Hán.
(Xem: 2276)
am Vô Lậu Học là môn học thù thắng gồm: Giới, Định và Tuệ trong đạo Phật.
(Xem: 1825)
Khi đạo Phật nói về tánh chất của khổ, có nhiều mức độ khổ khác nhau.
(Xem: 1943)
Dân gian thường nói, không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời. Rất khó giải thích về“ba họ” và “ba đời”.
(Xem: 1997)
Chúng ta đã thấy nguồn gốc của kinh tạng Phật giáo phát khởi từ ba kỳ kết tập kinh điển (saṅgīti).[1]
(Xem: 1914)
“Tất cả là vô thường” là một trong ba nguyên lý căn bản của Phật giáo (vô thường, vô ngã và niết-bàn tịch tịnh)
(Xem: 2564)
Không có kinh sách nào, Đức Phật dạy: Phải cầu nguyện, hay nương tựa vào một ai đó, ngay cả việc nương nhờ vào chính Ngài.
(Xem: 1912)
Bản tâm, tự tâm, bản tánh, tự tánh là những danh từ được Lục Tổ Huệ Năng sử dụng trong những lời thuyết pháp của ngài để...
(Xem: 1844)
Muốn thực hiện một đời sống đạo đức, mang lại hạnh phúc cho bản thân cũng như tha nhân thì trước hết con người ấy phải được giáo dục.
(Xem: 1918)
Như chúng ta đã biết, từ xưa lắm các triết gia và sử gia phương Tây từng đưa ra những định nghĩa về con người,
(Xem: 1865)
Sám hối là một thực hành tu tập quan trọng và phổ biến trong Phật giáo. Sám hối là...
(Xem: 2128)
Chúng ta hãy khởi đầu đọc kinh Kim-cang như một tác phẩm văn học. Giá trị văn học là sự biểu hiện thẩm mỹ của nội dung tư tưởng.
(Xem: 2266)
“Bà lão nghèo ngộ pháp Duyên khởi” là bản kinh chúng tôi giới thiệu kỳ này. Nguyên tác “Phật thuyết lão nữ nhơn kinh 佛說老女人經
(Xem: 1942)
“Kinh Căn Tu Tập / Indriya bhàvanà sutta” là bài kinh cuối cùng trong số 152 bài kinh đăng trong Trung Bộ Kinh do...
(Xem: 2044)
Theo Phật giáo, pháp có nghĩa là giáo pháp của Phật. Những lời dạy của Đức Phật chuyên chở chân lý.
(Xem: 1829)
Như Đức Phật đã dạy, một đặc điểm của Giáo Pháp thuần túy là những hiệu ứng phải được thể nghiệm tức khắc lúc này và nơi này, ngay trong cuộc đời này
(Xem: 1881)
Căn cứ thông tin từ tác phẩm Ni trưởng Huỳnh Liên - cuộc đờiđạo nghiệp do Ni giới hệ phái Phật giáo Khất sĩ ấn hành vào năm 2016 thì...
(Xem: 2384)
Từ khi đạo Phật du nhập vào Việt Nam, chúng ta thấy rõ là bất cứ khi nào truyền thống dân tộc nép mình để đi trong dòng sinh mệnh của đạo Phật thì...
(Xem: 2289)
Dựa vào lịch sử Đức Phật, chúng ta được biết, Thái tử Sĩ Đạt Ta (Siddhattha) khi chào đời, bước đi bảy bước, có bảy hoa sen đỡ chân
(Xem: 3907)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2450)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 3152)
Bốn mươi chín ngày sau khi đạt giác ngộ, Đức Phật bi mẫn và thiện xảo đã thuyết Tứ Diệu Đế cho năm vị đệ tử may mắn tại Varanasi.
(Xem: 2436)
Nếu có ai đó yêu cầu tóm tắt toàn bộ giáo lý Phật giáo trong một vài từ ngữ gọn gàng, không cần dài dòng văn tự, tôi sẽ không do dự trả lời rằng, đó là : Ngũ uẩn giai không.
(Xem: 2022)
Bằng sự tu tập lâu dài, vượt qua vách sắt thành đồng của địa ngục Thiết Vi hay sự co duỗi của bàn tay trước mắt mà ta vươn tới sự giải thoát thời đoạn, cuối cùngsự giải thoát hoàn toàn.
(Xem: 1780)
Đức Di Lặc tiếp tục giảng cho đồng tử Thiện Tài về Bồ đề tâm: “Tại sao vậy? Vì nhân nơi Bồ đề tâm mà xuất sanh tất cả Bồ tát hạnh.
(Xem: 3283)
Cộng đồng Tăng Già gồm tứ chúng Tăng NiPhật tử tại gia Nam Nữ với một hội đồng gồm ít nhất là bốn vị Tăng, hay một cộng đồng Tăng Ni sống hòa hiệp với nhau trong tinh thần lục hòa.
(Xem: 2323)
Đến nay, vấn đề xác định kinh điển Phật thuyết hay phi Phật thuyết vẫn là nội dung được các học giả quan tâm nghiên cứu
(Xem: 2997)
Nhiều học giả phương Tây nhận định rằng khái niệm Niết bàn, tức nirvāṇa trong Sanskrit hay nibbāna trong Pali, có thể xem là ...
(Xem: 2672)
Hãy thử tưởng tượng một đoàn người đang ngồi trên một chiếc thuyền trôi giữa biển, trong đêm tối. Sự nhỏ nhoi của con thuyền...
(Xem: 2004)
Vũ trụ này thực sự là gì? Tại sao có những thế giới nhiễm ô của chúng sanh? Làm gì để “chuyển biến” thế giới nhiễm ô thành thế giới thanh tịnh?
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant