Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Đạo Phật Một Triết Lý Sống Của Thời Đại

10 Tháng Mười 201501:24(Xem: 11647)
Đạo Phật Một Triết Lý Sống Của Thời Đại
ĐẠO PHẬT MỘT LÝ TƯỞNG SỐNG CỦA THỜI ĐẠI

Như Hùng

 

Ngày nay, khi đề cập đến Đạo Phật hầu như chúng ta bớt đi sự ngộ nhận lầm tưởng về tôn giáo nầy. Trong thực tế, xét về bản chất Đạo Phật vốn đứng ra ngoài và đi trên tất cả mọi thước đo mà ý thức của ta nắm bắt được. Nó không phải là một định lý đơn thuần đầy ắp những giáo điều, chỉ đạo, dù Đạo Phật phủ trùm lên tất cả mọi hệ thống tư duy của nhân loại, tạo nên một cách sống, lối sống hoàn thiện trong mọi suy tư hành hoạt, và nhất là trong thế giới hôm nay khi những giá trị tinh thần đang có nguy cơ băng hoại.

 

Con đường hành động mà Đạo Phật thể hiện trong quá khứ, hiện tại và tương lai đã chứng minh một cách khẳng quyết, là con đường do Đức Phật hướng dẫn, đã mở ra những kỷ nguyên về hòa bình, bình đẳng, từ bi, trí tuệ, nhân bảngiải thoát. Điều đó, trở thành những mấu chốt, khuôn mẫu quan trọng mà ngày nay con người trong mọi hoàn cảnh vẫn còn phải theo đuổi để đạt được. Những tư tưởng về khổ đau, vô thường, khổ, không, vô ngã, hạnh phúc, trở nên những quy ước của con người. Dù vay mượn đến ngữ ngôn hay một truyết thuyết nào để kích bác, cũng không làm thay đổi được thực trạng này, vì nó không phải là sản phẩm do Đức Phật sáng tạo, gieo rắc để đầu độc con người. Những điều đó là nguyên lý bất di bất dịch, chỉ có trí tuệ của Đức Phật mới trông thấy một cách như thật vẹn toàn. Ngài hé mở cho chúng ta trông thấy, chỉ dẫn cho chúng ta phương cách thoát ly và làm gì để những điều đó không gây nên thống hận khổ đau.

 

Thông thường, có những thứ chúng ta mong cầu nó lại không đến như: Hạnh phúc, dạnh vọng, tiền tài…Ngược lại, có những thứ ta càng tìm cách chạy trốn nó lại xuất hiện như: Khổ đau, phiền não, bệnh tật, vô thường v.v… Sự cấu tạo giữa con người với nhau, giữa xã hội với nhau, giữa tâm thức với nhau, tạo nên những xáo trộn, khủng hoảng về ý thức, biên giới, chủng tộc niềm tin v.v… Cho dù gạt bỏ những dị biệt ấy ra ngoài, chúng ta vẫn còn đầy dẫy những bất đồng không cách gì tháo gỡ được như: Khổ Đau và Vô Thường, hai nguyên lý này đi trên tất cả mọi chủ thuyết, mọi thành tựu của khoa học, của con người, nó xoá nhòa mọi biên giới, liên tục gây khủng hoảng và bất an cho từng cá nhân, xã hội và cho tất cả mọi chúng sanh, mọi thời đại đã qua và sắp tới. Đạo Phật giải quyết được gì cho những vấn nạn đó?

 

Trước hết và trên hết, Đạo Phật là một con đường hướng dẫn chúng ta thoát ly ra ngoài mọi biến động, khổ đau, bất an của đời sống. Tuyệt đối không đi qua cửa ngõ quyền năng hay đánh lừa chúng ta bằng những lời hứa hẹn về thiên đường hay địa ngục. Đạo Phật nhấn mạnh chỉ có chính ta, chủ nhân của thiên đường hay địa ngục, của những suy tư và hành động và ta toàn quyền đi đến một trong hai lối đó, dứt khoát không có kẻ nào đủ quyền năng hộ tống ta đến đích, dù ta có trả bất cứ giá nào.

 

Ý thức tự do trong Đạo Phật, đẩy bung ta thoát ly ra ngoài những cột chặt mà thường nhật ta bị những tác động thiếu ý thức, vô minh đẩy ta rơi vào, hoặc do vì sự cùng quẩn bí lối trong đời sống, khiến ta có lúc phải nhắm mắt trao linh hồn cho kẻ khác toàn quyền định đoạt số phận của chính mình. Thông thường chúng ta hay đòi hỏi và tranh đấu để đuợc tự do, nhưng cái tự dochúng ta có được, phần nhiều do kẻ khác mang đến, nó thuộc phạm vi ngoại tại, vì thế một khi nó bị thu hồi ta sẽ trở nên khủng hoảng , lo sợ. Cũng có lúc ta bị chế ngự, ràng buộc, đầu độc một cách tinh vi, bởi những niềm tin về một đấng tối cao đầy quyền năng tuyệt đối nào đó. Không khéo thoát được cửa ngõ này, ta lại rơi vào những tình huống khác, cơ may thoát ra để có được sự tự do càng mong manh.

 

Trước hết ta phải đẩy bung tâm ý của mình thoát ra ngoài mọi ràng buộc, nếu điều đó ta không suy tư thật kỷ và do lý trí của chính mình mang lại. Đạo Phật chưa bao giờ và không bao giờ cưỡng chế một cá nhân nào dù trong tâm ý, và càng không bao giờ dùng đến quyền năng để khống chế, vì trong Đạo Phật vốn không có những điều đó. Những gì không phải là chân lý, chắc chắn không sớm thì muộn cũng bị đào thải bởi thời gian, chỉ có chân lý như thật mới vượt ra ngoài sự chi phối của thời không.

 

Trong Đạo Phật ý thức về tự do, không phải chỉ đơn thuần giữa một cá nhân mà còn tương quan với mọi chúng sanh. Tự do đúng nghĩa nhất phải là tự do trong thường nghiệm tỉnh thức và suy tư trong tự do tuyệt đối. Điều nầy bổ sung, xúc tác và hổ trợ lẫn nhau, một khi tâm ý luôn ở trong trạng thái tỉnh thức, sáng soi, tức phần nào ta đã kiểm soát và làm chủ được chính mình và cũng có nghĩa, những suy tư và hành động của ta sẽ không gây tổn thương đến kẻ khác. Bằng vào điều này, những nguy hại thông thường trong cuộc sống, là phần nhiều do ta để cho tâm thức của mình chạy theo bản năng, dục vọng, và hành xử do vô minh đưa đẩy. Vì thế, mức độ gây nguy hại tùy vào sự khống chế nhiều hay ít của vô minh. Muốn truy tìm tên giặc nguy hiểm này, ta phải xoay mọi hưng động, tư duy để nhìn thẳng vào chính ta nhiều hơn là ta để nó thong dong không định hướng, và đừng bao giờ biến ta trở thành nạn nhân nô lệ bởi sự sai sử của chính mình.

 

Cuộc sống thật sự có ý nghĩa, là khi ta biết nâng cao những giá trị cao quý, trãi tâm từ của mình trên từng nỗi thống khổ, đem lòng yêu thương trao đến từng người. Những suy tư và hành xử không còn nằm ở bình diện thông tục mà phải hướng đến sự tỉnh thức vẹn toàn, mở ra một tâm thức mới không còn vô minh xúi dục, chỉ có tỉnh thức sáng soi trên từng suy tư hành động. Không có hận thù, khổ đau, ngang trái mà chỉ có yêu thương trãi bày trên từng ý niệm.

 

 Đạo Phật không mang đến cho ta tiền tài hay danh vọng mà chỉ cho ta tình yêu thương bất diệthạnh phúc đích thực miên viễn trong dòng khổ đau của nhân sinh, tìm đến những giá trị an lạcthời gian không đụng đến được. Ý nghĩagiá trị đó, không phải tìm cầu ở một thế giới nào xa lạ, nó ở tại đây, ở ngay trong tâm thức của mỗi chúng ta. Làm sao ta xoa dịu được nỗi thống khổ khi trong ta sầu đau vẫn dâng cao và ngang trái vẫn đong đầy?

 

Như Hùng

(Trích từ Tạp Chí Trúc Lâm số 4&5 năm 1997)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 162)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 215)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 409)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 308)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 337)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 386)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 619)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 677)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 635)
Tóm tắt: Phật giáo là tôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 685)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 599)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 540)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 594)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 685)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 700)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 800)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 598)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 491)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 574)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 667)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 588)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 590)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 695)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 709)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 702)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 768)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 790)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 767)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 958)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 826)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1381)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 910)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1074)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 832)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1059)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 990)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 980)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1120)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1397)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 1740)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 971)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1156)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 965)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 816)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 944)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 970)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1394)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1138)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1171)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 924)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1068)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1516)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1394)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1382)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 979)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1372)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1288)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1213)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 1248)
Khi học sinh từng người, từng người tốt nghiệp rời khỏi Phật học viện rồi, tôi bắt đầu xây dựng Biệt phân viện[1]khắp nơi, để ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant