Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Các Hữu TìnhBản Tính Tự NhiênNiết Bàn

15 Tháng Mười Hai 201510:43(Xem: 7473)
Các Hữu Tình Có Bản Tính Tự Nhiên Là Niết Bàn

CÁC HỮU TÌNHBẢN TÍNH TỰ NHIÊNNIẾT BÀN

Đặng Hữu Phúc


Các Hữu Tình Có Bản Tính Tự Nhiên Là Niết Bàn

Chư Phật thấy các hữu tìnhbản tính tự nhiênniết bàn / bản tính niết bàn (prakrtiparinirvana; natural nirvana), vượt ngoài sầu muộn, vượt ngoài tầm với của đau khổ, nên đều được giải thoát. Điều này được Ngài Tịch Thiên (685-763) giải thích trong Con đường Bồ Tát.  

IX. 102.  Tâm thì không có vị trí trong các căn/năng lực cảm giác (sense faculties), cũng không trong sắc tướng (form) và các đối tượng cảm giác khác (other sense-objects), cũng không ở khoảng giữa chúng. Tâm cũng không được tìm thấy bên trong, bên ngoài, cũng không bất kì đâu khác.

IX. 103. Tâm thì không ở trong thân, cũng không bất kì nơi khác, cũng không trộn lẫn, cũng không đứng riêng một nơi nào, là bản vô, nghĩa là không hiện hữu tự tính [= không một vật / bản vô /chân như / như như]. Thế nên, các hữu tình do bản chất đều được giải thoát [= đều là niết bàn tịch tĩnh].

[IX.103 That which is not in the body nor anywhere else, neither intermingled nor somewhere separate, is nothing. Therefore, sentient beings are by nature liberated.|| Translated from Sanskrit by Vesna A. Wallace and B. Alan Wallace).

[IX.103 What is not in the body nor elsewhere, neither intermingled nor separate anywhere, that is nothing. Therefore living beings are inherently liberated.|| Translated from Sanskrit by Kate Crosby and Andrew Skilton]   

*

Prajnakaramati (950-1030) viết Panjika (Giải thích Con đường Bồ tát của Tịch Thiên):

Tâm thì không ở trong thân cũng không ở nơi nào khác ngoài thân, tâm cũng không trộn lẫn giữa hai cái này, thân và sự vật bên ngoài, cũng không li cách với thân và hiện diện ở một nơi khác, về phương diện tối hậu là bản vô/chân như, đó là, nó không hiện hữu một cách tự tính. Nó chỉ được tượng trưng bởi cấu trúc của tưởng. Tâm luân hồi cho ấn tượng tương tự một huyễn tượng bởi vì nó chẳng có một bản chất tự tính. Bởi vì lí do đó, các hữu tình được giải thoát do bởi bản chất, bởi vì bản tính niết bàn (prakrti-nirvana; natural nirvana), nó có tướng trạng của không có bản chất tự tính, thì luôn luôn hiện diện trong các dòng tâm thức của tất cả các hữu tình. [Panjika, pp. 245-246]

[According the Panjika, pp.245-246, the mind that is not in the body nor somewhere else outside the body, that is neither intermingled between the two, the body and the outside thing, nor separate from the body and present somewhere else, is ultimately nothing, that is it does not truly exist. It is only presented by mental fabrication. The samsaric mind appears like an illusion because it lacks an intrinsic nature. For that reason, sentient beings are liberated by nature, because the natural nirvana (prakrti-nirvana), which has the characteristic of the absence of intrinsic nature, is always present in the streams of consciousness of all beings.|| A Guide to Boddhisattva Way of Life. Translated from Sanskrit and Tibetan by Vesna A. Wallace and B. Alan Wallace]

*

Đức Đạt Lai Lạt Ma trong Pháp thoại Trí Tuệ Siêu Việt (Transcendental Wisdom 1979) giảng chương 9 của Con đường Bồ tát của Tịch Thiên, giảng kệ tụng 103 :

“Tâm không hiện hữu một cách tự tính trong bản chất của thân, cũng không trong nơi nào khác, cũng không là một trộn lẫn với thân, cũng không cách biệt với thân (nor on its own apart from the body). Nếu đối tượng được đặt tên, tâm, được tìm kiếm, bạn khám phá rằng nó không hiện hữu một cách độc lập. Như vậy, hữu tình do bản chất được giải thoát”.

Đức Đạt Lai Lạt Ma trong Pháp thoại 1993  giảng về Con đường Bồ tát của Tịch Thiên  (Tu Tập Trí Tuệ Siêu Việt /Practicing Wisdom. Đặng Hữu Phúc dịch), giảng kệ tụng 103:

“Tâm không thể hiện hữu trong thân, là thân (trong vai trò là thân), hoặc ở khoảng giữa hai điều trên; tâm cũng không thể hiện hữu độc lập với thân. Một tâm như thế không thể tìm thấy được; thế nên tâm khônghiện hữu tự tính. Và khi các hữu tình công nhận bản chất này của tâm, giải thoát có thể duyên hội xảy ra.

Mặc dù chúng ta biết rằng tâm thức hiện hữu [nhưng không có hiện hữu tự tính], nếu chúng ta phân tích và cố gắng định vị trí nó trong các sát na trước hoặc tiếp theo của tương tục của nó, ý niệm về tâm thức là một đơn vị hiện thể (entity) bắt đầu biến mất, giống như với sự phân tích về thân. Xuyên qua sự phân tích như thế, chúng ta đi tới sự không có hiện hữu tự tính của tâm thức. Điều này cũng áp dụng như nhau đối với các trải nghiệm giác quan, tỉ dụ các tri nhận do mắt, vì chúng cũng chia sẻ bản chất chung”.

*

Patrul Rinpoche (1808-1887) giảng kệ tụng 103 như sau:

Bất kỳ cái gì là thân thì không là tâm. Nhưng trong khi tâm không được tìm thấy cách biệt với thân, như thể nó ở trong các đối tượng bên ngoài, cũng không phải nó trộn lẫn và hợp làm một với thân. Nhưng bởi vì nó không thể có một hiện hữu độc lập, cũng không cách biệt với thân, dù chỉ là tí chút, thế nên bản văn Tịch Thiên. Con đường Bồ tát nói: “Các hữu tình do bản chất của chúng thì vượt ngoài tầm với của đau khổ” (Beings by their nature are beyond the reach of suffering”.  Kinh Bảo Tích (Ratnakuta) nói: Tâm không ở bên trong; tâm không ở bên ngoài; cũng không ở cả hai bên trong bên ngoài. Bạn không thể chỉ thẳng vào nó (The mind is not within; the mind is not without; neither is it both. You cannot point to it). Và sau đó lời kinh nói tiếp: “Này Ca Diếp, ngay cả tất cả chư Phật chưa bao giờ thấy nó! Chư Phật không thấy nó và chư Phật sẽ không bao giờ sẽ thấy nó” (O Kashyapa -- even all the Buddhas have never seen it! They do not see it and they never shall ! ). Và kinh Bát nhã ba la mật tám ngàn tụng nói “Tâm thực ra không là một “tâm”; bản chất của tâm là quang minh giác chiếu” (The mind indeed is not a mind”; the nature of the mind is lucent clarity) .

(The Nectar of Manjushri’s Speech. A detailed Commentary on Shantideva’s Way of the Bodhisattva . Kunzang Pelden. Shambhala 2007. Cam lộ của Diệu Ngữ của Văn Thù Sư Lợi. Giải thích Con đường Bồ tát của Tịch Thiên. Patrul Rinpoche giảng. Kunzang Pelden ghi)     

*  

Ngài Tịch Thiên giải thích bản chất của các hữu tình là Như tính / Tính không, nghĩa là không có hiện hữu tự tính, có bản tính tự nhiênNiết bàn, thế nên hết thảy các hữu tình đều được giải thoát.

Về Như tính (Suchness), Jeffrey Hopkins giải thích:

‘Như tính’ quy chỉ vào ‘tính không’ bởi vì bất kể chư Phật xuất hiện hay không thì bản chất của các hiện tượng vẫn là như thế. Một như tính thì cũng là ‘bản tính niết bàn’ (natural nirvana; prakrtiparinirvana) mà không quy chỉ tới một thông lộ hiện hoạt vượt trên sầu muộn (actual passage beyond sorrow), đó là, một sự vượt qua các phiền não, nhưng nó quy chỉ vào một tính không, tính không này một cách bản nhiên vượt ngoài sự hiện hữu tự tính. Giáo pháp nói rằng các hiện tượng sinh tử luân hồi đều là các đơn vị hiện thể (entities) đồng nhất với các bản tính niết bàn, hoặc các tính không, và không phải là các hiện thể khác biệt. Điều này không có nghĩa là không có sự khác biệt giữa bị phiền não do ý niệm hiện hữutự tính và không bị phiền não do ý niệm hiện hữu tự tính.

(Jeffrey Hopkins. Meditation on Emptiness. Wisdom 1996. p. 218-219)

Suchness

Suchness refers to “emptiness” because whether Buddhas appear or not the nature of of phenomena remain as such. A suchnessis also a ‘natural nirvana’ (prakrtiparinirvana) which does not  refer to an actual passage beyond sorrow, that is, an overcoming of the afflictions, but to an emptiness itself that naturally passed beyond inherent existence. The teaching that cyclic existence  and nirvana  are not different means that the phenomena of cyclic existence are the same entities as their natural nirvanas, or emptinesses, and not separate entities. It does not mean there is no difference  between being afflicted with the conception of inherent existence and not being so afflicted.

( Jeffrey Hopkins. Meditation on Emptiness. Wisdom 1996. p. 218-219)

*

Như tính, Bản tính Niết bàn  của các hữu tình do ngài Tịch Thiên (c. 685-763) giải thích, hoà hợp với các kinh điển Phật Giáo, tỉ dụ Duy ma cật sở thuyết do ngài Cưu ma la thập dịch (khoảng năm 400), và Phật thuyết Vô Cấu Xưng do ngài Huyền Trang (596-664) dịch năm 645.

*Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết (Hán dịch: Cưu ma la thập. Việt dịch: Tuệ Sỹ)

Như Phật đã nói: Này tỳ kheo, ngươi nay tức thời vừa sinh, vừa già, vừa diệt. Nếu bằng vô sinh mà được thọ ký, thì vô sinhchính vị. Mà trong chính vị thì không có thọ ký, thì cũng không có sự chứng đắc A nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Vậy làm sao Di lặc được thọ ký còn một lần tái sinh ? Ấy là bằng Như sinh [11] mà được thọ ký, hay bằng Như diệt mà được thọ ký? Nếu bằng Như sinh mà được thọ ký, thì Như vốn không sinh. Nếu bằng Như diệt mà được thọ ký thì Như vốn không diệt. Vì hết thảy chúng sinh đều là Như tính vậy. Hết thảy các pháp cũng là Như tính vậy. Các Hiền thánh cũng là Như tính vậy. Di lặc cũng là Như tính vậy. Như vậy nếu Di-lặc được thọ ký, thì hết thảy chúng sinh cũng đều được thọ ký. Vì sao? Vì Như vốn không hai, không khác [13].

Nếu Di-lặc chứng đắc giác ngộ tối thượng, thì hết thảy chúng sinh cũng chứng đắc giác ngộ tối thượng. Vì sao? Vì hết thảy chúng sinh là tướng của Bồ đề [14].

Nếu Di-lặc mà diệt độ, thì hết thảy chúng sinh cũng diệt độ[15]. Vì sao ? Chư Phật biết rõ hết thảy chúng sinh rốt ráo tịch diệt, tức là tướng bồ đề, không còn gì để diệt nữa [16].

[11] VKN Sanskrit, tathatotpadena…tathatanirodhena, được thọ ký bằng sự sinh khởi của Như tính, bằng sự tịch diệt của Như tính.

[13] VKN, na hi tathata dvayaprabhavita nanatvaprabhavita, thật vậy, Chân như không hiển hiện bởi nhị nguyên tính, không hiển hiện bởi đa thù tính.

[14] Bồ-đề tướng. Bản Huyền Trang: “Bồ-đề (bodhi) là điều được giác tri (anubuddha) một cách đồng đẳng bởi tất cả hữu tình”. [VKN, bản Sanskrit: sarvasattvanubodhohi bodhih, bồ đề là sự chứng giác của tất cả chúng sinh.

[15] Bản Huyền Trang: Bát-niết-bàn.

[16] Bản Huyền Trang: “Tính tịch tĩnh tự bản chất của hết thảy hữu tình tức là yếu tính của Niết-bàn, vì vậy Phật nói Chân như là Bát-niết-bàn. VKN: tathagatah…te sattvani pasyanti nirvanaprakrtikani, các Như Lai thấy mọi chúng sinh đều có bản tính tự nhiên là Niết-bàn.

*

PHẬT THUYẾT VÔ CẤU XƯNG KINH
Hán Dịch: Đại Đường, Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang - (dịch năm 645)
Việt dịch: Thích Nữ Tịnh Nguyên

 

“ Như đức Thế Tôn đã nói: “Này Tỳ kheo các ông! Sanh già chết trong mỗi sát na. Chết đó rồi sanh đó. Nếu vì vô sanh mà được thọ ký thì vô sanh tức là đã nhập vào chánh tánh. Khi vô sanh này đã nhập trong chánh tánh thì không có vấn đề thọ ký, cũng không chứng đắc Chánh Đẳng Bồ đề.

Vậy làm sao Từ Thị được thọ ký? Theo Như sanh được thọ ký hay theo Như diệt mà được thọ ký? Nếu theo Như sanh được thọ ký thì Như không có sanh. Nếu theo Như diệt được thọ ký thì Như không có diệt. Không sanh không diệt theo trong Lý Chơn Như thì không có vấn đề thọ ký.

Tất cả hữu tình đều Như, tất cả các pháp cũng đều Như, tất cả Hiền Thánh cũng đều là Như, cho đến Từ Thị cũng là Như. Nếu tôn giả Từ Thị được thọ ký thì tất cả hữu tình cũng sẽ được thọ ký như vậy. Vì sao? Vì Chơn Như chẳng phải sự hiển bày của hai, cũng chẳng phải sự hiển bày các tánh khác.

Nếu tôn giả Từ Thị chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề thì tất cả hữu tình cũng sẽ được chứng như vậy. Vì sao? Vì đối với Bồ đề thì tất cả hữu tình đều giác ngộ như nhau. Nếu tôn giả Từ Thị Bát Niết bàn thì tất cả hữu tình cũng sẽ Bát Niết bàn. Vì sao? Vì chẳng phải hữu tình thì không Bát Niết bàn. Đức Phật nói Chơn NhưBát Niết bàn, vì Ngài quán sát thấy bản tánh của các hữu tình đều tịch tịnh, đó là tướng Niết bàn. Thế nên nói Chơn NhưBát Niết bàn.

*

The Holy Teaching of Vimalakirti. Translated from Tibetan by Robert Thurman.  

Như Phật đã nói, ‘Các Tỳ kheo, trong một sát na, các ông sinh, các ông già, các ông chết, các ông chuyển cư, và các ông tái sinh’.  ‘Vậy thì sự thọ ký có thể do sự không sinh? Nhưng khi sự không sinh nhập vào tính tối hậu, trong tính tối hậu đó chẳng có sự thọ ký cũng chẳng có thành tựu chánh đẳng chánh giác’. ‘Thế nên, Di-lặc, như tính /pháp tính của ông do sinh? hoặc nó do diệt?  Như tính của ông như được thọ ký thì không sinh và không diệt, cũng chẳng sẽ sinh  cũng chẳng sẽ diệt. Hơn nữa, như tính của ông hoàn toàn giống như như tính của tất cả chúng sinh, như tính của tất cả các sự-sự vật-vật, và như tính của tất cả các hiền thánh.  Nếu sự giác ngộ của ông có thể được thọ ký theo cách thức như thế, thì sự thọ ký của tất cả các chúng sinh cũng có thể theo cách thức như thế. Tại sao? Bởi vì như tính không có tính nhị nguyên hoặc tính khác biệt.  Di-lặc, bất kỳ khi nào ông thành tựu Phật quả, đó là chánh đẳng chánh giác, thì đồng thời tất cả chúng sinh sẽ cũng  thành tựu giải thoát tối hậu. Tại sao?  Các Như Lai không nhập giải thoát tối hậu cho tới khi mà tất cả chúng sinh đều đã nhập giải thoát tối hậu.  Do, bởi vì tất cả chúng sinh được hoàn toàn giải thoát, các Như Lai thấy chúng sinhbản chất của giải thoát tối hậu”.

*

For the Buddha has declared, "Bhikshus, in a single moment, you are born, you age, you die, you transmigrate, and you are reborn." "Then might the prophecy concern birthlessness?  But birthlessness applies to the stage of destiny for the ultimate, in which there is neither prophecy nor attainment of perfect enlightenment". 'Therefore, Maitreya, is your reality from birth?  Or is it from cessation?  Your reality as prophesied is not born and does not cease, nor will it be born nor will it cease. Furthermore, your reality is just the same as the reality of all living beings, the reality of all things, and the reality of all the holy ones. If your enlightenment can be prophesied in such a way, so can that of all living beings. Why? Because reality does not consist of duality or of diversity. Maitreya, whenever you attain Buddhahood, which is the perfection of enlightenment, at the same time all living beings will also attain ultimate liberation. Why? The Tathagatas do not enter ultimate liberation until all living beings have entered ultimate liberation. For, since all living beings are utterly liberated, the Tathagatas see them as having the nature of ultimate liberation. "

*

Đại sư Tăng Triệu (374 - 414) (có sách ghi tịch lúc 31) trong Triệu luận, phần Tông Bản Nghĩa:

“Bổn vô, Thật tướng, Pháp tánh, Tánh không, Duyên hội, năm danh từ trên vốn chỉ có một nghĩa. Để vạch ra tông chỉ chánh phápcăn bản của bổn Luận, hai chữ Bổn Vô chỉ ngay tâm tịch diệt vốn không một pháp, lìa tất cả tướng, dứt bặt Thánh phàm, nên gọi là Bổn Vô, chẳng phải có ý làm thành vô [có nghĩa là chẳng phải từ hữu lần biến thành vô, vì Bổn Vô này nó vượt ngoài cái có và không tương đối. Thích Duy Lực]. Vì tất cả pháp đều do vọng tâm tùy duyên biến hiện mà có, tâm vốn vô sanh, chỉ do nhân duyên hội hợp mà sanh nên gọi là DUYÊN HỘI.
duyên sanh ra các pháp, vốn không có thật thể, do nhân duyên sanh ra nên nói không, nên gọi là TÁNH KHÔNG, vì pháp thểchơn như biến hiện nên gọi là PHÁP TÁNH. Do chơn như pháp tánh mà thành các pháp, chơn như không có tướng, nên bản thể các pháp tịch diệt, nên gọi là THẬT TƯỚNG.
Vì bổn vô là thể của tâm, duyên hội là dụng của tâm, thật tướng, pháp tánh, tánh không, đều là cái nghĩa do tâm tạo thành vạn pháp nên nói là một nghĩa vậy …
Tại sao vậy? Tất cả các pháp đều do nhân duyên hội hợp mà sanh, duyên hội mà sanh thì khi chưa sanh không có, duyên lìa thì diệt, nếu mà thật có, có thì chẳng diệt. Theo đó mà suy ra thì biết, dù nay hiện ra có, cái có ấy tánh thường tự không, vì tánh thường tự không, nên gọi là TÁNH KHÔNG, bởi vì tánh không nên gọi PHÁP TÁNH, pháp tánh chân thực như thế nên gọi là THẬT TƯỚNG, thật tướng vốn không có tự thể, chẳng phải do suy lường mà cho đó là không, nên gọi là Bổn Vô.”

(Chú thích: Bản Vô, từ ngữ dịch thời ngài Cưu Ma La Thập, về sau được dịch là Chân Như)

(Trích từ Triệu Luận Lược giải. Thích Duy Lực dịch, trong CHƯ KINH TẬP YẾU, trang 470 - 471)

*

Chư Phật thấy các hữu tìnhbản tính tự nhiên là niết bàn/ bản tính niết bàn, vượt ngoài sầu muộn, vượt ngoài tầm với của đau khổ, nên đều được giải thoát. Niềm vui này đã được giới thiệu qua Kinh Duy Ma Cật / Kinh Vô Cấu Xưng, và qua Con đường Bồ tát của Tịch Thiên.

Em chợt thấy yêu đời vô cùng tận
Vì đời là rất mực thiêng liêng
Em chợt thấy không buồn đau oán giận
Thiêng liêng không chia biệt cõi miền
(Bùi Giáng)  

Với bản tính tự nhiênniết bàn, chúng ta nên tỉnh biết, và nhớ lời ngài Vô Trước giảng trong Luận Du Già Sư Địa: Si, Ngu si, Vô minh, Vô trí, Vô kiến, Vô hiện quán, Hôn muội, Hắc ám … là đồng nghĩa.

Hãy sống với tính Bản Phật Phổ hiền của mình (The nature of the Primordial Buddha Samantabhadra; Phổ Hiền: All-around Goodness)

TỜ CŨ

Bây giờ tờ cũ đổi tên
Ấy là tờ mới mênh mông lạ lùng
Vô bờ vô bến vô chung
Kể từ vô thủy thung dung đi về
(Bùi Giáng)

Đặng Hữu Phúc

Sydney,  13.12.2015

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 4996)
Phật giáo có hai hệ là Theravada và Phát-Triển. Hệ Theravada quan niệm quả vị cao nhất mà hành giảthể đạt được là quả vị A-La-Hán.
(Xem: 4383)
Định học là một chi phần quan trọng trong Tam vô lậu học giới, định, tuệ .
(Xem: 4671)
Trí tuệ là sự thấu hiểu, là kiến thức liên quan đến tư tưởng đạo đức giúp ta đi sâu vào đặc điểm và biểu hiện của các đạ o lộ thông qua sự nỗ lực tinh tấn.
(Xem: 4709)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau, nhưng...
(Xem: 5874)
Có một chuyện rất khoa học, tôi không bắt quý vị phải nhắm mắt tin Phật nhưng tôi cho quý vị một gợi ý.
(Xem: 3309)
Đối với một người đã giác ngộ, sẽ không còn thấy nữ tính và nam tính nữa. Với một số vị thường quán bạch cốt, sẽ thấy thân mình và người chỉ là một nhóm xương khô đang đi đứng nằm ngồi.
(Xem: 5279)
Long Thọ hay Long Thụ (Nāgārjuna) không phải chỉ là tổ của tông Trung Quán (Madhyamika),[1] trong lịch sử phát triển Phật giáo ngài được coi là vị Phật thứ hai sau Đức Thế Tôn
(Xem: 2943)
Hạnh phúctrạng thái cảm xúc khi ta thỏa mãn được nhu cầu nào đó của bản thân. Hạnh phúc khi được nhận. Có một loại hạnh phúc khác mà cảm xúc mang đến cho bạn nhiều hơn nữa: Đó là hạnh phúc từ sự cho đi.
(Xem: 4157)
Kỳ thực, trên đời này không ai có thể khiến chúng ta đau khổ ngoài chính bản thân mình, và cũng không ai có thể mang lại hạnh phúc cho chúng ta ngoài bản thân mình ra…
(Xem: 5298)
Bài kinh "Viết Trên Đá, Trên Đất, Trên Nước" là bài kinh ngắn, trích trong Kinh Tăng Chi Bộ, chương Ba, phẩm Kusinàra.
(Xem: 4275)
Đã gần vào Hạ mà đức Thế Tôn vẫn chưa khuyên giải được mâu thuẫn giữa hai nhóm Tỳ-kheo đều là đệ tử của Ngài.
(Xem: 3332)
Cuộc sống giản đơn sẽ tháo bỏ cho chúng ta những gông cùm trách nhiệm do chính chúng ta tự đeo vào cổ, giúp chúng ta có nhiều thời gian hơn để sống với những người thân yêu.
(Xem: 6367)
Bài kinh "Thanh Tịnh" là bài kinh ngắn, Đức Phật giảng cho các vị Tỷ-kheo khi Ngài còn tại thế.
(Xem: 5354)
Sa-môn (Samana), Tỳ-kheo (Bhikkhu) hay Bí-sô (Bhiksu) là những danh xưng chỉ cho vị tu sĩ Phật giáo.
(Xem: 4642)
Kinh Trung A-Hàm được dịch sang Hán đầu tiên vào niên hiệu Kiến Nguyên năm thứ mười chín (383) do một nhóm các vị tăng nhân người Ấn Độ nói chung thực hiện.
(Xem: 6257)
Trung đạo (madhyamā-pratipad) là con đường tu tập được kinh nghiệm từ chính Đức Phật.
(Xem: 6118)
Tâm lý thường tình của con người là tò mò, ưa những điều lạ lùng, kỳ dị và khác thường vì họ đã quá quen với cuộc sống bình thường, nên ...
(Xem: 3905)
Chúng sinh trong cõi “Dục giới” luôn chạy theo tìm cầu để hưởng thụ năm thứ dục lạc nên gọi là ngũ dục. Ngũ dục, chính là năm thứ sắc, thanh, hương, vị, xúc.
(Xem: 6041)
Tứ động tâm là bốn Thánh tích thiêng liêng của Phật giáo tại Ấn Độ, ghi dấu bốn sự kiện trọng đại trong cuộc đờisự nghiệp hoằng hóa của Đức Phật Thích Ca.
(Xem: 4646)
Về mặt ngôn từ, thì chữ “công đức” là được dịch nghĩa từ chữ “punna” trong tiếng Pali. Tiếng Anh dịch thành chữ “merit”.
(Xem: 4807)
Nguyên nhân của sanh tử được nêu rõ trong Thập nhị nhân duyên, thuộc giáo lý căn bản của Phật giáo.
(Xem: 3398)
tại gia hay xuất gia, chúng ta đến với đạo Phật nhưng chỉ biết những hình thức cúng kiếng, lễ lạy
(Xem: 6296)
Uẩn, thuật ngữ Pāli là khandha (Skt: skandha) thường được dịch sang tiếng Anh là ‘aggregates’ uẩn.
(Xem: 4961)
Ba-la-mật (pāramī or pāramitā) là các pháp hành để hoàn thiện nhân cách được nói đến trong kinh điểnchú giải, nhất là phần Hạnh Tạng thuộc Tiểu Bộ kinh.
(Xem: 3556)
Nói đạo Phật là đạo “cứu khổ ban vui” nhưng kỳ thực chẳng có ai ‘cứu’ mà cũng không ai ‘ban’ cho cả.
(Xem: 3483)
Mọi hiện tượng và sự vật trên thế gianhoàn vũ này không bao giờ độc lậptồn tại, mà do nhân duyên hòa hợp tạo thành.
(Xem: 5691)
Quan điểm thống nhất trong kinh điển là: sát sanh vi phạm giới luật đầu tiên và chiến tranh là sai lầm ngay cả khi chiến đấu cho mục tiêu phòng thủ hay tấn công.
(Xem: 4257)
Narayan Helen Liebenson, Geshe Tenzin Wangyal Rinpoche và Blanche Hartman chia xẻ lời khuyên của họ về việc làm sao để ứng phó với các giai đoạn trầm cảm.
(Xem: 6012)
Niết-bàn là phước lạc tối thượng, một trạng thái hạnh phúc vĩnh cửu. Không thể trải nghiệm hạnh phúc của Niết-bàn bằng các giác quan mà bằng cách làm cho chúng tịch lặng.
(Xem: 5254)
Trong những bài pháp ngắn gọn, súc tích nhất để hướng dẫn tu hành khi chưa có giới bổn Patimokkha, Chư Phật đã chỉ ra con đường sống đạo,
(Xem: 3693)
Định hướng cuộc đời để đạt được mong muốn thích đángyếu tố quan trọng giúp cho ta thăng tiến trên đỉnh cao của sự giác ngộgiải thoát.
(Xem: 3773)
Hơn bao giờ hết, những bản dịch kinh điển rõ ràng dễ hiểu, được chú giải thận trọng, được thẩm định kỹ lưỡng trước khi đến tay người học Phật đang là một nhu cầu hết sức cấp thiết và quan trọng.
(Xem: 3711)
Nếu đời là vô thường, sự sống có giới hạn thì phải chăng con người ta khi sống nên có một chút ý nghĩa. Bạn ước mong gì?
(Xem: 3537)
Mong ước của tôi là chúng ta sẽ có dịp đồng hành cùng nhau trên hành trình tâm linh siêu việt của bạn.
(Xem: 5370)
“Tất cả những cảm thọ mà một người nhận chịu dầu đó là lạc thọ, khổ thọ hay vô ký thọ đều là kết quả của Nghiệp quá khứ, người nào quan niệm như vậy là tà kiến”.
(Xem: 4028)
Đức Phật là đấng đạo sư, là bậc thầy của nhân loại, nhưng ngài cũng là nhà luận lý phân tích, nhà triết học, nhà giáo dục vĩ đại. Kinh tạng Pāli cho chúng ta thấy rõ về các phương pháp giảng dạy của đức Phật một cách chi tiết. Tùy theo từng đối tượng nghe pháp mà Ngài có phương thức truyền đạt khác nhau.
(Xem: 4378)
Đất Phù Nam (Funan) bao trùm cả một phần Việt Nam, Căm Bốt (Cambodia), Mã Lai (Malaysia) và Thái Lan (Thailand).
(Xem: 5833)
Nhiều người không sinh ra trong gia đình Phật Giáo, nhưng đã tìm học về Phật Giáo nhờ nghe luật Nghiệp Báo
(Xem: 3138)
Thế Tôn thật sự là vị đã đoạn trừ nhiều khổ pháp cho chúng ta. Thế Tôn thật sự là vị đã mang lại nhiều lạc pháp cho chúng ta.
(Xem: 3075)
Đạo từ tâm sinh. Đi học đạo là học cho ta, để nhận chân được tự tâm, để tạo nên cái phẩm giá của ta
(Xem: 3879)
Người ngu si thiếu trí tuệ biến tự ngã của mình thành kẻ thù, lại tưởng kẻ thù của mình ở bên ngoài nhưng chính mình là kẻ thù của mình đó.
(Xem: 4869)
"Nầy các Tỳ Kheo, ta sẽ giảng dạy, và phân tích cho các ông nghe về con đường cao quý có tám phần. Khi ta nói, các ông hãy chú ý và lắng nghe."
(Xem: 3579)
Nếu tâm hồn biết thầm lặng kết “bạn đường” với thánh hiền tôn giáo, với các nhà hiền triết tâm linh, thì NĂNG LƯỢNG MẦU NHIỆM sẽ hiện hữu...
(Xem: 3069)
Có thể nói ngày nay, chiến tranh, hận thù, thương yêu, ghét bỏ, kỳ thị, náo động trên thế giới… đều do tà kiến mà ra.
(Xem: 4597)
Luật nhân quả có lẽ ai cũng biết và hầu như ít nhiều ai cũng tin. Tuy nhiên, để có được niềm tin không lay chuyển vào quy luật tự nhiêncông bằng ấy thì lại không dễ,
(Xem: 4749)
Tâm là chủ thể tiếp nhận các đối tượng từ bên ngoài lẫn bên trong. Khi đang ngủ say, thì tâm được cho là trống rỗng, hay nói cách khác, đó là trạng thái vô thức
(Xem: 3464)
Không ai có thể nói trước được chuyện gì sẽ xảy ra ở ngày mai, mặc dù ngày mai mặt trời vẫn lên.
(Xem: 4006)
Nhà Phật thường nhắc đến đạo lý sống Trung Đạo. Cái gọi là Trung Đạo chính là không đi theo hướng cực đoan, quá mức.
(Xem: 4744)
Nhiều trường phái Phật Giáo ngày nay vẫn tụng Kinh Pali, ngôn ngữ của Đức Phật lịch sử.
(Xem: 3587)
Hiện nay, quý vị trẻ thường thích thể hiện mình theo nhiều cách mà mọi người vẫn thường gọi chung chung là muốn khẳng định cái tôi.
(Xem: 3614)
Sắc thanh hương vị xúc pháp cấu thành thế giới của con người chúng taduyên sanh, vô tự tánh, bất khả đắcvô sở hữu
(Xem: 5161)
Pháp ấn, tiếng Phạn dharma-mudrā, trong đó dharma là pháp, là những lời dạy của Đức Phật, mudrā là dấu ấn, là khuôn dấu, là đặc chất, là tiêu chuẩn.
(Xem: 4174)
Phật giáo cho rằng, mọi việc thành bại, li hợp ở đời đều không nằm ngoài nguyên tắc "nhân duyên quả báo".
(Xem: 3302)
Buông bỏ phiền não, trước hết là để giải tỏa mọi ưu tư, khiến người ta hạnh phúc.
(Xem: 3006)
Có những nhân quảnhân tạo trong đời này nhưng quả có khi phải qua đời sau hoặc những đời sau mới trỗ.
(Xem: 3045)
Sự quán sát, quán chiếu khởi từ danh tướng - danh là hương, là vị; tướng là những tính chất đặc trưng của chúng
(Xem: 3126)
Phật tử, tôi tâm đắc phần thuyết giảng về ái ngữ của Thiền sư Thích Nhất Hạnh
(Xem: 3121)
Ai cũng mong trong cuộc sống có rất nhiều niềm vui và thật ít nỗi buồn.
(Xem: 3492)
Con người bình thường, khỏe mạnh là một thể thống nhất hài hòa giữa hai yếu tố thân và tâm hay thể xác và tinh thần.
(Xem: 4019)
Người khéo tu lúc nào cũng nhớ quay lại mình, nhận ra và sống được với Tâm chân thật, ngoài ra tất cả đều vô thường hư ảo, không cần chú tâm làm gì.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant