Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Đạo Phật Một Triết Lý Sống Của Thời Đại

10 Tháng Mười 201501:24(Xem: 11742)
Đạo Phật Một Triết Lý Sống Của Thời Đại
ĐẠO PHẬT MỘT LÝ TƯỞNG SỐNG CỦA THỜI ĐẠI

Như Hùng

 

Ngày nay, khi đề cập đến Đạo Phật hầu như chúng ta bớt đi sự ngộ nhận lầm tưởng về tôn giáo nầy. Trong thực tế, xét về bản chất Đạo Phật vốn đứng ra ngoài và đi trên tất cả mọi thước đo mà ý thức của ta nắm bắt được. Nó không phải là một định lý đơn thuần đầy ắp những giáo điều, chỉ đạo, dù Đạo Phật phủ trùm lên tất cả mọi hệ thống tư duy của nhân loại, tạo nên một cách sống, lối sống hoàn thiện trong mọi suy tư hành hoạt, và nhất là trong thế giới hôm nay khi những giá trị tinh thần đang có nguy cơ băng hoại.

 

Con đường hành động mà Đạo Phật thể hiện trong quá khứ, hiện tại và tương lai đã chứng minh một cách khẳng quyết, là con đường do Đức Phật hướng dẫn, đã mở ra những kỷ nguyên về hòa bình, bình đẳng, từ bi, trí tuệ, nhân bảngiải thoát. Điều đó, trở thành những mấu chốt, khuôn mẫu quan trọng mà ngày nay con người trong mọi hoàn cảnh vẫn còn phải theo đuổi để đạt được. Những tư tưởng về khổ đau, vô thường, khổ, không, vô ngã, hạnh phúc, trở nên những quy ước của con người. Dù vay mượn đến ngữ ngôn hay một truyết thuyết nào để kích bác, cũng không làm thay đổi được thực trạng này, vì nó không phải là sản phẩm do Đức Phật sáng tạo, gieo rắc để đầu độc con người. Những điều đó là nguyên lý bất di bất dịch, chỉ có trí tuệ của Đức Phật mới trông thấy một cách như thật vẹn toàn. Ngài hé mở cho chúng ta trông thấy, chỉ dẫn cho chúng ta phương cách thoát ly và làm gì để những điều đó không gây nên thống hận khổ đau.

 

Thông thường, có những thứ chúng ta mong cầu nó lại không đến như: Hạnh phúc, dạnh vọng, tiền tài…Ngược lại, có những thứ ta càng tìm cách chạy trốn nó lại xuất hiện như: Khổ đau, phiền não, bệnh tật, vô thường v.v… Sự cấu tạo giữa con người với nhau, giữa xã hội với nhau, giữa tâm thức với nhau, tạo nên những xáo trộn, khủng hoảng về ý thức, biên giới, chủng tộc niềm tin v.v… Cho dù gạt bỏ những dị biệt ấy ra ngoài, chúng ta vẫn còn đầy dẫy những bất đồng không cách gì tháo gỡ được như: Khổ Đau và Vô Thường, hai nguyên lý này đi trên tất cả mọi chủ thuyết, mọi thành tựu của khoa học, của con người, nó xoá nhòa mọi biên giới, liên tục gây khủng hoảng và bất an cho từng cá nhân, xã hội và cho tất cả mọi chúng sanh, mọi thời đại đã qua và sắp tới. Đạo Phật giải quyết được gì cho những vấn nạn đó?

 

Trước hết và trên hết, Đạo Phật là một con đường hướng dẫn chúng ta thoát ly ra ngoài mọi biến động, khổ đau, bất an của đời sống. Tuyệt đối không đi qua cửa ngõ quyền năng hay đánh lừa chúng ta bằng những lời hứa hẹn về thiên đường hay địa ngục. Đạo Phật nhấn mạnh chỉ có chính ta, chủ nhân của thiên đường hay địa ngục, của những suy tư và hành động và ta toàn quyền đi đến một trong hai lối đó, dứt khoát không có kẻ nào đủ quyền năng hộ tống ta đến đích, dù ta có trả bất cứ giá nào.

 

Ý thức tự do trong Đạo Phật, đẩy bung ta thoát ly ra ngoài những cột chặt mà thường nhật ta bị những tác động thiếu ý thức, vô minh đẩy ta rơi vào, hoặc do vì sự cùng quẩn bí lối trong đời sống, khiến ta có lúc phải nhắm mắt trao linh hồn cho kẻ khác toàn quyền định đoạt số phận của chính mình. Thông thường chúng ta hay đòi hỏi và tranh đấu để đuợc tự do, nhưng cái tự dochúng ta có được, phần nhiều do kẻ khác mang đến, nó thuộc phạm vi ngoại tại, vì thế một khi nó bị thu hồi ta sẽ trở nên khủng hoảng , lo sợ. Cũng có lúc ta bị chế ngự, ràng buộc, đầu độc một cách tinh vi, bởi những niềm tin về một đấng tối cao đầy quyền năng tuyệt đối nào đó. Không khéo thoát được cửa ngõ này, ta lại rơi vào những tình huống khác, cơ may thoát ra để có được sự tự do càng mong manh.

 

Trước hết ta phải đẩy bung tâm ý của mình thoát ra ngoài mọi ràng buộc, nếu điều đó ta không suy tư thật kỷ và do lý trí của chính mình mang lại. Đạo Phật chưa bao giờ và không bao giờ cưỡng chế một cá nhân nào dù trong tâm ý, và càng không bao giờ dùng đến quyền năng để khống chế, vì trong Đạo Phật vốn không có những điều đó. Những gì không phải là chân lý, chắc chắn không sớm thì muộn cũng bị đào thải bởi thời gian, chỉ có chân lý như thật mới vượt ra ngoài sự chi phối của thời không.

 

Trong Đạo Phật ý thức về tự do, không phải chỉ đơn thuần giữa một cá nhân mà còn tương quan với mọi chúng sanh. Tự do đúng nghĩa nhất phải là tự do trong thường nghiệm tỉnh thức và suy tư trong tự do tuyệt đối. Điều nầy bổ sung, xúc tác và hổ trợ lẫn nhau, một khi tâm ý luôn ở trong trạng thái tỉnh thức, sáng soi, tức phần nào ta đã kiểm soát và làm chủ được chính mình và cũng có nghĩa, những suy tư và hành động của ta sẽ không gây tổn thương đến kẻ khác. Bằng vào điều này, những nguy hại thông thường trong cuộc sống, là phần nhiều do ta để cho tâm thức của mình chạy theo bản năng, dục vọng, và hành xử do vô minh đưa đẩy. Vì thế, mức độ gây nguy hại tùy vào sự khống chế nhiều hay ít của vô minh. Muốn truy tìm tên giặc nguy hiểm này, ta phải xoay mọi hưng động, tư duy để nhìn thẳng vào chính ta nhiều hơn là ta để nó thong dong không định hướng, và đừng bao giờ biến ta trở thành nạn nhân nô lệ bởi sự sai sử của chính mình.

 

Cuộc sống thật sự có ý nghĩa, là khi ta biết nâng cao những giá trị cao quý, trãi tâm từ của mình trên từng nỗi thống khổ, đem lòng yêu thương trao đến từng người. Những suy tư và hành xử không còn nằm ở bình diện thông tục mà phải hướng đến sự tỉnh thức vẹn toàn, mở ra một tâm thức mới không còn vô minh xúi dục, chỉ có tỉnh thức sáng soi trên từng suy tư hành động. Không có hận thù, khổ đau, ngang trái mà chỉ có yêu thương trãi bày trên từng ý niệm.

 

 Đạo Phật không mang đến cho ta tiền tài hay danh vọng mà chỉ cho ta tình yêu thương bất diệthạnh phúc đích thực miên viễn trong dòng khổ đau của nhân sinh, tìm đến những giá trị an lạcthời gian không đụng đến được. Ý nghĩagiá trị đó, không phải tìm cầu ở một thế giới nào xa lạ, nó ở tại đây, ở ngay trong tâm thức của mỗi chúng ta. Làm sao ta xoa dịu được nỗi thống khổ khi trong ta sầu đau vẫn dâng cao và ngang trái vẫn đong đầy?

 

Như Hùng

(Trích từ Tạp Chí Trúc Lâm số 4&5 năm 1997)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1620)
Giáo lý Duyên khởi là nền tảng của triết học Phật giáo, do đó luôn là tâm điểm của những nghiên cứu về sự uyên nguyên của đạo Phật.
(Xem: 1612)
Đức Phật khẳng định: “Trong giáo pháp nào nếu khôngtám Thánh đạo thời ở đó không có quả vị Sa-môn thứ nhất, thứ nhì, thứ ba, thứ tư.
(Xem: 1008)
Duyên khởi có nghĩa là hết thảy hiện tượng đều do nhân duyên mà phát sinh, liên quan mật thiết với nhau, nương vào nhau mà tồn tại. Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính,” không có yếu tính quyết định.
(Xem: 1481)
Trong các kinh điển thuộc Hán tạng, ‘Phật thị hiện thuyết pháp’ có thể được xem như là một ‘thuật ngữ’ quen thuộc, phổ biến đối với quý Phật tử Đại Thừa.
(Xem: 1464)
Con người được sinh ra đời, sống trong cuộc đời nhưng càng lớn lên càng cảm thấy mình như vẫn thiếu thốn cái gì, như vẫn là một người thất lạc.
(Xem: 1644)
Có lần khi nói về tám thức tâm vương trong Duy thức học, một người hỏi rằng “con người lo sợ là do thức nào?”.
(Xem: 1910)
Giác ngộ cũng tức là giải thoát. Giải thoát cái gì ? Giải thoát khỏi sinh tử luân hồi, điên đảo mộng tưởng, giống như người đang nằm mơ chợt tỉnh dậy,
(Xem: 1492)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1328)
Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn, còn gọi là Bồ-đề Tát-đa,… Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn (sanskrit), còn gọi là Bồ-đề Tát-đa
(Xem: 1346)
Kính lễ Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn Nay con đem tâm phàm phu suy diễn thánh pháp Là nhờ những bậc tiền bối đã khai triển Pháp này Xin Ngài gia bị cho tâm phàm phu chuyển thành thánh trí
(Xem: 1517)
Con xin đê đầu kính lễ Phật – bậc Nhất thiết trí – đấng Mặt trời tròn thanh khiết. Những tia sáng lời dạy của Ngài đã phá tan bóng đêm trong bổn tâm của chư thiên, loài người và các đường ác.
(Xem: 1117)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau trong suốt nhiều thế kỷ liền đã nỗ lực lý giải khái niệm này bằng cách tận dụng sự hiểu biết hạn chế của mình.
(Xem: 1241)
Dưới đây là một vài dẫn khởi có tính cách thực tiễn đối với sự tu tập công án, được đề ra do các Thiền sư qua nhiều thời đại; từ đó, chúng ta có thể thấy rõ một công án sẽ làm được việc gì để khai triển ý thức Thiền và cũng thấy rõ sự tu tập công án đã bộc lộ cho khuynh hướng nào theo thời gian.
(Xem: 1245)
Có hai hình ảnh quen thuộc gợi lên ý tưởng biến dịch: như dòng sông và như ngọn lửa bốc cháy trên đỉnh núi. Mỗi hình ảnh lại gợi lên một ý nghĩa tương phản: tác thành và hủy diệt.
(Xem: 1674)
Thời gian là một hiện tượng bí ẩn nhất và cũng là sít sao nhất với cuộc sống mỗi người.
(Xem: 1623)
Một thời Thế Tôn trú ở Nālandā, tại rừng Pāvārikamba. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta bạch Thế Tôn:
(Xem: 2916)
Duyên khởi cho bài viết này là từ một bản tin BBC News có nhan đề “Thiền định chánh niệm có thể khiến con người xấu tính đi?”— và từ một số cuộc nghiên cứu khác đã giúp chúng ta có cái nhìn đa diện hơn về Thiền chánh niệm, một pháp môn nhà Phật đang thịnh hành khắp thế giới.
(Xem: 1799)
Khi sinh ra và lớn lên trong cuộc đời này mỗi người đều mang trong mình một huyết thống mà tổ tiên bao đời đã hun đúc, giữ gìntruyền thừa qua nhiều thế hệ.
(Xem: 1353)
Vấn đề tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni phạm tội ba-la-di, thời Phật nghiêm khắc không cho sám hối đều có lý do. Với những lý do đó giống với xã hội bây giờ, cho nên trong chương này chúng tôi thảo luận chung cả hai giai đoạn thời Phật và cuộc sống hiện tại.
(Xem: 1208)
Hiện nay trong nguồn văn hiến hệ Hán truyền, chúng ta tìm thấy nhiều từ ngữ liên quan đến ý nghĩa sám hối như “hối quá 悔過”, “sám hối 懺悔”, “sám-ma 懺摩”, “phát lồ 發露”, thực chất tất cả đều xuất thân từ nghĩa gốc Phạn ngữ (Sanskrit) là từ: kṣama, kṣamayati.
(Xem: 1264)
Trong dòng chảy tâm thức của nhân loại từ xa xưa và cho đến nay luôn chia thành hai hướng, một hướng chảy theo dòng chảy Luân hồi (Saṃsāra), là số chúng sinh tâm tư cấu bẩn phiền não, ngụp lặn trong bùn lầy ố trược.
(Xem: 1381)
Những người con Phật chơn chính, thì lúc nào và ở đâu, họ cũng thực hành phápchánh pháp trở thành đời sống của chính họ. Họ được nuôi dưỡng ở trong chánh pháp và họ vui sống trong chánh pháp mỗi ngày.
(Xem: 1299)
Sự ra đời của Đức Phật nghiễm nhiên đã trở thành sự kiện quan trọng nhất trong suốt mấy ngàn năm tư tưởng Đông phương. Hiện tượng Lâm-tỳ-ni, chính vì thế, đã trở thành một hiện tượng đặc sắc đáng để mọi người nghiên cứu Phật học quan tâm.
(Xem: 1898)
Tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi đau khổ lớn. Đây là động cơ lớn thúc đẩy Thái tử ra đi tìm chân lý.
(Xem: 1651)
Như huyễn là một tính cách, một phương diện của tánh Không. Tánh Khôngvô tự tánh của mọi cái hiện hữu, và vì vô tự tánh nên như huyễn.
(Xem: 1864)
Theo quan niệm nhà Phật thì con người tự ràng buộc mình trong nỗi khổ đau do chính mình gây ra.
(Xem: 1797)
Trên lộ trình hướng về Phật đạo, tôi có duyên được “làm người đưa đò” tại ...
(Xem: 2371)
Bình đẳng tánh trí là gì? Là tánh bình đẳng của đại viên cảnh trí, nghĩa là tánh bình đẳng của tất cả mặt gương và của tất cả bóng hình in vào đó.
(Xem: 1774)
Theo truyền thống Phật giáo Nam tông, y cứ theo lịch Ấn Độ cổ đại, Vũ kỳ An cư (Vassavāsa) bắt đầu từ ngày 16 tháng 6 (tháng Āsālha) và kết thúc vào ngày 16 tháng 9 (tháng Āssina).
(Xem: 2102)
Vào thời Đức Phật, xã hội Ấn Độ rất nhiều học thuyết ra đời, mỗi học thuyết là một quan điểm chủ trương.
(Xem: 2170)
Trong bài này chúng ta sẽ tìm hiểu sơ lược về Đại viên cảnh trí, và trích toàn bộ đoạn nói về trí này trong Kinh Phật Địa, do Tam tạng Pháp sư Huyền Trang dịch ra tiếng Hán.
(Xem: 2283)
am Vô Lậu Học là môn học thù thắng gồm: Giới, Định và Tuệ trong đạo Phật.
(Xem: 1830)
Khi đạo Phật nói về tánh chất của khổ, có nhiều mức độ khổ khác nhau.
(Xem: 1953)
Dân gian thường nói, không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời. Rất khó giải thích về“ba họ” và “ba đời”.
(Xem: 2002)
Chúng ta đã thấy nguồn gốc của kinh tạng Phật giáo phát khởi từ ba kỳ kết tập kinh điển (saṅgīti).[1]
(Xem: 1916)
“Tất cả là vô thường” là một trong ba nguyên lý căn bản của Phật giáo (vô thường, vô ngã và niết-bàn tịch tịnh)
(Xem: 2566)
Không có kinh sách nào, Đức Phật dạy: Phải cầu nguyện, hay nương tựa vào một ai đó, ngay cả việc nương nhờ vào chính Ngài.
(Xem: 1918)
Bản tâm, tự tâm, bản tánh, tự tánh là những danh từ được Lục Tổ Huệ Năng sử dụng trong những lời thuyết pháp của ngài để...
(Xem: 1852)
Muốn thực hiện một đời sống đạo đức, mang lại hạnh phúc cho bản thân cũng như tha nhân thì trước hết con người ấy phải được giáo dục.
(Xem: 1925)
Như chúng ta đã biết, từ xưa lắm các triết gia và sử gia phương Tây từng đưa ra những định nghĩa về con người,
(Xem: 1868)
Sám hối là một thực hành tu tập quan trọng và phổ biến trong Phật giáo. Sám hối là...
(Xem: 2131)
Chúng ta hãy khởi đầu đọc kinh Kim-cang như một tác phẩm văn học. Giá trị văn học là sự biểu hiện thẩm mỹ của nội dung tư tưởng.
(Xem: 2274)
“Bà lão nghèo ngộ pháp Duyên khởi” là bản kinh chúng tôi giới thiệu kỳ này. Nguyên tác “Phật thuyết lão nữ nhơn kinh 佛說老女人經
(Xem: 1944)
“Kinh Căn Tu Tập / Indriya bhàvanà sutta” là bài kinh cuối cùng trong số 152 bài kinh đăng trong Trung Bộ Kinh do...
(Xem: 2050)
Theo Phật giáo, pháp có nghĩa là giáo pháp của Phật. Những lời dạy của Đức Phật chuyên chở chân lý.
(Xem: 1837)
Như Đức Phật đã dạy, một đặc điểm của Giáo Pháp thuần túy là những hiệu ứng phải được thể nghiệm tức khắc lúc này và nơi này, ngay trong cuộc đời này
(Xem: 1883)
Căn cứ thông tin từ tác phẩm Ni trưởng Huỳnh Liên - cuộc đờiđạo nghiệp do Ni giới hệ phái Phật giáo Khất sĩ ấn hành vào năm 2016 thì...
(Xem: 2391)
Từ khi đạo Phật du nhập vào Việt Nam, chúng ta thấy rõ là bất cứ khi nào truyền thống dân tộc nép mình để đi trong dòng sinh mệnh của đạo Phật thì...
(Xem: 2302)
Dựa vào lịch sử Đức Phật, chúng ta được biết, Thái tử Sĩ Đạt Ta (Siddhattha) khi chào đời, bước đi bảy bước, có bảy hoa sen đỡ chân
(Xem: 3918)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2453)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 3153)
Bốn mươi chín ngày sau khi đạt giác ngộ, Đức Phật bi mẫn và thiện xảo đã thuyết Tứ Diệu Đế cho năm vị đệ tử may mắn tại Varanasi.
(Xem: 2443)
Nếu có ai đó yêu cầu tóm tắt toàn bộ giáo lý Phật giáo trong một vài từ ngữ gọn gàng, không cần dài dòng văn tự, tôi sẽ không do dự trả lời rằng, đó là : Ngũ uẩn giai không.
(Xem: 2031)
Bằng sự tu tập lâu dài, vượt qua vách sắt thành đồng của địa ngục Thiết Vi hay sự co duỗi của bàn tay trước mắt mà ta vươn tới sự giải thoát thời đoạn, cuối cùngsự giải thoát hoàn toàn.
(Xem: 1783)
Đức Di Lặc tiếp tục giảng cho đồng tử Thiện Tài về Bồ đề tâm: “Tại sao vậy? Vì nhân nơi Bồ đề tâm mà xuất sanh tất cả Bồ tát hạnh.
(Xem: 3286)
Cộng đồng Tăng Già gồm tứ chúng Tăng NiPhật tử tại gia Nam Nữ với một hội đồng gồm ít nhất là bốn vị Tăng, hay một cộng đồng Tăng Ni sống hòa hiệp với nhau trong tinh thần lục hòa.
(Xem: 2326)
Đến nay, vấn đề xác định kinh điển Phật thuyết hay phi Phật thuyết vẫn là nội dung được các học giả quan tâm nghiên cứu
(Xem: 3000)
Nhiều học giả phương Tây nhận định rằng khái niệm Niết bàn, tức nirvāṇa trong Sanskrit hay nibbāna trong Pali, có thể xem là ...
(Xem: 2679)
Hãy thử tưởng tượng một đoàn người đang ngồi trên một chiếc thuyền trôi giữa biển, trong đêm tối. Sự nhỏ nhoi của con thuyền...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant