Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Nhất Tâm

26 Tháng Mười Một 201508:48(Xem: 8216)
Nhất Tâm

NHẤT TÂM

Nguyễn Thế Đăng


Nhất Tâm 

Trong kinh Hoa Nghiêm, phẩm Thập Địa nói, “Tất cả ba cõi chỉ là Một Tâm”.  Phẩm Dạ-ma cung kệ tán nói, “Như tâm, Phật cũng vậy. Như Phật, chúng sanh đồng. Tâm, Phật, và chúng sanh. Cả ba không sai khác”.

Tất cả hiện hữu chỉ là Một Tâm, vậy thì Một Tâm hay chân tâm chúng ta biểu lộ như thế nào? Pháp giới Một Tâm của kinh Hoa Nghiêm luôn luôn hiện diện trước mắt chúng ta. Nghĩa là tánh Không, quang minh, như huyễn của pháp giới luôn luôn hiện diện trước mắt chúng ta.

Pháp giớitánh Không, nên để thấy và đi vào pháp giới, phải thấy và đi vào tánh Không. Pháp giớiquang minh, để thấy và đi vào pháp giới, phải thấy và đi vào quang minh. Pháp giớinhư huyễn, để thấy và đi vào pháp giới, phải thấy và đi vào như huyễn. Pháp giới là sẵn đủ hiện tiền, để thấy và đi vào pháp giới, phải thấy và đi vào cái sẵn đủ hiện tiền trước mắt này.

Một tánh Không

Tánh Không là sự vô tự tánh của tất cả các pháp. Vì vô tự tánh cho nên vô sanh, nghĩa là thấy như có sanh mà thật là không có sanh. Tất cả các pháp, chúng sanh, thế giới, chư Phật đều đồng một tánh Không. Tánh Khôngpháp thân và đồng nhất đối với chư Phật nên kinh nói “pháp thân của chư Phật”.

Tất cả pháp do nhân duyên sanh, người thường thấy như có sanh, nhưng thật ra mỗi nhân duyên đều vô tự tánh, cho nên là vô sanh. Thấy được nhân duyên sanhvô sanh, đó là thấy tánh Không, tức cũng là thấy pháp thân chư Phật.

Lại phóng quang tên Pháp thanh tịnh

Hay khiến tất cả những chân lông 

Đều diễn diệu pháp chẳng nghĩ bàn

Ai nghe pháp này đều vui hiểu.

Nhân duyên sanh ra vốn vô sanh

Pháp thân chư Phật chẳng phải thân

Pháp tánh thường trụ như hư không

Do thuyết nghĩa ấy được quang minh.

          (Phẩm Hiền Thủ, thứ 12).

Tánh Không là nền tảng chung của tất cả các pháp. Các pháp xuất hiện từ tánh Không, hiện hữutiêu tan trong tánh Không, nên các pháp chínhtánh Không:

“Thiên Cổ (trống trời) bảo các Thiên tử rằng: Như Thiên Cổ ta chẳng sanh chẳng diệt, sắc thọ tưởng hành thức cũng vậy, chẳng sanh chẳng diệt. Các người nếu có thể hiểu được như thế, nên biết là đã được nhập Vô y ấn tam muội”. (Phẩm Như Lai tùy hảo quang minh công đức, thứ 39).

Không những tánh của sắc thọ tưởng hành thứctánh Không không sanh không diệt mà tướng của sắc thọ tưởng hành thức cũng không sanh không diệt. Chính vì sắc thọ tưởng hành thức không sanh không diệt nên mới có thể hòa nhập với nhau và với sắc thanh hương vị xúc pháp không sanh không diệt, với mắt tai mũi lưỡi thân ý cũng không sanh không diệt để thành pháp giới sự sự vô ngại.

Thấy trực tiếp được các pháp không sanh không diệt, không đến không đi, không dơ không sạch, không tăng không giảm, không một không nhiều… là thấy trực tiếp được pháp giới Hoa Nghiêm hay Phật Tỳ-lô-giá-na.

Tất cả pháp không sanh

Tất cả pháp không diệt

Nếu hay hiểu như thế

Chư Phật thường hiện tiền

                                      (Phẩm Tu-di đảnh kệ tán, thứ 14).

Ở đây không chỉ là một tánh Không thuần túy, không sanh không diệt, không đến không đi… một bản tánh Không, Vô tướng, Vô tác, không có sự tướng nào. Tánh Không như vậy dĩ nhiên vốn là giải thoát. Ở đây còn có vô số sự tướng, nhưng những sự tướng ấy cũng không sanh không diệt, không đến không đi, không một không nhiều… nên cũng vốn tự giải thoát.

Cho nên giải thoát, giác ngộ của kinh Hoa NghiêmChân Không Diệu Hữu. Diệu Hữu vì có vô số cái có, nhưng vô số cái có ấy vốn tự giải thoát. Chân Không Diệu Hữu là Quả vốn tự giải thoát, vốn tự viên thành.

Trong Chân Không Diệu Hữu, giải thoát không phải lìa thế gian hữu lậuthế gian hữu lậu vốn vô sở hữu, vốn tự giải thoát.

Nếu có ai thấy Phật

Giải thoát, lìa hữu lậu

Không dính dấp thế gian

Người này chẳng chứng đạo.

Nếu ai biết Như Lai

Thể tướng vô sở hữu

Tu được thấy, hiểu rõ

Người này sớm thành Phật…

Nếu thấy Phật cùng mình

An trụ trong bình đẳng

Vô trụ, không chỗ nhập

Sẽ thành bậc Nan Ngộ.

Sắc, thọ không số hạn

Tưởng hành thức cũng vậy

Nếu biết được như đây

Sẽ làm Đại Mâu-ni.

Kiến chấp thế, xuất thế

Tất cả đều vượt khỏi

Khéo biết chân lý này

Sẽ thành bậc Đại Quang.

Nếu đối với toàn giác

Phát sanh tâm hồi hướng

Thấy tâm không chỗ sanh

Sẽ được bậc Hồng Danh.

Chúng sanh không có sanh

Cũng lại không có hoại

Nếu được trí như vậy

Sẽ thành vô thượng đạo.

Trong một, hiểu vô lượng

Trong vô lượng, hiểu một

Rõ chúng đồng sanh nhau

Sẽ thành bậc không sợ.

Tất cả các pháp, tánh và tướng bổn lai thanh tịnh, đây là Viên giáo, là Quả thừa của kinh Hoa Nghiêm.

Một quang minh

Pháp giới bao trùm trong quang minh của chư Phật:

“Đại Bồ-tát này thấy chư Như Lai vô lượng sắc tướng, vô lượng hình trạng, vô lượng thị hiện, vô lượng quang minh, vô lượng lưới quang minh. Phần lượng của quang minh này bằng pháp giới, chiếu khắp pháp giới, làm cho đều phát khởi trí huệ vô thượng. Lại thấy thân Phật không có nhiễm trước, không có chướng ngại, thanh tịnh rốt ráo.

Dầu Đại Bồ-tát này thấy thân Như Lai nhiều tướng sai biệt như vậy nhưng thân Như Lai vẫn chẳng tăng chẳng giảm. Ví như hư không nơi lỗ bằng hột cải do con mọt ăn cũng chẳng giảm nhỏ, nơi vô số thế giới cũng chẳng thêm rộng.

Cũng vậy, Đại Bồ-tát trụ tam muội này tùy nơi tâm nguyện thấy thân Phật các thứ hóa hiện, thọ trì ngôn từ thuyết pháp chẳng quên, mà thân Như Lai chẳng tăng chẳng giảm. Ví như chúng sanh sau khi mạng chung lúc sắp tái sanh chỗ thấy thanh tịnh chẳng rời nơi tâm. Cũng vậy, Đại Bồ-tát thấy rốt ráo thanh tịnh mà chẳng rời tam muội sâu xa này”. (Phẩm Thập định, thứ 27).

Các pháp là quang minh:

Chúng sanh vô thủy lại 

Mãi lưu chuyển sanh tử

Chẳng có pháp chân thật

Nên chư Phật ra đời.

Các pháp chẳng thể hoại

Cũng không ai hoại được

Tự tại đại quang minh

Hiển hiện khắp thế gian.

          (Phẩm Đâu-suất kệ tán, thứ 24).

Cho đến mỗi vi trần đều tròn đủ quang minh:

Trong mỗi trần có vô lượng quang

Chiếu khắp mười phương các cõi nước

Đều hiện chư Phật hạnh giác ngộ

Tất cả biển cõi vô sai biệt.

          (Phẩm Thế giới thành tựu, thứ 4).

Phật là quang minh, pháp giớiquang minh, các pháp là quang minh. Quang minh đầy khắp pháp giới, mỗi sự vật là quang minh, “Tâm, Phật, chúng sanh không sai khác” là quang minh, nhưng tại sao người thường chúng ta không thấy, không biết tâm mình và pháp giới là một quang minh?

Chỉ vì mải chạy theo tướng mà không thấy được các tướng vốn là quang minh. Chỉ vì không chịu “thấy Phật cùng mình, an trụ trong bình đẳng”, phân biệt chạy theo tướng, không thấy được các tướng là không có biên giới, “sắc, thọ không số hạn”, chỉ vì “kiến chấp thế, xuất thế” mà không thấy được tất cả là một quang minh. Chỉ cần dừng lại sự điên cuồng theo đuổi các tướng “vô sở hữu”, dừng lại tâm phân biệt, các kiến chấp, thì tâm cảnh đều là một quang minh, một vị quang minh.

Một như huyễn

Như huyễntừ tâm và là hoạt động của tâm

Tâm như nhà họa sĩ

Vẽ nên các thế gian

Năm uẩn từ tâm sanh

Không pháp gì chẳng tạo.

Như tâm, Phật cũng vậy

Như Phật, chúng sanh đồng

Tâm, Phật và chúng sanh

Cả ba không sai khác…

Nếu người muốn rõ biết

Tất cả Phật ba đời

Phải quán pháp giới tánh

Tất cả duy tâm tạo.

          (Phẩm Dạ-ma cung kệ tán, thứ 20).

Tâm vẽ nên ba cõi, tất cả chỉ do tâm tạo. Với chúng sanh, cũng tâm ấy mà thấy có sanh tử trói buộc khổ đau vì không biết đó là do tâm vẽ nên như huyễn. Chúng sanh chuyển trò chơi vẽ vời vô tự tánh của tâm thành một thế giới có thật, có vô số biên giới chia cách phân mảnh, đó là sanh tử.

Chư Phật cũng đồng một tâm ấy, và cái hoạt dụng của tâm là vẽ, nhưng chư Phật “trụ trí như huyễn”, “biết tự tâm”, biết “pháp giới tánh, tất cả duy tâm tạo”, nên thế giới chỉ là “ảnh hiện” như huyễn. Cùng tột của như huyễn này là “sự sự vô ngại”.

Tâm như huyễn với chúng sanh không biết thì bị tâm ấy sai sử, trói buộc mà có ra sanh tử như huyễn rồi trôi lăn trong lao nhọc, khổ đau. Các Bồ-tát thì cũng tâm như huyễn này nhưng rõ biết sự biến hiện của nó, phát huy đầy đủ năng lực của nó, sử dụng nó, “thừa” nó (thừa là cưỡi, là xe, như trong chữ Đại thừa), và đi vào Như huyễn tam muội để nhập thế độ sanh. Như huyễn vừa để tự giác, biết pháp giới tánh, vừa để giác tha.

“Đại Bồ-tát biết tất cả các pháp thế gian đều đồng như huyễn hóa. Biết các hiện tượng là huyễn nên biết trí huyễn. Vì biết trí huyễn nên biết nghiệp (hành động) huyễn. Đã biết trí huyễn và nghiệp huyễn nên khai triển trí huyễn xem tất cả nghiệp thế gian như những huyễn thuật. Chẳng ở ngoài chỗ của mình mà hiện huyễn, cũng chẳng ở ngoài huyễn mà có chỗ của mình.

Cũng vậy, Đại Bồ-tát chẳng ở ngoài tánh Khôngnhập thế gian, cũng chẳng ở ngoài thế gian mà nhập tánh Không. Tại sao thế? Vì tánh Khôngthế gian không sai biệt, trụ nơi thế gian cũng là trụ nơi tánh Không. Đại Bồ-tát ở trong tánh Không hay thấy hay tu những hoạt động khác nhau trang nghiêm mọi thế giới. Trong một niệm đều rõ biết vô số thế giới hoặc thành hoặc hoại, cũng biết các kiếp tương tục nối tiếp. Trong một niệm hiện vô số kiếp nhưng chẳng làm một niệm rộng thêm ra.

Đại Bồ-tát đạt được huyễn trí giải thoát chẳng thể nghĩ bàn, đến bờ bên kia, trụ nơi huyễn tế, nhập vào thế gian như huyễn, tư duy tất cả các pháp đều như huyễn, chẳng trái với thế gian như huyễn, hoàn thiện huyễn trí, rõ biết ba đời hiện tại quá khứ vị lai cùng huyễn không khác, chứng ngộ quyết định sự không ngằn mé của tâm.

Như chư Như Lai trụ trí như huyễn, tâm Phật bình đẳng. Cũng vậy, Đại bồ-tát biết các thế gian thảy đều như huyễn, với tất cả chỗ đều không chấp trước, không có ngã sở. Như nhà huyễn thuật hiện các sự huyễn, dầu chẳng đồng ở với các sự huyễn ấy, nhưng vẫn không mê lầm về các sự huyễn.

Đây là trí thiện xảo diệu quang minh đại tam muội thứ hai của Đại Bồ-tát”. (Phẩm Thập định, thứ 27).

Huyễn nghĩa là vốn vô sanhthị hiện có sanh:

Pháp tánh vốn vô sanh 

Thị hiện mà có sanh

Trong đây không người hiện

Cũng không vật được hiện.

          (Phẩm Bồ-tát vấn minh, thứ 10).

Tâm là vô tận, nên các pháp huyễn cũng là vô lượng. Tâm như huyễnvô tận, nên pháp giới như huyễn cũng vô tận.

“Vì biết tất cả pháp rốt ráo vô tận. Vì biết tất cả cõi Phật vô biên. Vì biết tất cả chúng sanh giới không thể nghĩ bàn. Vì biết tiền tế vô thủy, vị lai vô cùng, hiện tại tận hư không khắp pháp giới vô biên… Vì biết tất cả pháp sở duyên của huyễn tâm là vô lượng.

Đại Bồ-tát nhập tam muội này biết tâm như huyễn, xuất sanh tất cả cảnh giới của các pháp, cùng khắp vô tận. Tại sao thế? Vì Đại Bồ-tát thành tựu hạnh trí vô ngại của Phổ Hiền, quan sát vô lượng huyễn cảnh rộng lớn, thấy chúng như bóng ảnh không tăng không giảm”. (Phẩm Thập định, thứ 27).

Con đường Đại thừa là Bồ-tát hạnh. Sức mạnh của Bồ-tát hạnh lưu xuất từ cái thấy như huyễn như hóa:

Bồ-tát quán các pháp

Biết chắc đều như hóa

Mà tu hạnh như hóa

Rốt ráo trọn chẳng bỏ.

Tùy thuận tự tánh hóa

Tu tập đạo giác ngộ

Tất cả pháp như hóa

Bồ-tát hạnh cũng vậy.

Tất cả các thế gian

Cùng với vô lượng nghiệp

Bình đẳng đều như hóa

Rốt ráo trụ không tịch.

Chư Phật trong ba đời

Tất cả cũng như hóa

Bổn nguyện tu các hạnh

Biến hóa thành Như Lai.

Phật dùng đại từ bi

Độ chúng sanh như hóa

Việc độ cũng như hóa

Lực hóa mà thuyết pháp.

          (Phẩm Thập nhẫn, thứ 29).

Tất cả các pháp như huyễn, nhưng pháp tánh không động, đó là giải thoát:

“Nói tất cả các pháp dường như huyễn hóa, thuyết minh pháp tánh không động chuyển… khiến vào những mây tam muội, khiến biết tâm đó như huyễn như hóa, vô biên vô tận”. (Phẩm Thập định, thứ 27).

Nhất Tâm

Nhất tâmtánh Không, quanh minh và như huyễn. Cả ba cái ấy là đồng thời, đồng hiện hữu. Nơi nào cũng là tánh Không nên nơi nào cũng có quang minh; và nơi nào có quang minh, nơi ấy có ảnh hiện các sự vật như huyễn. Cả ba cái ấy là một, tức là cả ba thân, Pháp thân (tánh Không), Báo thân (quang minh), Hóa thân (như huyễn) là một.

Thấy Nhất Tâm là thấy “cả ba tức là một” ấy hiển hiện khắp nơi, khắp chốn. Sở dĩ người ta không thấy được, sống được pháp giới Nhất Tâmcon người tự tạo ra một trung tâm giả tạo là cái tôi, và xung quanh liền có những trung tâm giả tạo khác là những cái khác với tôi. Trong khi pháp giới “cả ba là một” thì không có một trung tâm, nghĩa là đâu cũng là trung tâm, tất cả là trung tâm.

Văn, tư, tu cái ‘ không có một trung tâm nên tất cả là trung tâm’ này, thì đến một lúc nào, chúng ta thấy được Nhất tâm đang ảnh hiện thành muôn vàn sắc tướng, âm thanh, hương vị… như huyễn tạo thành pháp giới. Đây chính là ý nghĩa của đời sống.

Ví như trăng sáng giữa hư không

Thế gian chúng sanh thấy tròn khuyết

Tất cả sông ao hiện bóng trăng

Mọi thứ tinh tú đều mờ tối…

Như trong biển lớn đầy châu báu

Trong sạch không nhơ, không hạn lượng

Bao nhiêu chúng sanh ở bốn châu

Tất cả hiện bóng ở trong biển.

Phật thân công đức cũng như vậy

Không nhơ không đục không ngằn mé

Nhẫn đến pháp giới các chúng sanh

Không ai chẳng hiện trong thân Phật.

Ví như mặt trời phóng quang minh

Chẳng rời bổn xứ chiếu mười phương

Phật quang chiếu khắp cũng như vậy

Không đi không đến trừ si tối.

Dầu không chỗ y mà ở khắp

Dầu đến tất cả mà không đi

Như vẻ trong không, cảnh trong mộng

Phải quán thân Phật là như vậy.

          (Phẩm Nhập pháp giới, thứ 39).  (Tạp chí Văn Hóa Phật Giáo số 236)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1620)
Giáo lý Duyên khởi là nền tảng của triết học Phật giáo, do đó luôn là tâm điểm của những nghiên cứu về sự uyên nguyên của đạo Phật.
(Xem: 1612)
Đức Phật khẳng định: “Trong giáo pháp nào nếu khôngtám Thánh đạo thời ở đó không có quả vị Sa-môn thứ nhất, thứ nhì, thứ ba, thứ tư.
(Xem: 1008)
Duyên khởi có nghĩa là hết thảy hiện tượng đều do nhân duyên mà phát sinh, liên quan mật thiết với nhau, nương vào nhau mà tồn tại. Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính,” không có yếu tính quyết định.
(Xem: 1481)
Trong các kinh điển thuộc Hán tạng, ‘Phật thị hiện thuyết pháp’ có thể được xem như là một ‘thuật ngữ’ quen thuộc, phổ biến đối với quý Phật tử Đại Thừa.
(Xem: 1464)
Con người được sinh ra đời, sống trong cuộc đời nhưng càng lớn lên càng cảm thấy mình như vẫn thiếu thốn cái gì, như vẫn là một người thất lạc.
(Xem: 1643)
Có lần khi nói về tám thức tâm vương trong Duy thức học, một người hỏi rằng “con người lo sợ là do thức nào?”.
(Xem: 1910)
Giác ngộ cũng tức là giải thoát. Giải thoát cái gì ? Giải thoát khỏi sinh tử luân hồi, điên đảo mộng tưởng, giống như người đang nằm mơ chợt tỉnh dậy,
(Xem: 1491)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1328)
Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn, còn gọi là Bồ-đề Tát-đa,… Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn (sanskrit), còn gọi là Bồ-đề Tát-đa
(Xem: 1346)
Kính lễ Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn Nay con đem tâm phàm phu suy diễn thánh pháp Là nhờ những bậc tiền bối đã khai triển Pháp này Xin Ngài gia bị cho tâm phàm phu chuyển thành thánh trí
(Xem: 1516)
Con xin đê đầu kính lễ Phật – bậc Nhất thiết trí – đấng Mặt trời tròn thanh khiết. Những tia sáng lời dạy của Ngài đã phá tan bóng đêm trong bổn tâm của chư thiên, loài người và các đường ác.
(Xem: 1117)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau trong suốt nhiều thế kỷ liền đã nỗ lực lý giải khái niệm này bằng cách tận dụng sự hiểu biết hạn chế của mình.
(Xem: 1241)
Dưới đây là một vài dẫn khởi có tính cách thực tiễn đối với sự tu tập công án, được đề ra do các Thiền sư qua nhiều thời đại; từ đó, chúng ta có thể thấy rõ một công án sẽ làm được việc gì để khai triển ý thức Thiền và cũng thấy rõ sự tu tập công án đã bộc lộ cho khuynh hướng nào theo thời gian.
(Xem: 1245)
Có hai hình ảnh quen thuộc gợi lên ý tưởng biến dịch: như dòng sông và như ngọn lửa bốc cháy trên đỉnh núi. Mỗi hình ảnh lại gợi lên một ý nghĩa tương phản: tác thành và hủy diệt.
(Xem: 1674)
Thời gian là một hiện tượng bí ẩn nhất và cũng là sít sao nhất với cuộc sống mỗi người.
(Xem: 1623)
Một thời Thế Tôn trú ở Nālandā, tại rừng Pāvārikamba. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta bạch Thế Tôn:
(Xem: 2915)
Duyên khởi cho bài viết này là từ một bản tin BBC News có nhan đề “Thiền định chánh niệm có thể khiến con người xấu tính đi?”— và từ một số cuộc nghiên cứu khác đã giúp chúng ta có cái nhìn đa diện hơn về Thiền chánh niệm, một pháp môn nhà Phật đang thịnh hành khắp thế giới.
(Xem: 1799)
Khi sinh ra và lớn lên trong cuộc đời này mỗi người đều mang trong mình một huyết thống mà tổ tiên bao đời đã hun đúc, giữ gìntruyền thừa qua nhiều thế hệ.
(Xem: 1353)
Vấn đề tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni phạm tội ba-la-di, thời Phật nghiêm khắc không cho sám hối đều có lý do. Với những lý do đó giống với xã hội bây giờ, cho nên trong chương này chúng tôi thảo luận chung cả hai giai đoạn thời Phật và cuộc sống hiện tại.
(Xem: 1208)
Hiện nay trong nguồn văn hiến hệ Hán truyền, chúng ta tìm thấy nhiều từ ngữ liên quan đến ý nghĩa sám hối như “hối quá 悔過”, “sám hối 懺悔”, “sám-ma 懺摩”, “phát lồ 發露”, thực chất tất cả đều xuất thân từ nghĩa gốc Phạn ngữ (Sanskrit) là từ: kṣama, kṣamayati.
(Xem: 1264)
Trong dòng chảy tâm thức của nhân loại từ xa xưa và cho đến nay luôn chia thành hai hướng, một hướng chảy theo dòng chảy Luân hồi (Saṃsāra), là số chúng sinh tâm tư cấu bẩn phiền não, ngụp lặn trong bùn lầy ố trược.
(Xem: 1381)
Những người con Phật chơn chính, thì lúc nào và ở đâu, họ cũng thực hành phápchánh pháp trở thành đời sống của chính họ. Họ được nuôi dưỡng ở trong chánh pháp và họ vui sống trong chánh pháp mỗi ngày.
(Xem: 1299)
Sự ra đời của Đức Phật nghiễm nhiên đã trở thành sự kiện quan trọng nhất trong suốt mấy ngàn năm tư tưởng Đông phương. Hiện tượng Lâm-tỳ-ni, chính vì thế, đã trở thành một hiện tượng đặc sắc đáng để mọi người nghiên cứu Phật học quan tâm.
(Xem: 1898)
Tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi đau khổ lớn. Đây là động cơ lớn thúc đẩy Thái tử ra đi tìm chân lý.
(Xem: 1650)
Như huyễn là một tính cách, một phương diện của tánh Không. Tánh Khôngvô tự tánh của mọi cái hiện hữu, và vì vô tự tánh nên như huyễn.
(Xem: 1863)
Theo quan niệm nhà Phật thì con người tự ràng buộc mình trong nỗi khổ đau do chính mình gây ra.
(Xem: 1797)
Trên lộ trình hướng về Phật đạo, tôi có duyên được “làm người đưa đò” tại ...
(Xem: 2370)
Bình đẳng tánh trí là gì? Là tánh bình đẳng của đại viên cảnh trí, nghĩa là tánh bình đẳng của tất cả mặt gương và của tất cả bóng hình in vào đó.
(Xem: 1774)
Theo truyền thống Phật giáo Nam tông, y cứ theo lịch Ấn Độ cổ đại, Vũ kỳ An cư (Vassavāsa) bắt đầu từ ngày 16 tháng 6 (tháng Āsālha) và kết thúc vào ngày 16 tháng 9 (tháng Āssina).
(Xem: 2102)
Vào thời Đức Phật, xã hội Ấn Độ rất nhiều học thuyết ra đời, mỗi học thuyết là một quan điểm chủ trương.
(Xem: 2170)
Trong bài này chúng ta sẽ tìm hiểu sơ lược về Đại viên cảnh trí, và trích toàn bộ đoạn nói về trí này trong Kinh Phật Địa, do Tam tạng Pháp sư Huyền Trang dịch ra tiếng Hán.
(Xem: 2283)
am Vô Lậu Học là môn học thù thắng gồm: Giới, Định và Tuệ trong đạo Phật.
(Xem: 1830)
Khi đạo Phật nói về tánh chất của khổ, có nhiều mức độ khổ khác nhau.
(Xem: 1952)
Dân gian thường nói, không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời. Rất khó giải thích về“ba họ” và “ba đời”.
(Xem: 2001)
Chúng ta đã thấy nguồn gốc của kinh tạng Phật giáo phát khởi từ ba kỳ kết tập kinh điển (saṅgīti).[1]
(Xem: 1916)
“Tất cả là vô thường” là một trong ba nguyên lý căn bản của Phật giáo (vô thường, vô ngã và niết-bàn tịch tịnh)
(Xem: 2566)
Không có kinh sách nào, Đức Phật dạy: Phải cầu nguyện, hay nương tựa vào một ai đó, ngay cả việc nương nhờ vào chính Ngài.
(Xem: 1918)
Bản tâm, tự tâm, bản tánh, tự tánh là những danh từ được Lục Tổ Huệ Năng sử dụng trong những lời thuyết pháp của ngài để...
(Xem: 1852)
Muốn thực hiện một đời sống đạo đức, mang lại hạnh phúc cho bản thân cũng như tha nhân thì trước hết con người ấy phải được giáo dục.
(Xem: 1923)
Như chúng ta đã biết, từ xưa lắm các triết gia và sử gia phương Tây từng đưa ra những định nghĩa về con người,
(Xem: 1867)
Sám hối là một thực hành tu tập quan trọng và phổ biến trong Phật giáo. Sám hối là...
(Xem: 2131)
Chúng ta hãy khởi đầu đọc kinh Kim-cang như một tác phẩm văn học. Giá trị văn học là sự biểu hiện thẩm mỹ của nội dung tư tưởng.
(Xem: 2271)
“Bà lão nghèo ngộ pháp Duyên khởi” là bản kinh chúng tôi giới thiệu kỳ này. Nguyên tác “Phật thuyết lão nữ nhơn kinh 佛說老女人經
(Xem: 1944)
“Kinh Căn Tu Tập / Indriya bhàvanà sutta” là bài kinh cuối cùng trong số 152 bài kinh đăng trong Trung Bộ Kinh do...
(Xem: 2049)
Theo Phật giáo, pháp có nghĩa là giáo pháp của Phật. Những lời dạy của Đức Phật chuyên chở chân lý.
(Xem: 1836)
Như Đức Phật đã dạy, một đặc điểm của Giáo Pháp thuần túy là những hiệu ứng phải được thể nghiệm tức khắc lúc này và nơi này, ngay trong cuộc đời này
(Xem: 1883)
Căn cứ thông tin từ tác phẩm Ni trưởng Huỳnh Liên - cuộc đờiđạo nghiệp do Ni giới hệ phái Phật giáo Khất sĩ ấn hành vào năm 2016 thì...
(Xem: 2391)
Từ khi đạo Phật du nhập vào Việt Nam, chúng ta thấy rõ là bất cứ khi nào truyền thống dân tộc nép mình để đi trong dòng sinh mệnh của đạo Phật thì...
(Xem: 2302)
Dựa vào lịch sử Đức Phật, chúng ta được biết, Thái tử Sĩ Đạt Ta (Siddhattha) khi chào đời, bước đi bảy bước, có bảy hoa sen đỡ chân
(Xem: 3918)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2452)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 3153)
Bốn mươi chín ngày sau khi đạt giác ngộ, Đức Phật bi mẫn và thiện xảo đã thuyết Tứ Diệu Đế cho năm vị đệ tử may mắn tại Varanasi.
(Xem: 2443)
Nếu có ai đó yêu cầu tóm tắt toàn bộ giáo lý Phật giáo trong một vài từ ngữ gọn gàng, không cần dài dòng văn tự, tôi sẽ không do dự trả lời rằng, đó là : Ngũ uẩn giai không.
(Xem: 2030)
Bằng sự tu tập lâu dài, vượt qua vách sắt thành đồng của địa ngục Thiết Vi hay sự co duỗi của bàn tay trước mắt mà ta vươn tới sự giải thoát thời đoạn, cuối cùngsự giải thoát hoàn toàn.
(Xem: 1783)
Đức Di Lặc tiếp tục giảng cho đồng tử Thiện Tài về Bồ đề tâm: “Tại sao vậy? Vì nhân nơi Bồ đề tâm mà xuất sanh tất cả Bồ tát hạnh.
(Xem: 3286)
Cộng đồng Tăng Già gồm tứ chúng Tăng NiPhật tử tại gia Nam Nữ với một hội đồng gồm ít nhất là bốn vị Tăng, hay một cộng đồng Tăng Ni sống hòa hiệp với nhau trong tinh thần lục hòa.
(Xem: 2326)
Đến nay, vấn đề xác định kinh điển Phật thuyết hay phi Phật thuyết vẫn là nội dung được các học giả quan tâm nghiên cứu
(Xem: 3000)
Nhiều học giả phương Tây nhận định rằng khái niệm Niết bàn, tức nirvāṇa trong Sanskrit hay nibbāna trong Pali, có thể xem là ...
(Xem: 2678)
Hãy thử tưởng tượng một đoàn người đang ngồi trên một chiếc thuyền trôi giữa biển, trong đêm tối. Sự nhỏ nhoi của con thuyền...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant