Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Khảo Sát 8 Vạn 4 Ngàn Pháp Trong Tạng Pāḷi

12 Tháng Mười 201511:11(Xem: 8473)
Khảo Sát 8 Vạn 4 Ngàn Pháp Trong Tạng Pāḷi

KHẢO SÁT 8 VẠN 4 NGÀN PHÁP TRONG TẠNG PĀḶI   

Tống Phước Khải

Khảo Sát 8 Vạn 4 Ngàn Pháp Trong Tạng Pāḷi

1. Tám vạn bốn ngàn Pháp trong Nikāya

Trong Tạng Kinh Nikāya tiếng Pāḷi, theo sự tìm hiểu của nhiều học giả, thì con số tám vạn bốn ngàn Pháp chỉ được đề cập đến duy nhất trong bài kệ của ngài An Nan thuộc Trưởng Lão Kệ (Theragatha) của Tiểu Bộ (Khuddaka Nikāya).  Bài kệ của ngài A Nan (Ānandattheragāthā) như sau:

Dvāsīti buddhato gaṇhiṃ,

dve sahassāni bhikkhuto;

Caturā­sīti­sahas­sāni,

ye me dhammā pavattino.[i]

Nội dung của bài kệ được dịch ra tiếng Việt là:

Tôi đã nhận được 82.000 Pháp từ Đức Phật

2.000 Pháp từ các Tỳ Kheo

84.000

là những Pháp được chuyển vận.

Điều đáng lưu ý là trong bài kệ này ngài A Nan chỉ nói từ Pháp (dhamma) và không có từ nào đề cập đến Pháp khác (chẳng hạn như Pháp Uẩn, Pháp Tạng hay Pháp Môn). Bên cạnh đó 84.000 Pháp này chỉ tồn tại trong tạng Nikaya, được xem là chính thống bên cạnh hai tạng Pāḷi còn lại.

2. Từ “dhamma” khi được dịch sang ngôn ngữ khác

Chúng ta sẽ lần lượt khảo sát các bản dịch để xem từ “dhamma” trong bài kệ này được dịch như thế nào.

Bản dịch trong Tạng Nam Truyền Hán ngữ:

由佛得法門,八萬有二千,由比丘所得,亦有二千數,八萬四千門,我等須護持[ii]

Do Phật đắc pháp môn, bát vạn hữu nhị thiên, do Tỷ Khưu sở đắc, diệc hữu nhị thiên số, bát vạn tứ thiên môn, ngã đẳng tu hộ trì .”

Bản dịch Hán ngữ này sử dụng từ “pháp môn” để dịch từ “dhamma.”

Bản dịch tiếng Việt của Bhikkhu Indacanda:

Tôi đã tiếp nhận tám mươi hai ngàn từ đức Phật, hai ngàn từ vị tỳ khưu, tám mươi bốn ngàn Pháp (uẩn) này là có sự vận hành.” [iii]

Bản dịch này Sư Indacanda sử dụng từ “Pháp” để dịch, tuy nhiên Sư có phụ chú thêm trong ngoặc chữ “uẩn”. 

Khi so sánh các bản dịch trên, chúng ta nhận thấy rằng từ “dhamma” khi được chuyển sang ngôn ngữ khác thì có vẻ như không được nhất quán. Để khảo sát kỹ hơn vấn đề này, chúng ta cần phải truy tầm ý nghĩa gốc của các từ Pháp Uẩn và Pháp Môn.

3. Nghĩa ban đầu của các từ Pháp Uẩn, Pháp Môn

Vấn đề sẽ không khả thi nếu chúng ta đi tìm xuất xứ của các từ này thông qua các từ thuần Việt trong từ điển tiếng Việt. Đại đa số các từ Phật học của Việt Nam đều là Hán Việt và dĩ nhiên là các từ này xuất phát từ Trung Quốc cổ đại hoặc trung đại. Như vậy điều không tránh khỏi là để truy tầmxuất xứ của các thuật ngữ Phật học Việt Nam thì bắt buộc chúng ta phải tra cứu trong các tài liệu Phật học Hán ngữ.

Các thuật ngữ Phật học Hán ngữ được hình thành đa phần đều bắt nguồn từ các dịch giả dịch kinh Phạn sang Hán thuở xưa. Khi dịch giả qui ước một từ Hán nào đó để dịch một từ Phạn tương ứng, nếu từ này được lưu hành rộng rãi thì dần dần nó sẽ trở thành một thuật ngữ Phật học.

Đại Từ Điển Phật học Hán Phạn của Giáo sư người Nhật Hirakawa [iv] cung cấp cho chúng ta một khối lượng đồ sộ các thuật ngữ dùng để dịch kinh Phạn ngày xưa của các dịch giả Trung Quốc.  Từ điển này được tác giả xây dựng bằng cách đối chiếu từ ngữ giữa các nguyên bản kinh Phạn và các bản dịch Hán ngữ trong Tạng.  Do đó đây là một từ điển hữu ích cho việc tìm hiểu sự qui ước từ ngữ Phật học vào thời điểm chuyển dịch kinh Phạn sang Hán khi xưa.

Trở lại vấn đề, chúng ta sẽ đi tìm các từ Pháp Uẩn, Pháp Môn trong từ điển Hirakawa để nắm rõ các dịch giả Trung Quốc ngày xưa đã dùng chúng để biên dịch những từ Phạn nào. Sau đây là các từ liên quan được tìm thấy trong từ điển Hirakawa từ trang 715 tới trang 719:

Pháp Môn 法門: dharma-paryāya, dharma-mukha, dharma- dvāra; dharma, dharma-naya, dharma-naya-mukha, dharma-skandha, naya-mukha, nirdeśa-pada, parivarta, paryāya, mukha

Pháp Uẩn 法蘊: dharma-skandha

Lại xuất hiện thêm hai từ Hán khác có nghĩa Phạn giống nhau:

Pháp Âm 法陰: dharma-skandha

Pháp Tụ 法聚: dharma-skandha, skandha, dharma-saṃcaya

Chúng ta nhận thấy các từ gồm Pháp Môn, Pháp Uẩn, Pháp Âm, Pháp Tụ đều được dùng để dịch từ tiếng Phạn là “dharma-skandha”  từ tương ứng trong tiếng Pāḷi là “dhamma-k,khandha”.

Thông thường các thuật ngữ chuyên ngành khi dịch sang ngôn ngữ khác khó có thể tìm được từ tương ứng đồng nghĩa hoàn toàn. Việc sử dụng thuật ngữ chuyên ngành để biên dịch đa phần là do sự qui ước ngay từ ban đầu.  Ví dụ thuật ngữ “software” trong lĩnh vực công nghệ thông tin có các từ chuyển ngữ như “phần mềm”,  “nhu liệu”, “nhuyễn kiện”. Xét từ “phần mềm”, chúng ta thấy chữ “phần” chưa hẳn đồng nghĩa hoàn toàn với “ware”, nhưng toàn bộ từ “phần mềm” xem như qui ước ban đầu để dịch từ “software” và đã được số đông chấp nhận. Bên cạnh đó chúng ta cũng có từ “nhu liệu” và không thể nói rằng từ “nhu liệu” đúng hơn từ “phần mềm” hoặc ngược lại.

Trở lại với các từ Hán đã qui ước dịch thuật cho từ “dhammakkhandha” ở trên. Đầu tiên chúng ta đi tìm nghĩa của từ Pāḷi “dhammakkhandha.” Theo giải thích trong các từ điển Pāḷi – English thì nghĩa của “dhammakkhandha” là “đoạn kinh văn về pháp”, “ chi của giáo pháp”,  “phần được chia chẻ của Pháp” hoặc “một phần của qui chuẩn” … Từ nghĩa này chúng ta xét các từ qui ước Hán ngữ:

- Pháp Môn: chữ Môn trong Hán ngữ ngoài nghĩa “cửa”, “trường phái” … thì còn có nghĩa là “một chi phần của ngành học thuật”. Do đó Pháp Môn ở đây sẽ được hiểu theo nghĩa một chi phần của Pháp và được dùng để dịch thuật ngữ “dhammakkhandha.” Ngoài ra, trong từ điển Hirakwa còn cho thấy từ Pháp Môn còn được qui ước để dịch rất nhiều từ tiếng Phạn khác.

- Pháp Uẩn: chữ Uẩn trong Hán ngữ mang nghĩa là “sự tích tụ”, “sự gom chứa”. Từ này gần nghĩa với từ “khandha” tiếng Pāḷi. Do đó từ Pháp Uẩn được dùng để dịch thuật từ “dhammakkhandha.”

- Pháp Tụ: chữ Tụ trong Hán ngữ mang nghĩa “tụ họp”, “tích góp” gần như chữ Uẩn.

- Pháp Âm: trong Phật Quang Đại Từ Điển giải thích chữ Âm là chữ cũ dùng để dịch, tương đương với chữ Uẩn.

Do đó, nếu từ “dhamma” trong bài kệ được ngầm hiểu là “dhammakkhandha” thì một trong các từ Pháp Môn, Pháp Uẩn, Pháp Tụ hoặc Pháp Âm đều có thể được dùng để dịch từ “dhamma” này.

Tóm lại, cả 2 bản dịch Hán và Việt ở trên đều hợp lý khi dùng từ “Pháp Môn” hoặc “Pháp Uẩn” để dịch từ “dhamma” với ngầm ý là “dhammakkhandha.”

Ở đây ghi nhận thêm trường hợp bản dịch của Hòa Thượng Hộ Tông, ngài đã dùng từ Pháp Môn để dịch từ “dhammakkhandha.”

Caturāsītisahassa

Dhammakkhandhānubhāvena.

Do nhờ đức của 8 muôn 4 ngàn Pháp môn.

(Trích Kệ Điềm Lành Vũ Trụ, H.T. Hộ Tông)

4. Từ “dhamma” trong bài kệ chính là “dhammakkhandha”?

4.1. Quan diểm tán đồng

Quan điểm cho rằng từ “dhamma” trong bài kệ chính là “dhammakkhandha” của các dịch giả và tác giả Việt Nam dường như phần nhiều xuất phát từ nhận định ban đầu của TS. Bình Anson trong tác phẩm Lý ThuyếtThực Tế, NXB Tôn giáo, xuất bản năm 2008. Trong tác phẩm có đoạn viết rằng:  “Chữ "pháp" (dhamma) trong câu trả lời của ngài Ānanda có nghĩa là gì? Giáo sư K. R. Norman, dịch giả bản dịch Anh ngữ Theragatha (Trưởng Lão Tăng Kệ), cho biết rằng ngài luận sư Buddhaghosa, trong Chú giải Trưởng Lão Tăng Kệ, có giải thích "pháp" ở đây được hiểu như là "pháp uẩn" (dhamma-khandha), nghĩa là đoạn văn về giáo pháp.[v]  Trong nhận định trên, tác giả không dẫn ra “Giáo sư K.R. Norman cho biết” trong tài liệu nào cũng như Chú giải của luận sư Buddhaghosa tham chiếu như thế nào. Điều này làm cho việc khảo sát tài liệu gốc gặp phải sự khó khăn. Một số người đọc sẽ thắc mắc liệu có phải luận sư Buddhaghosa đã chú giải như vậy không? Tuy nhiên, nếu đúng là ngài Buddhaghosa có ghi nhận điều này thì đây vẫn là quan điểm cá nhân, không phải là ghi nhận chính thống. Vì vậy, sẽ có những ý kiến trái chiều.

4.2. Quan điểm không tán đồng

Bhikkhu Gavesako, một nhà Sư phương tây, với nhiều bài tham luận trên các trang mạng  đã đưa ra quan điểm của mình về chữ “dhamma” trong bài kệ trên như sau:  “If we look at the original Pali text, only the numbers 82,000 and 2,000 and 84,000 are mentioned in it, together with "dhamma" meaning "teachings" in this context (the word "dhammakkhandha" does not appear at all).” [vi]  Dịch Việt: “Nếu chúng ta xem văn bản Pāḷi nguyên thủy, chỉ thấy con số 82.000, 2.000 và 84.000 được đề cập trong đó, cùng với từ “dhamma” có nghĩa là “giáo pháp” nằm trong ngữ cảnh này (từ “pháp uẩn” không hề xuất hiện).” Như vậy, dựa trên lập luận này thì không thể khẳng định được từ “dhamma” là “dhammakkhandha.”

4.3. Quan điểm dịch thuật của học giả phương tây

Các dịch giả phương tây cũng thận trọng khi từ “dhamma” trong bài kệ của ngài A Nan. Họ đã dịch theo từ gốc và không triển khai thêm. Sau đây là một số bản dịch:

Bản dịch tiếng Anh của Bhikkhu Sujato và Jessica Walton:

I learned 82,000 from the Buddha,
And 2,000 from the monks;
These 84,000
Are the teachings I have memorized.
[vii]

Chúng ta bản dịch này không dùng từ “aggregate of dhamma” mà dùng từ “teaching” để dịch từ “dhamma”. Trong tiếng Anh từ “teaching” nếu là danh từ đếm được thì nghĩa của nó là “tư tưởng của một cá nhân hay một nhóm nào đó được dùng để dạy người khác.” Chúng ta có thể tóm gọn nghĩa của từ “teaching” mà K.R. Norman đã dịch đó là “giáo pháp”.

Bản dịch tiếng Anh của Hellmuth Hecker & Sister Khema:

82,000 Teachings from the Buddha
I have received;
2,000 more from his disciples;
Now, 84,000 are familiar to me.”[viii]

Bản dịch này cũng giống như bản dịch trước, từ “dhamma” được dịch là “giáo pháp”.

5. Tìm hiểu việc sử dụng từ “dhammakkhandha” trong tạng Pāḷi

A Dictionary of the Pali Language của Robert Cæsar Childers, trang 117, giải thích từ này như sau: “Tam tạng được chia thành 84.000 dhammakkhandha, tức “danh mục” hay “phân đoạn” của Pháp. Chúng được phân chia dựa theo chủ đề. Để minh họa cho ý nghĩa này, Buddhashosa đã nói rằng một bài kinh hoặc bài thuyết Pháp về một chủ đề sẽ lập nên một dhammakkhandha, còn một bài kinh về nhiều chủ để sẽ lập nên nhiều dhammakkhandha. Mah. 26; B. Int. 34; Att. 133. Saṅgīti S. cũng đề cập đến 4 dhammakkhandha, hay “bốn chủ thể của giáo Pháp” gồm sīlakkhandho, samādhikkhandho, paññākkhandho, vimuttikkhandho.”[ix] Như vậy, theo định nghĩa của từ điển này thì từ “dhammakkhandha” được sử dụng trong việc phân loại các giáo điển, và cứ mỗi một phần hình thành sau khi phân chia xong thì được gọi là “dhammakkhandha.”  Tuy nhiên, chúng ta nhận thấy việc phân loại này không dựa trên một qui chuẩn cố định.

Một cách phân chia khác tách con số 84.000 thành 21.000 + 21.000 + 42.000, được giải thích trong Chú Giải (atthakatha) Pāḷi như sau:  Tạng Kinh có 21.000 dhammakhandha; tạng Luật có 21.000 dhammakhandha;  tạng Vi Diệu Pháp có 42.000 dhammakhandha . Bhikkhu Gavesako đã nhận định rằng  việc phân chia này “không đúng về phương diện lịch sử” (which cannot be historically true). [x]

Chúng ta nhận thấy rằng, từ “dhammakkhandha” trong hệ thống kinh điển tiếng Pāḷi hầu như chỉ được dùng trong việc phân chia, tách loại giáo điển. Do không có một qui chuẩn cho việc phân chia nên chúng ta nhận thấy có nhiều con số khác nhau tùy vào mỗi cách phân chia.

Về con số 84.000 dhammakkhanda” khi so sánh với con số “84.000 dhamma” trong bài  kệ của ngài A Nan thuộc hệ thống Chính Tạng, chúng ta không thấy có mối liên hệ nào.  Chính tạng: 84.000 dh  = 82.000 dh (Phật) + 2.000 dh (Tỳ Kheo), còn trong Chú Giải thì: 84000 dhk = 21.000 dhk (Kinh) + 21.000 dhk (Luật) + 42.000 dhk (Vi Diệu Pháp).

Ý nghĩa của từ “dhammakkhandha” chỉ thấy xuất hiện trong chú giải. Từ này không thấy được đề cập đến trong hệ thống Chính Tạng. Như vậy, có nhiều khả năng từ “dhammakkhandha” là từ phát sinh trong quá trình phân loại kinh điển của những người kết tập thuộc thế hệ sau.

6. Kết

Con số 84.000 trong  do ngài An Nan thuật lại trong Trưởng Lão Kệ của Tiểu Bộ chính là 84.000 Pháp tức “dhamma” trong tiếng Pāḷi. Từ “dhamma” này được triển khai thành “dhammakkhandha” là xuất phát từ quan điểm cá nhân và nằm ngoài Chính Tạng. Nếu chấp nhận quan điểm “dhamma” là “dhammakkhandha” thì người dịch Việt hoặc Hán được phép chọn lựa một trong các từ Pháp Môn, Pháp Uẩn, Pháp Tụ, Pháp Âm để dịch, bởi vì các từ này chỉ là các từ qui ước trong việc dịch kinh Phạn sang Hán thời xưa. Dĩ nhiên, cũng có các quan điểm khác không tán đồng “dhamma” là “dhammakkhandha” và có thể trong tương lai sẽ có một quan điểm cho rằng từ “dhamma” này là một “dhamma….” nào đó. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa ai có thể đưa ra lập luận một cách thuyết phục về Pháp mà ngài A Nan đề cập trong bài kệ. Pháp này là Pháp gì thì vẫn đang còn là một ẩn số.



[i] Khuddaka Nikāya, Theragāthā (17.3), URL: https://suttacentral.net/pi/thag17.3 

[ii] Pāḷi Thánh Điển (Hán Ngữ), URL: https://sites.google.com/site/Pāḷishengdian/Pāḷi/da/kn/thag/thag43

[iii] Bhikkhu Indacanda, Theragāthāpāḷi – Trưởng Lão Kệ, URL: http://tamtangPāḷiviet.net/VHoc/31a/Thag_03.htm#17

[iv] Akira Hirakawa (1997) Buddhist Chinese-Sanskrit Dictionary 佛教漢梵大辭典

[v] Bình Anson (2008), Lý ThuyếtThực Tế, NXB Tôn Giáo.

[vi] Bhikkhu Gavesako (2011), Did the Buddha teach 84,000 Dhammakkhandhas?, URL: http://www.dhammawheel.com/viewtopic.php?t=8813

[vii] Bhikkhu Sujato with Jessica Walton (2014), Verses of The Senior Monks 17.3, ULR: https://suttacentral.net/en/thag17.3

[viii] Hellmuth Hecker & Sister Khema (2006), Thag 17.3 Ananda, URL: http://www.accesstoinsight.org/tipitaka/kn/thag/thag.17.03.hekh.html

[ix] R.C. Childers (2003), Dictionary of the Pali Language. New Delhi: Asian Educational Services.

[x] Bhikkhu Gavesako (2011), Did the Buddha teach 84,000 Dhammakkhandhas?, URL: http://www.dhammawheel.com/viewtopic.php?t=8813

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 57)
Cuộc đời và công việc của Bồ tát được nói trong phần cuối đoạn Đồng tử Thiện Tài gặp đức Di Lặc.
(Xem: 140)
Trong khi các tín ngưỡng về nghiệp và tái sinh là phổ biến vào thời của Đức Phật,
(Xem: 165)
Đây là ba phạm trù nghĩa lý đặc trưng để bảo chứng nhận diện ra những lời dạy của đức Đạo sư một cách chính xác mà không
(Xem: 219)
Đi vào Pháp giới Hoa nghiêm là đi vào bằng bồ đề tâm thanh tịnh và được cụ thể hóa bằng nguyện và hạnh.
(Xem: 149)
Nhị đế là từ được qui kết từ các Thánh đế (āryasatayā) qua nhân quả Khổ-Tập gọi là Tục đế
(Xem: 201)
Quí vị không giữ giới luật có thể không làm hại người khác, nhưng thương tổn tự tánh cuả chính mình.
(Xem: 182)
Lầu các của Đức Di Lặc tượng trưng cho toàn bộ pháp giới của Phật Tỳ Lô Giá Na; lầu các ấy có tên là Tỳ Lô Giá Na Đại Trang Nghiêm.
(Xem: 221)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(Xem: 236)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 316)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 557)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 421)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 434)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 529)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 717)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 766)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 794)
Tóm tắt: Phật giáotôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 798)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 693)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 680)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 683)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 791)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 812)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 907)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 675)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 582)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 680)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 802)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 685)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 690)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 787)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 810)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 793)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 837)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 864)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 851)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 1041)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 916)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1578)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 1023)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1172)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 920)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1173)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 1086)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 1081)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1228)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1507)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 1938)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1053)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1315)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 1061)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 915)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 1040)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 1076)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1495)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1235)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1253)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 991)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1147)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant