Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Mười Hai Khoen Nhân Duyên

10 Tháng Mười Một 201507:58(Xem: 8604)
Mười Hai Khoen Nhân Duyên

Mười Hai Khoen Nhân Duyên
(The Twelve Links Of Dependent Origination)
 
Chuyển Ngữ: Nguyễn Văn Tiến


Mười Hai Khoen Nhân Duyên

Mười Hai Khoen Nhân Duyên


Không có hiện tượng nào đang tồn tại mà không phải là kết quả của nhân duyên (nhân: nguyên nhân, và duyên: điều kiện). Tất cả mọi hiện tượng phát sinh phụ thuộc vào một số lý do, mà chúng ta gọi là điều kiện. Nguyên tắc căn bản của nhân duyên đơn giản là chính nó. Đức Phật mô tả nguyên tắc nầy, bằng câu nói như sau:

Vì cái nầy có, nên cái kia có.

Vì cái nầy sinh, nên cái kia sinh.

Vì cái nầy không, nên cái kia không.

Vì cái nầy diệt, nên cái kia diệt.

Nhân duyên căn bản, và chủ yếu là sự giảng dạy để hiểu biết sự đau khổ, và sự diệt khổ. Mười hai khoen nhân duyên cung cấp một sự diễn tả chi tiết về những nguyên nhân của sự khổ đau, và sự tái sinh. Mười hai khoen nhân duyên gồm có:

1) SỰ THIẾU HIỂU BIẾT (VÔ MINH) là điều kiện cho những hành động của tâm thức.

2) NHỮNG HÀNH ĐỘNG CỦA TÂM THỨC (HÀNH) là những điều kiện cho cái-biết.

3) CÁI-BIẾT (THỨC) là điều kiện cho tâm và thân.

4) TÂM VÀ THÂN (DANH SẮC) là điều kiện cho sáu giác quan.

5) SÁU GIÁC QUAN (SÁU CĂN) là điều kiện cho sự xúc chạm.

6) SỰ XÚC CHẠM (XÚC) là điều kiện cho cảm giác.

7) CẢM GIÁC (THỌ) là điều kiện cho sự ham muốn.

8) SỰ HAM MUỐN (ÁI) là điều kiện cho sự dính mắc.

9) SỰ DÍNH MẮC (THỦ) là điều kiện cho sự trở thành

10) SỰ TRỞ THÀNH (HỮU) là điều kiện cho sự sinh ra.

11) SỰ SINH RA (SINH) là điều kiện cho sự già và sự chết.

12) SỰ GIÀ VÀ SỰ CHẾT (LÃO-TỬ) là điều kiện cho sự thiếu hiểu biết.

Tất cả mười hai khoen nhân duyên liên kếtphụ thuộc lẫn nhau; do đó, không có điểm bắt đầu, hoặc không có điểm kết thúc. Mười hai khoen nầy là những hiện tượng luân hồi. Mỗi khoen là nguyên nhân của khoen bên nầy, và cũng là kết quả của khoen bên kia.

1) SỰ THIẾU HIỂU BIẾT (VÔ MINH): có nghĩa là thiếu sự hiểu biết đúng đắn. Chúng ta là người thiếu hiểu biết, nếu chúng ta tự xem mình là thật, là độc lập, và là một thực thể vĩnh viễn, hoặc là "Cái Tôi". Chúng ta đã không hiểu chúng ta là ai, chúng ta là những cái gì, hoặc vũ trụ là gì. Sự hiểu biết đúng đắn cho phép chúng ta sống theo cách mà mọi vật chính-là-như-thế. Sau đó, chúng ta có thể sống hài hòa với mọi loài. Sự thiếu hiểu biếtđiều kiện cho những hành động của tâm thức.

2) NHỮNG HÀNH ĐỘNG CỦA TÂM THỨC (HÀNH): những hành động của tâm thức phát sinh từ sự thiếu hiểu biết. Những dơ bẩn trong tâm (là kết quả của các hành động trong quá khứ, gây ra bởi thân thể, lời nói, và ý nghĩ) làm phát sinh các thói quen trong kiếp hiện tại, mà phù hợp với các mô hình thành lập trong kiếp quá khứ (nghiệp). Đây là lý do tại sao có một số người được sinh ra trong các điều kiện may mắn hơn những người khác. Những hành động của tâm thứcđiều kiện cho cái-biết.

3) CÁI-BIẾT (THỨC): cái-biết phát sinh từ những hành động của tâm thức. Theo nghĩa đen, cái-biết có nghĩa là sự nhận thức, sự thấu hiểu, sự nhìn nhận, sự phân biệt, vân vân .... Thông thường, cái-biết được giải thích là tâm của chúng ta. Cái-biết là điều kiện cho tâm và thân.

4) TÂM VÀ THÂN (DANH SẮC): tâm và thân phát sinh từ cái-biết. Tâm và thân là sự kết hợp của tinh thần và cơ thể (ý nghĩthân thể). Tâm và thân ám chỉ Năm Uẩn (nghĩa là hình tướng, cảm giác, sự nhận biết, những hành động của tâm thức, và cái-biết hoặc là 'sắc thọ tưởng hành thức'). Tâm và thân là những điều kiện cho sáu giác quan.

5) SÁU GIÁC QUAN (SÁU CĂN): sáu giác quan phát sinh từ tâm và thân. Sáu giác quan là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý. Qua sáu giác quan nầy, chúng ta có thể tiếp xúc với các đối tượng của thế giới bên ngoài. Sáu giác quan là những điều kiện cho sự xúc chạm.

6) SỰ XÚC CHẠM (XÚC): sự xúc chạm phát sinh từ sáu giác quan. Đây là sự hiểu biết tạo ra bởi sáu giác quan, bởi các đối tượng về cảm giác, và bởi cái-biết. Do đó, sự xúc chạm là điều kiện cho cảm giác. Nếu không có sự xúc chạm, chúng ta không có cảm giác. Sự đau khổ tùy thuộc vào sự xúc chạm, bởi vì sự xúc chạm đưa đến cảm giác.

7) CẢM GIÁC (THỌ): cảm giác phát sinh từ sự xúc chạm. Đây là những giai điệu về tình cảm. Chúng ta có ba loại cảm giác, đó là: cảm giác dễ chịu, cảm giác không dễ chịu, và cảm giác trung tính. Cảm giácđiều kiện cho sự ham muốn.

8) SỰ HAM MUỐN (ÁI): sự ham muốn phát sinh từ cảm giác. Sự ham muốn là sự khao khát nhục dục, sự theo đuổi niềm vui thú, và được nhận ra bằng sự dính mắc, bởi vì chúng ta chỉ muốn-được, mà chúng ta không-muốn-mất. Sự ham muốnđiều kiện cho sự dính mắc.

9) SỰ DÍNH MẮC (THỦ): sự dính mắc phát sinh từ sự ham muốn. Sự dính mắc là sự bám vào các đối tượng. Chúng ta có mong muốn giữ một cái gì đó, để sở-hữu cái-đó vĩnh viễn. Tuy nhiên, tất cả các hiện tượng đều vô thường. Vì vậy, chúng ta bị trói buộc vào sự đau khổ, vì sự thiếu hiểu biết của chúng ta. Sự dính mắc là điều kiện của sự trở thành.

10) SỰ TRỞ THÀNH (HỮU): sự trở thành phát sinh từ sự dính mắc, sự nắm giữ. Sự trở thành có nghĩa là chuẩn bị cho sự sinh đẻ, là chuẩn bị cho sự tạo ra, và là chuẩn bị cho sự tồn tại. Bởi vì sự dính mắc với các hiện tượng, chúng ta giả sử rằng có một cái-tôi. Tuy nhiên, cái-tôi nầy có điều kiện, nên là vô thường. Sự trở thànhđiều kiện cho sự sinh ra.

11) SỰ SINH RA (SINH): sự sinh ra phát sinh từ sự trở thành. Sự sinh ra ám chỉ hoặc là sự sinh ra về vật lý, hoặc là sự phát sinh của cái-biết luôn thay-đổi-mới từ giây phút nầy sang giây phút kế tiếp. Sự sinh ra là điều kiện cho sự già và sự chết. 

12) SỰ GIÀ VÀ SỰ CHẾT (LÃO-TỬ): sự già và sự chết phát sinh từ sự sinh ra. Cái chết là một trong những đau khổ lớn nhất, và cũng là nỗi sợ hãi của những người mà không được huấn luyện, mà không biết tuân theo luật-tự-nhiên của cuộc đời. Sự già và sự chết là điều kiện cho sự thiếu hiểu biết.

The Twelve Links Of Dependent Origination

There is no existing phenomenon that is not the effect of dependent origination. All phenomena arise dependent upon a number of causal factors, called conditions. The basic principle of dependent origination is simplicity itself. The Buddha described it by saying:

When there is this, that is.

With the arising of this, that arises.

When this is not, neither is that.

With the cessation of this, that ceases.

Dependent origination is essentially and primarily a teaching to understand suffering and the cessation of suffering. The twelve links of dependent origination provide a detailed description of the causes of suffering and rebirth. They are:

1. IGNORANCE is the condition for mental formations.

2. MENTAL FORMATIONS are the conditions for consciousness.

3. CONSCIOUSNESS is the condition for name and form.

4. NAME AND FORM are the conditions for the six senses.

5. THE SIX SENSES are the conditions for contact.

6. CONTACT is the condition for feeling.

7. FEELING (SENSATION) is the condition for craving.

8. CRAVING is the condition for clinging.

9. CLINGING is the condition for becoming.

10. BECOMING is the condition for birth.

11. BIRTH is the condition for aging and death.

12. AGING AND DEATH are the conditions for ignorance.

All twelve links are interrelated and dependent on each other; thus, there is no beginning or ending point. They are cyclic phenomena. Each link is a cause on the one hand, and an effect on the other.

1. IGNORANCE: Ignorance means the lack of right understanding. One is ignorant and takes oneself as real, independent, and a permanent entity or “I.” We do not understand who and what we are or what the universe is. Right understanding allows us to live in accordance with the way things are. Then one can live harmoniously. Ignorance is the condition for mental formations.

2. MENTAL FORMATIONS: Mental formations arise from ignorance. Mental impurities (the result of past actions of body, speech, and mind) give rise to habitual actions in the present life, which conform to the patterns established in the past (karma). This is why some people are born into more fortunate conditions than others. Mental formations are the conditions for consciousness.

3. CONSCIOUSNESS: Consciousness arises from mental formations. Literally, it means perceiving, comprehending, recognizing, differentiating, etc. Usually it is interpreted to be our mind. Consciousness is the condition for name and form.

4. NAME AND FORM: Name and form arise from consciousness. They are the combination of mentality and corporeality (mind and body). Name and form refer to the Five Aggregates (i.e., form, feeling, perception, mental formations, and consciousness). Name and form are the conditions for the six senses.

5. THE SIX SENSES: The six senses arise from name and form. They are eye, ear, nose, tongue, body, and mind. Through these six organs contact with external objects is possible. The six senses are the conditions for contact.

6. CONTACT: Contact arises from the six senses. It is the experience created by the six senses, sense objects, and consciousness. Therefore contact is the condition for feeling. Without contact, there is no feeling. Suffering is dependent upon contact because it gives rise to feeling.

7. FEELING: Feeling arises from contact. It is the affective tone. There are three kinds of feelings, namely: pleasant, unpleasant, and neutral. Feeling is the condition for craving.

8. CRAVING: Craving arises from  feeling. Craving is sensuous desire, the pursuit of pleasure, and the identification with attachment to gain and the fear of loss. Craving is the condition for clinging.

9. CLINGING: Clinging arises from craving. Clinging is an attachment to objects. We have the desire to keep something, to possess it permanently. However, all phenomena are impermanent. Therefore we are bound to suffer because of our ignorance. Clinging is the condition for becoming.

10. BECOMING: Becoming arises from clinging/grasping. Becoming means to give birth, create, and exist. Because of attachment to phenomena we assume that there is a self. However, this ‘self’ is conditioned and impermanent. Becoming is the condition for birth.

11. BIRTH: Birth arises from becoming. Birth refers to either physical birth or the moment-to-moment arising of renewed consciousness. Birth is the condition for old age and death.

12. OLD AGE AND DEATH: Old age and death arise out of birth. Death is one of the greatest afflictions and fears of the untrained, undisciplined worldling. Aging and death are the conditions for i

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 5202)
Buông xả là một sự thực tập quan trọng trong cuộc sống hằng ngày, cũng như con đường giải thoát của chúng ta.
(Xem: 2673)
Giá trị của tâm là sự thương yêuchân thực. Nếu một người mà tâm luôn tràn ngập tình thương đối với mọi người,
(Xem: 6150)
Cuộc sống hiện đại đưa đến nhiều vấn đề làm cho chúng ta phiền tâm mệt trí, thân tâm đều nặng nề.
(Xem: 3064)
Tầm quan trọng của một người là tính sáng tạo của tâm thức. Khi chúng ta đối xử với nhau như những người anh chị em, thì nó sẽ làm cho chúng ta hạnh phúc.
(Xem: 3112)
Nếu tỉnh thức, bạn có thể tự đặt mọi câu hỏi. Năng lực của trí tuệ sẽ giúp bạn tìm thấy câu trả lời cho mọi vấn đề mình đang gặp mỗi ngày.
(Xem: 3316)
Từ xưa đến nay tình ái luôn là thứ dễ làm con người mù quángsi mê.
(Xem: 3247)
Người sống được một-trăm-năm mà không hiểu-rõ cuộc-đời là vô-thường và sinh-diệt.
(Xem: 3307)
Thịnh suy nào cũng không quan trọng bằng nội tâm ta có dính mắc hay không, vì dính mắc đó là nguồn gốc luân hồi.
(Xem: 4569)
Hạnh phúc là khát vọng của nhân loại muôn đời, một trong “tiêu chí” có tính phổ quát nhất vượt hết thảy các gián cách về văn hóa, dân tộc và biên giới không gianthời gian.
(Xem: 2737)
Phân hóa là một hiện tượng tất yếu trong cuộc sống. Phân hóa để tăng trưởng, phân hóa để phát triển, phân hóa để hủy diệt, phân hóa để biến thái…
(Xem: 5225)
Theo truyền thống sách vở, hình như gắn liền với Thiền là trà, chớ không phải cà phê.
(Xem: 3883)
Cuộc sống trôi nhanh về phía cái chết, như điệu nhảy của vũ công, tia chớp trên bầu trời, hay dòng thác đổ
(Xem: 3850)
Bốn chân líchân lí về khổ, về nguồn gốc, về diệt tận và về đạo lộ.
(Xem: 3213)
Bài này trích dịch từ Quý San năm 2019 có chủ đề “Buddhadharma: The Practitioner’s Quarterly,” đăng ngày 14 tháng 5 năm 2019 trên trang mạng Lion’s Roar.
(Xem: 4151)
Ngày xưa Đức Phật trong suốt 45 năm giáo hóa tại khu vực rộng lớn dọc theo hai bên bờ Sông Hằng ngài chỉ sử dụng mỗi một phương tiện duy nhất là đi bộ.
(Xem: 5058)
Thế giớichúng ta đang sống là thế giới của dục vọng. Mọi chúng sanh được sinh ra và tồn tại như là một sự kết hợp của những dục vọng.
(Xem: 3522)
Tất nhiên đã làm người thì phải chịu khổ đau nhiều hay ít tùy thuộc vào trạng thái tâm lý, sự cảm thọnhận thức của mỗi người.
(Xem: 6754)
Trong cuộc đời mỗi người ai cũng có một dòng tộc huyết thống, người đời thì có huyết thống gia đình, người xuất gia thì có huyết thống tâm linh.
(Xem: 3971)
Trong kinh Phật dạy, “cái khổ lớn nhất của con người không phải do thiếu ăn, thiếu mặc, làm con trâu, con bò, kéo cày, kéo xe, chưa chắc là khổ;
(Xem: 3226)
Nói “thời chiến” nơi đây là nói về thời Đệ Nhị Thế Chiến. Có một phần chưa được khảo sát tận tường, chưa được biết rộng rãi trong lịch sử Đạo Phật tại Hoa Kỳ: đó là một thời chiến tranh trong thế kỷ 20
(Xem: 3110)
Con người luôn luôn bị cái tôi và cái của tôi thống trị, do đó đời sống của nó bị giới hạnđè nặng bởi cái tôi và cái của tôi.
(Xem: 2972)
Bà La Môn Giáo là một Đạo giáoxuất xứ từ Ấn Độ và Đạo nầy đã tồn tại ở đó cho đến ngày nay cũng đã trên dưới 5.000 năm lịch sử.
(Xem: 5876)
Tưởng tri, thức tri và tuệ tri được đức Phật chỉ ra nhằm mục đích phân biệt rõ các cấp độ nhận thức về sự vật hiện tượng.
(Xem: 4643)
Đức Phật không phải là một nhà chính trị theo nghĩa cổ điển, càng không phải là một nhà cách mạng hiểu theo phong cách của chữ nghĩa hôm nay.
(Xem: 3507)
Cái gì chưa biết, gặp lần đầu thấy cũng lạ. Cái gì chưa học, gặp lần đầu thấy cũng lạ. Cái gì chưa biết nói, học nói lần đầu thấy cũng lạ...
(Xem: 2905)
Cuộc sống, nhìn quanh đâu cũng thấy Thật. Bạo động cũng có thật, giả dối cũng là thật, tham dục cũng hiện hữu thật,sợ hải cũng có thậ ….
(Xem: 3317)
Thời nào cũng vậy, xã hội luôn có những biến đổi và khủng hoảng, chính sự đổi thay giúp điều mới mẻ ra đời hoặc phải diệt vong, như một hệ quả duyên khởi.
(Xem: 4437)
Tại Việt Nam, đại đa số các Chùa Bắc Tông đều có Tổ đường để phụng thờ chư liệt vị Tổ sư, Tổ khai sơn ngôi chùa đó và chư hiền Thánh Tăng.
(Xem: 5734)
Phật cũng nhắn nhủ: “Quý vị phải thực tập làm hải đảo tự thân, biết nương tựa nơi chính mình mà đừng nương tựa vào một kẻ nào khác.
(Xem: 6648)
Ở cấp độ đầu tiên của tu tập, trong bản chất con người, việc dâm dục sẽ bắt nguồn cho việc luân hồi (saṃsāric),
(Xem: 3733)
Ngài Huệ Khả xin Sơ Tổ Thiền Tông Bồ Đề Đạt Ma dạy pháp an tâm. Tích này có thể nhìn từ Kinh Tạng Pali ra sao?
(Xem: 4542)
Phật Giáo - Một Bậc Đạo Sư, Nhiều Truyền Thống - Đức Đạt Lai Lạc Ma đời thứ 14, Ni sư Thubten Chodren
(Xem: 4620)
Nhận thức luận trongTriết học cổ điển Ấn-độ và trongTriết học Phật giáo - Gs Nguyễn Vĩnh Thượng
(Xem: 3979)
Kinh Phật dạy có nhiều cách giải nghiệp. Sau đây là trích dịch một số kinh liên hệ tới nghiệp và giải nghiệp.
(Xem: 3413)
Hoàng đế A Dục chấp nhậnquốc giáo rồi đem vào Tích Lan và các nước lân cận, Phật giáo phát triển nhanh chóng ở Đông phươngcuối cùng trở thành tôn giáoảnh hưởng nhất trên thế giới.
(Xem: 4640)
Sự kiện cho kinh này, nói ngắn gọn, theo luận thư, là vì: thành phố Vesali bị nạn dịch, gây chết chóc, đặc biệt với người nghèo. Vì xác chết nằm la liệt, các vong hung dữ bắt đầu quậy phá thành phố...
(Xem: 6070)
Nhiều Phật tử tuy nói là tu theo Đại thừa nhưng thật ra rất ít người biết rõ tông chỉ của Đại thừa hoặc chỉ biết sơ sài, nên việc tu hành không đạt được kết quả.
(Xem: 5851)
Trong các kinh điển có nhiều định nghĩa khác nhau nhưng chữ Niết Bàn (Nirvana) không ngoài những nghĩa Viên tịch (hoàn toàn vắng lặng),
(Xem: 3645)
Nói đến giáo dục chính là xu hướng vươn lên của con người trong lý tính duyên sinh, nhằm đạt thành chân - thiện - mỹ cho cuộc sống chung cùng
(Xem: 4696)
Tinh túy của đạo Phật là: nếu có khả năng, ta nên giúp đỡ người khác; nếu không thể giúp họ, thì tối thiểu nên hạn chế việc gây hại cho họ.
(Xem: 4465)
àm thế nào để các lậu hoặc đoạn tận lập tức? Nghĩa là, không cần trải qua thời gian. Cũng không cần tu Tứ niệm xứ hay Tứ thiền bát định.
(Xem: 4544)
Các pháp không tự sinh Cũng không do cái khác sinh. Không do sự kết hợp cũng chẳng nhân nào sinh. Tất cả đều vô sinh.
(Xem: 4273)
Tới cuối kinh này, Đức Phật dạy về pháp Niết Bàn tức khắc, ngay trong hiện tại, giải thoát ngay ở đây và bây giờ.
(Xem: 4602)
Tôn giáo nào cũng có những nhà truyền giáo, phát nguyện rao giảng những điều mà họ tin là mang đến hạnh phúc cho nhân loại.
(Xem: 8230)
Ấn-độ là một bán đảo lớn ở phía Nam Châu Á. Phía Đông-Nam giáp với Ấn-độ dương (Indian Ocean), phía Tây-Nam giáp với biển Á-rập ( Arabian Sea).
(Xem: 3932)
Nguyên bản: The Inner Structure, Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D., Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 5730)
Thái tử Siddharta Gautama là người đầu tiên đã nghĩ rằng Ngài đã đạt được Giác ngộ. Ngài đã trở thành vị Phật lịch sử. Rồi Ngài đã đem những điều mình giác ngộgiáo hoá cho chúng sanh.
(Xem: 5219)
Căn Bản Hành Thiền - Bình Anson biên dịch 2018
(Xem: 6861)
Luận Duy thức tam thập tụng này được viết với mục đích khiến cho những ai có sự mê lầm ở trong nhân vô ngãpháp vô ngã mà phát sinh ...
(Xem: 6186)
Ba địa mỗi địa mười, Năm phiền não, năm kiến, Năm xúc, năm căn, pháp, Sáu: sáu thân tương ưng.
(Xem: 6002)
Bất cứ sắc gì thuộc quá khứ, vị lai, hiện tại;thuộc nội phần hay ngoại phần, thô hay tế, hạ liệt hay thắng diệu, xa hay gần, mà dồn chung lại, tổng hợp thành một khối. Gọi chung là sắc uẩn.
(Xem: 5816)
Kính lễ Nhất thiết trí, Vầng Phật nhật vô cấu, Lời sáng phá tâm ám Nơi nhân thiên, ác thú.
(Xem: 6309)
Trong cách nghĩ truyền thống, Tứ Thánh đế (Cattāri Ariyasaccāni) được xem là bài pháp đầu tiên khi Đức Phật chuyển pháp luân độ năm anh em Kiều-trần-như.
(Xem: 6799)
Suốt kinh Pháp hội Pháp giới Thể tánh Vô phân biệt, Bồ tát Văn-thù-sư-lợi là người thuyết pháp chính, Đức Phật chỉ ấn khả và thọ ký...
(Xem: 4979)
An cư” là từ không còn xa lạ đối với tín đồ Phật giáo; tuy nó không có nghĩa “an cư lạc nghiệp” của đạo Nho, nhưng khía cạnh nào đó, “lạc nghiệp” mang nghĩa...
(Xem: 5579)
Trung luận, còn gọi là Trung quán luận, bốn quyển, Bồ-tát Long Thọ trước tác kệ tụng, ngài Thanh Mục làm Thích luận, được dịch ra chữ Hán ...
(Xem: 6402)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào?
(Xem: 3794)
Trước tiên là về duyên khởi của Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Theo truyền thuyết, Kinh này được Phật giảng vào lúc cuối đời, được kết tập trong khoảng năm 200.
(Xem: 5428)
Phật và chúng sinh thật ra vẫn đồng một thể tánh chơn tâm, nhưng chư Phật đã hoàn toàn giác ngộ được thể tánh ấy.
(Xem: 10479)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant