Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Các Hữu TìnhBản Tính Tự NhiênNiết Bàn

15 Tháng Mười Hai 201510:43(Xem: 7384)
Các Hữu Tình Có Bản Tính Tự Nhiên Là Niết Bàn

CÁC HỮU TÌNHBẢN TÍNH TỰ NHIÊNNIẾT BÀN

Đặng Hữu Phúc


Các Hữu Tình Có Bản Tính Tự Nhiên Là Niết Bàn

Chư Phật thấy các hữu tìnhbản tính tự nhiênniết bàn / bản tính niết bàn (prakrtiparinirvana; natural nirvana), vượt ngoài sầu muộn, vượt ngoài tầm với của đau khổ, nên đều được giải thoát. Điều này được Ngài Tịch Thiên (685-763) giải thích trong Con đường Bồ Tát.  

IX. 102.  Tâm thì không có vị trí trong các căn/năng lực cảm giác (sense faculties), cũng không trong sắc tướng (form) và các đối tượng cảm giác khác (other sense-objects), cũng không ở khoảng giữa chúng. Tâm cũng không được tìm thấy bên trong, bên ngoài, cũng không bất kì đâu khác.

IX. 103. Tâm thì không ở trong thân, cũng không bất kì nơi khác, cũng không trộn lẫn, cũng không đứng riêng một nơi nào, là bản vô, nghĩa là không hiện hữu tự tính [= không một vật / bản vô /chân như / như như]. Thế nên, các hữu tình do bản chất đều được giải thoát [= đều là niết bàn tịch tĩnh].

[IX.103 That which is not in the body nor anywhere else, neither intermingled nor somewhere separate, is nothing. Therefore, sentient beings are by nature liberated.|| Translated from Sanskrit by Vesna A. Wallace and B. Alan Wallace).

[IX.103 What is not in the body nor elsewhere, neither intermingled nor separate anywhere, that is nothing. Therefore living beings are inherently liberated.|| Translated from Sanskrit by Kate Crosby and Andrew Skilton]   

*

Prajnakaramati (950-1030) viết Panjika (Giải thích Con đường Bồ tát của Tịch Thiên):

Tâm thì không ở trong thân cũng không ở nơi nào khác ngoài thân, tâm cũng không trộn lẫn giữa hai cái này, thân và sự vật bên ngoài, cũng không li cách với thân và hiện diện ở một nơi khác, về phương diện tối hậu là bản vô/chân như, đó là, nó không hiện hữu một cách tự tính. Nó chỉ được tượng trưng bởi cấu trúc của tưởng. Tâm luân hồi cho ấn tượng tương tự một huyễn tượng bởi vì nó chẳng có một bản chất tự tính. Bởi vì lí do đó, các hữu tình được giải thoát do bởi bản chất, bởi vì bản tính niết bàn (prakrti-nirvana; natural nirvana), nó có tướng trạng của không có bản chất tự tính, thì luôn luôn hiện diện trong các dòng tâm thức của tất cả các hữu tình. [Panjika, pp. 245-246]

[According the Panjika, pp.245-246, the mind that is not in the body nor somewhere else outside the body, that is neither intermingled between the two, the body and the outside thing, nor separate from the body and present somewhere else, is ultimately nothing, that is it does not truly exist. It is only presented by mental fabrication. The samsaric mind appears like an illusion because it lacks an intrinsic nature. For that reason, sentient beings are liberated by nature, because the natural nirvana (prakrti-nirvana), which has the characteristic of the absence of intrinsic nature, is always present in the streams of consciousness of all beings.|| A Guide to Boddhisattva Way of Life. Translated from Sanskrit and Tibetan by Vesna A. Wallace and B. Alan Wallace]

*

Đức Đạt Lai Lạt Ma trong Pháp thoại Trí Tuệ Siêu Việt (Transcendental Wisdom 1979) giảng chương 9 của Con đường Bồ tát của Tịch Thiên, giảng kệ tụng 103 :

“Tâm không hiện hữu một cách tự tính trong bản chất của thân, cũng không trong nơi nào khác, cũng không là một trộn lẫn với thân, cũng không cách biệt với thân (nor on its own apart from the body). Nếu đối tượng được đặt tên, tâm, được tìm kiếm, bạn khám phá rằng nó không hiện hữu một cách độc lập. Như vậy, hữu tình do bản chất được giải thoát”.

Đức Đạt Lai Lạt Ma trong Pháp thoại 1993  giảng về Con đường Bồ tát của Tịch Thiên  (Tu Tập Trí Tuệ Siêu Việt /Practicing Wisdom. Đặng Hữu Phúc dịch), giảng kệ tụng 103:

“Tâm không thể hiện hữu trong thân, là thân (trong vai trò là thân), hoặc ở khoảng giữa hai điều trên; tâm cũng không thể hiện hữu độc lập với thân. Một tâm như thế không thể tìm thấy được; thế nên tâm khônghiện hữu tự tính. Và khi các hữu tình công nhận bản chất này của tâm, giải thoát có thể duyên hội xảy ra.

Mặc dù chúng ta biết rằng tâm thức hiện hữu [nhưng không có hiện hữu tự tính], nếu chúng ta phân tích và cố gắng định vị trí nó trong các sát na trước hoặc tiếp theo của tương tục của nó, ý niệm về tâm thức là một đơn vị hiện thể (entity) bắt đầu biến mất, giống như với sự phân tích về thân. Xuyên qua sự phân tích như thế, chúng ta đi tới sự không có hiện hữu tự tính của tâm thức. Điều này cũng áp dụng như nhau đối với các trải nghiệm giác quan, tỉ dụ các tri nhận do mắt, vì chúng cũng chia sẻ bản chất chung”.

*

Patrul Rinpoche (1808-1887) giảng kệ tụng 103 như sau:

Bất kỳ cái gì là thân thì không là tâm. Nhưng trong khi tâm không được tìm thấy cách biệt với thân, như thể nó ở trong các đối tượng bên ngoài, cũng không phải nó trộn lẫn và hợp làm một với thân. Nhưng bởi vì nó không thể có một hiện hữu độc lập, cũng không cách biệt với thân, dù chỉ là tí chút, thế nên bản văn Tịch Thiên. Con đường Bồ tát nói: “Các hữu tình do bản chất của chúng thì vượt ngoài tầm với của đau khổ” (Beings by their nature are beyond the reach of suffering”.  Kinh Bảo Tích (Ratnakuta) nói: Tâm không ở bên trong; tâm không ở bên ngoài; cũng không ở cả hai bên trong bên ngoài. Bạn không thể chỉ thẳng vào nó (The mind is not within; the mind is not without; neither is it both. You cannot point to it). Và sau đó lời kinh nói tiếp: “Này Ca Diếp, ngay cả tất cả chư Phật chưa bao giờ thấy nó! Chư Phật không thấy nó và chư Phật sẽ không bao giờ sẽ thấy nó” (O Kashyapa -- even all the Buddhas have never seen it! They do not see it and they never shall ! ). Và kinh Bát nhã ba la mật tám ngàn tụng nói “Tâm thực ra không là một “tâm”; bản chất của tâm là quang minh giác chiếu” (The mind indeed is not a mind”; the nature of the mind is lucent clarity) .

(The Nectar of Manjushri’s Speech. A detailed Commentary on Shantideva’s Way of the Bodhisattva . Kunzang Pelden. Shambhala 2007. Cam lộ của Diệu Ngữ của Văn Thù Sư Lợi. Giải thích Con đường Bồ tát của Tịch Thiên. Patrul Rinpoche giảng. Kunzang Pelden ghi)     

*  

Ngài Tịch Thiên giải thích bản chất của các hữu tình là Như tính / Tính không, nghĩa là không có hiện hữu tự tính, có bản tính tự nhiênNiết bàn, thế nên hết thảy các hữu tình đều được giải thoát.

Về Như tính (Suchness), Jeffrey Hopkins giải thích:

‘Như tính’ quy chỉ vào ‘tính không’ bởi vì bất kể chư Phật xuất hiện hay không thì bản chất của các hiện tượng vẫn là như thế. Một như tính thì cũng là ‘bản tính niết bàn’ (natural nirvana; prakrtiparinirvana) mà không quy chỉ tới một thông lộ hiện hoạt vượt trên sầu muộn (actual passage beyond sorrow), đó là, một sự vượt qua các phiền não, nhưng nó quy chỉ vào một tính không, tính không này một cách bản nhiên vượt ngoài sự hiện hữu tự tính. Giáo pháp nói rằng các hiện tượng sinh tử luân hồi đều là các đơn vị hiện thể (entities) đồng nhất với các bản tính niết bàn, hoặc các tính không, và không phải là các hiện thể khác biệt. Điều này không có nghĩa là không có sự khác biệt giữa bị phiền não do ý niệm hiện hữutự tính và không bị phiền não do ý niệm hiện hữu tự tính.

(Jeffrey Hopkins. Meditation on Emptiness. Wisdom 1996. p. 218-219)

Suchness

Suchness refers to “emptiness” because whether Buddhas appear or not the nature of of phenomena remain as such. A suchnessis also a ‘natural nirvana’ (prakrtiparinirvana) which does not  refer to an actual passage beyond sorrow, that is, an overcoming of the afflictions, but to an emptiness itself that naturally passed beyond inherent existence. The teaching that cyclic existence  and nirvana  are not different means that the phenomena of cyclic existence are the same entities as their natural nirvanas, or emptinesses, and not separate entities. It does not mean there is no difference  between being afflicted with the conception of inherent existence and not being so afflicted.

( Jeffrey Hopkins. Meditation on Emptiness. Wisdom 1996. p. 218-219)

*

Như tính, Bản tính Niết bàn  của các hữu tình do ngài Tịch Thiên (c. 685-763) giải thích, hoà hợp với các kinh điển Phật Giáo, tỉ dụ Duy ma cật sở thuyết do ngài Cưu ma la thập dịch (khoảng năm 400), và Phật thuyết Vô Cấu Xưng do ngài Huyền Trang (596-664) dịch năm 645.

*Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết (Hán dịch: Cưu ma la thập. Việt dịch: Tuệ Sỹ)

Như Phật đã nói: Này tỳ kheo, ngươi nay tức thời vừa sinh, vừa già, vừa diệt. Nếu bằng vô sinh mà được thọ ký, thì vô sinhchính vị. Mà trong chính vị thì không có thọ ký, thì cũng không có sự chứng đắc A nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Vậy làm sao Di lặc được thọ ký còn một lần tái sinh ? Ấy là bằng Như sinh [11] mà được thọ ký, hay bằng Như diệt mà được thọ ký? Nếu bằng Như sinh mà được thọ ký, thì Như vốn không sinh. Nếu bằng Như diệt mà được thọ ký thì Như vốn không diệt. Vì hết thảy chúng sinh đều là Như tính vậy. Hết thảy các pháp cũng là Như tính vậy. Các Hiền thánh cũng là Như tính vậy. Di lặc cũng là Như tính vậy. Như vậy nếu Di-lặc được thọ ký, thì hết thảy chúng sinh cũng đều được thọ ký. Vì sao? Vì Như vốn không hai, không khác [13].

Nếu Di-lặc chứng đắc giác ngộ tối thượng, thì hết thảy chúng sinh cũng chứng đắc giác ngộ tối thượng. Vì sao? Vì hết thảy chúng sinh là tướng của Bồ đề [14].

Nếu Di-lặc mà diệt độ, thì hết thảy chúng sinh cũng diệt độ[15]. Vì sao ? Chư Phật biết rõ hết thảy chúng sinh rốt ráo tịch diệt, tức là tướng bồ đề, không còn gì để diệt nữa [16].

[11] VKN Sanskrit, tathatotpadena…tathatanirodhena, được thọ ký bằng sự sinh khởi của Như tính, bằng sự tịch diệt của Như tính.

[13] VKN, na hi tathata dvayaprabhavita nanatvaprabhavita, thật vậy, Chân như không hiển hiện bởi nhị nguyên tính, không hiển hiện bởi đa thù tính.

[14] Bồ-đề tướng. Bản Huyền Trang: “Bồ-đề (bodhi) là điều được giác tri (anubuddha) một cách đồng đẳng bởi tất cả hữu tình”. [VKN, bản Sanskrit: sarvasattvanubodhohi bodhih, bồ đề là sự chứng giác của tất cả chúng sinh.

[15] Bản Huyền Trang: Bát-niết-bàn.

[16] Bản Huyền Trang: “Tính tịch tĩnh tự bản chất của hết thảy hữu tình tức là yếu tính của Niết-bàn, vì vậy Phật nói Chân như là Bát-niết-bàn. VKN: tathagatah…te sattvani pasyanti nirvanaprakrtikani, các Như Lai thấy mọi chúng sinh đều có bản tính tự nhiên là Niết-bàn.

*

PHẬT THUYẾT VÔ CẤU XƯNG KINH
Hán Dịch: Đại Đường, Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang - (dịch năm 645)
Việt dịch: Thích Nữ Tịnh Nguyên

 

“ Như đức Thế Tôn đã nói: “Này Tỳ kheo các ông! Sanh già chết trong mỗi sát na. Chết đó rồi sanh đó. Nếu vì vô sanh mà được thọ ký thì vô sanh tức là đã nhập vào chánh tánh. Khi vô sanh này đã nhập trong chánh tánh thì không có vấn đề thọ ký, cũng không chứng đắc Chánh Đẳng Bồ đề.

Vậy làm sao Từ Thị được thọ ký? Theo Như sanh được thọ ký hay theo Như diệt mà được thọ ký? Nếu theo Như sanh được thọ ký thì Như không có sanh. Nếu theo Như diệt được thọ ký thì Như không có diệt. Không sanh không diệt theo trong Lý Chơn Như thì không có vấn đề thọ ký.

Tất cả hữu tình đều Như, tất cả các pháp cũng đều Như, tất cả Hiền Thánh cũng đều là Như, cho đến Từ Thị cũng là Như. Nếu tôn giả Từ Thị được thọ ký thì tất cả hữu tình cũng sẽ được thọ ký như vậy. Vì sao? Vì Chơn Như chẳng phải sự hiển bày của hai, cũng chẳng phải sự hiển bày các tánh khác.

Nếu tôn giả Từ Thị chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề thì tất cả hữu tình cũng sẽ được chứng như vậy. Vì sao? Vì đối với Bồ đề thì tất cả hữu tình đều giác ngộ như nhau. Nếu tôn giả Từ Thị Bát Niết bàn thì tất cả hữu tình cũng sẽ Bát Niết bàn. Vì sao? Vì chẳng phải hữu tình thì không Bát Niết bàn. Đức Phật nói Chơn NhưBát Niết bàn, vì Ngài quán sát thấy bản tánh của các hữu tình đều tịch tịnh, đó là tướng Niết bàn. Thế nên nói Chơn NhưBát Niết bàn.

*

The Holy Teaching of Vimalakirti. Translated from Tibetan by Robert Thurman.  

Như Phật đã nói, ‘Các Tỳ kheo, trong một sát na, các ông sinh, các ông già, các ông chết, các ông chuyển cư, và các ông tái sinh’.  ‘Vậy thì sự thọ ký có thể do sự không sinh? Nhưng khi sự không sinh nhập vào tính tối hậu, trong tính tối hậu đó chẳng có sự thọ ký cũng chẳng có thành tựu chánh đẳng chánh giác’. ‘Thế nên, Di-lặc, như tính /pháp tính của ông do sinh? hoặc nó do diệt?  Như tính của ông như được thọ ký thì không sinh và không diệt, cũng chẳng sẽ sinh  cũng chẳng sẽ diệt. Hơn nữa, như tính của ông hoàn toàn giống như như tính của tất cả chúng sinh, như tính của tất cả các sự-sự vật-vật, và như tính của tất cả các hiền thánh.  Nếu sự giác ngộ của ông có thể được thọ ký theo cách thức như thế, thì sự thọ ký của tất cả các chúng sinh cũng có thể theo cách thức như thế. Tại sao? Bởi vì như tính không có tính nhị nguyên hoặc tính khác biệt.  Di-lặc, bất kỳ khi nào ông thành tựu Phật quả, đó là chánh đẳng chánh giác, thì đồng thời tất cả chúng sinh sẽ cũng  thành tựu giải thoát tối hậu. Tại sao?  Các Như Lai không nhập giải thoát tối hậu cho tới khi mà tất cả chúng sinh đều đã nhập giải thoát tối hậu.  Do, bởi vì tất cả chúng sinh được hoàn toàn giải thoát, các Như Lai thấy chúng sinhbản chất của giải thoát tối hậu”.

*

For the Buddha has declared, "Bhikshus, in a single moment, you are born, you age, you die, you transmigrate, and you are reborn." "Then might the prophecy concern birthlessness?  But birthlessness applies to the stage of destiny for the ultimate, in which there is neither prophecy nor attainment of perfect enlightenment". 'Therefore, Maitreya, is your reality from birth?  Or is it from cessation?  Your reality as prophesied is not born and does not cease, nor will it be born nor will it cease. Furthermore, your reality is just the same as the reality of all living beings, the reality of all things, and the reality of all the holy ones. If your enlightenment can be prophesied in such a way, so can that of all living beings. Why? Because reality does not consist of duality or of diversity. Maitreya, whenever you attain Buddhahood, which is the perfection of enlightenment, at the same time all living beings will also attain ultimate liberation. Why? The Tathagatas do not enter ultimate liberation until all living beings have entered ultimate liberation. For, since all living beings are utterly liberated, the Tathagatas see them as having the nature of ultimate liberation. "

*

Đại sư Tăng Triệu (374 - 414) (có sách ghi tịch lúc 31) trong Triệu luận, phần Tông Bản Nghĩa:

“Bổn vô, Thật tướng, Pháp tánh, Tánh không, Duyên hội, năm danh từ trên vốn chỉ có một nghĩa. Để vạch ra tông chỉ chánh phápcăn bản của bổn Luận, hai chữ Bổn Vô chỉ ngay tâm tịch diệt vốn không một pháp, lìa tất cả tướng, dứt bặt Thánh phàm, nên gọi là Bổn Vô, chẳng phải có ý làm thành vô [có nghĩa là chẳng phải từ hữu lần biến thành vô, vì Bổn Vô này nó vượt ngoài cái có và không tương đối. Thích Duy Lực]. Vì tất cả pháp đều do vọng tâm tùy duyên biến hiện mà có, tâm vốn vô sanh, chỉ do nhân duyên hội hợp mà sanh nên gọi là DUYÊN HỘI.
duyên sanh ra các pháp, vốn không có thật thể, do nhân duyên sanh ra nên nói không, nên gọi là TÁNH KHÔNG, vì pháp thểchơn như biến hiện nên gọi là PHÁP TÁNH. Do chơn như pháp tánh mà thành các pháp, chơn như không có tướng, nên bản thể các pháp tịch diệt, nên gọi là THẬT TƯỚNG.
Vì bổn vô là thể của tâm, duyên hội là dụng của tâm, thật tướng, pháp tánh, tánh không, đều là cái nghĩa do tâm tạo thành vạn pháp nên nói là một nghĩa vậy …
Tại sao vậy? Tất cả các pháp đều do nhân duyên hội hợp mà sanh, duyên hội mà sanh thì khi chưa sanh không có, duyên lìa thì diệt, nếu mà thật có, có thì chẳng diệt. Theo đó mà suy ra thì biết, dù nay hiện ra có, cái có ấy tánh thường tự không, vì tánh thường tự không, nên gọi là TÁNH KHÔNG, bởi vì tánh không nên gọi PHÁP TÁNH, pháp tánh chân thực như thế nên gọi là THẬT TƯỚNG, thật tướng vốn không có tự thể, chẳng phải do suy lường mà cho đó là không, nên gọi là Bổn Vô.”

(Chú thích: Bản Vô, từ ngữ dịch thời ngài Cưu Ma La Thập, về sau được dịch là Chân Như)

(Trích từ Triệu Luận Lược giải. Thích Duy Lực dịch, trong CHƯ KINH TẬP YẾU, trang 470 - 471)

*

Chư Phật thấy các hữu tìnhbản tính tự nhiên là niết bàn/ bản tính niết bàn, vượt ngoài sầu muộn, vượt ngoài tầm với của đau khổ, nên đều được giải thoát. Niềm vui này đã được giới thiệu qua Kinh Duy Ma Cật / Kinh Vô Cấu Xưng, và qua Con đường Bồ tát của Tịch Thiên.

Em chợt thấy yêu đời vô cùng tận
Vì đời là rất mực thiêng liêng
Em chợt thấy không buồn đau oán giận
Thiêng liêng không chia biệt cõi miền
(Bùi Giáng)  

Với bản tính tự nhiênniết bàn, chúng ta nên tỉnh biết, và nhớ lời ngài Vô Trước giảng trong Luận Du Già Sư Địa: Si, Ngu si, Vô minh, Vô trí, Vô kiến, Vô hiện quán, Hôn muội, Hắc ám … là đồng nghĩa.

Hãy sống với tính Bản Phật Phổ hiền của mình (The nature of the Primordial Buddha Samantabhadra; Phổ Hiền: All-around Goodness)

TỜ CŨ

Bây giờ tờ cũ đổi tên
Ấy là tờ mới mênh mông lạ lùng
Vô bờ vô bến vô chung
Kể từ vô thủy thung dung đi về
(Bùi Giáng)

Đặng Hữu Phúc

Sydney,  13.12.2015

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 7941)
Theo Đức Phật, tất cả những vật hiện hữu đều biến chuyển không ngừng. Sự biến chuyển này thì vô thuỷ vô chung. Nguồn gốc của vũ trụ không do một Đấng Sáng tạo (Creator God) tạo ra.
(Xem: 5791)
Đức Phật đản sanh vào năm 624 trước Công nguyên. Theo lý giải của Phật Giáo Nam Tông thì Đức Phật sanh ngày Rằm tháng Tư Âm lịch.
(Xem: 9203)
Nếu bạn say mê đọc kinh Phật, ưa thích những phân tích kỹ càng về giáo điển, muốn tìm hiểu các chuyện xảy ra thời Đức Phật đi giảng dạy nơi này và nơi kia, hiển nhiên đây là một tác giả bạn không thể bỏ qua
(Xem: 7223)
Tánh Không là một trong những khái niệm quan trọng và khó thấu triệt nhất trong giáo lý Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 7113)
Nguyên bản: Meditating while dying; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma; Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D. Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 6033)
Ba Mươi Hai Cách ứng hiện của Đức Quan Thế Âm Bồ Tát. Bởi vì Quan Thế Âm Bồ Tát đồng một Sức Từ với đức Phật Như Lai cho nên ngài ứng hiện ra 32 thân, vào các quốc độđộ thoát chúng sanh
(Xem: 5184)
Thể tánh của tâm là pháp giới thể tánh, bởi vì nếu không như vậy thì tâm không bao giờ có thể hiểu biết, chứng ngộ pháp giới thể tánh.
(Xem: 5701)
Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là một khái niệm thu hút nhiều sự quan tâm của học giới từ phương Tây cho đến phương Đông
(Xem: 5510)
Thuật ngữ pháp (dharma, có căn động tự là dhṛ có nghĩa là “duy trì, nắm giữ”; Pāli: dhamma; Tây Tạng: chos) mang nhiều ý nghĩa và ...
(Xem: 3882)
Trì danh là pháp tu Tịnh Độ phổ thông nhứt hiện nay. Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm, có Mười cách trì danh khác nhau
(Xem: 5564)
Phật dạy tất cả pháp hữu vi đều là vô thường sanh diệt không bền vững, như vậy thìthế gian cái gì có tạo tác có biến đổi đều là vô bền chắc.
(Xem: 3994)
Nguyên bản: Removing obstacles to a favorable death; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma; Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D. Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 7305)
Mối liên hệ giữa hình thức sớm nhất của Phật giáo và những truyền thống khác mà chúng đã phát triển về sau là một vấn đề luôn tái diễn trong lịch sử tư tưởngPhật giáo.
(Xem: 5623)
Nghiệp và Luân hồi là hai ý niệm đã có trong Ấn độ giáo, được giảng giải trong các Kinh Veda và Upanishad vào khoảng 1500 năm trước CN.
(Xem: 21645)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 5482)
Mục tiêu cao cả của đạo Phật là dạy con người tu tập để thoát khổ, giác ngộgiải thoát.
(Xem: 6871)
Phật giáo du nhập Nhật Bản vào thế kỷ thứ VI, sau đó trải qua thời kì Nara (710~785), thời kì Heian (794~1192) cho đến thời kì Kamakura (1192~1380), trước sau khoảng 700 năm, rồi phát sinh rất nhiều tông phái.
(Xem: 4906)
Tổ Quy Sơn dặn: “Nói ra lời nào phải liên hệ với kinh điển. Đàm luận gì, phải xét lại lời người xưa”.
(Xem: 6308)
Nhiều học giả phân vân là làm thế nào và tại sao những nhà Đại chúng bộ (Mahāsāṅghika) đã hình thành nên khái niệm về một Đức Phật siêu việt...
(Xem: 5654)
Hoa Sen Diệu Phápgiáo pháp được thuyết giảng trong Kinh Pháp Hoa. Quang Trạch giải thích Diệu Pháp là nhân của đạo Nhất Thừa, là quả của đạo Nhất Thừa.
(Xem: 4900)
Con người sống qui tụ lại thành một xã hội, và phát triển tập thể này rộng lớn dần dần thành một quốc gia.
(Xem: 6936)
Trước khi xác định Phật Giáo như là một hệ thống tư tưởng triết học (Buddhism as a philosophy) hay như là một tôn giáo (Buddhism as a religion), chúng ta sẽ tìm hiểu triết học là gì ? và Phật giáo là gì ?
(Xem: 5935)
Lục độ Ba-la-mật-đa/ Sáu phương pháp tu Ba-la-mật-đa (Six Paramitas) là 6 pháp tu để giải trừ các khổ ách của Đại thừa Phật giáo.
(Xem: 5430)
Theo quan điểm của Đại hoàn thiện thì ánh sáng trong suốt hiển hiện một cách tự nhiên và được gọi là "hoàn-toàn-tốt"
(Xem: 5764)
Đức Phật ra đời vào năm 624 trước tây lịch tại nước Ấn Độ. Ngài thuyết pháp 49 năm. Phật giáo đã trở thành quốc giáo, vì các vua, các quan và dân chúng đa phần đều theo đạo Phật.
(Xem: 5912)
Y Kinh Kinh Cang Bát Nhã Ba La Mật: Đức Thế Tôn Như Lai hỏi ngài Tu Bồ Đề: Như Lainhục nhãn không? Ngài Tu Bồ Đề thưa:
(Xem: 6636)
Cuốn sách “Luân Hồi trong Lăng Kính Lăng Nghiêm” được ra mắt cách đây 9 năm (2008), in lần thứ hai, ba và tư vào năm 2012, 2014 & 2016 tại Nhà xuất bản Phương Đông, và năm nay (2018) cũng tại NXB Hồng Đức
(Xem: 6339)
điều chắc chắn là làm người, ai cũng có ý thức về tội lỗi. Điều này là không đúng, điều này là không tốt, điều này là không đẹp.
(Xem: 5973)
Tựa đề của khảo luận này phát xuất từ tồn nghi của một pháp hữu trong khi dịch lại bản kinh Tập (Sutta Nipāta) ở văn hệ Nikāya.
(Xem: 6355)
Khái niệm ‘nghiệp’, thật ra, đã có mặt trong văn học Bà-la-môn giáo từ rất lâu trước khi Đức Phật xuất hiện ở đời.
(Xem: 5993)
Vũ trụ, con người hình thành như thế nào và tương lai sẽ ra sao? Câu hỏi chưa bao giờ được xếp lại. Khoa học lượng tử luôn tiên phong...
(Xem: 6240)
rong lịch sử tư tưởng Ấn-độ, thuyết Trung đạo đã mang lại cho tư tưởng giới đương thời một không khí hoạt bát[1].
(Xem: 5483)
Bản chất của ánh sáng trong suốt, mang tính cách nền tảng và rạng ngời, là cội nguồn tối hậu của tất cả mọi cấp bậc tri thức...
(Xem: 6767)
Chánh Pháp là gì? Phật Pháp được chia thành ba thời kỳthời Chánh Pháp, thời Tượng Pháp, và thời Mạt Pháp.
(Xem: 4479)
Ông trị vì từ năm 269 TCN đến năm 232 TCN thuộc đời thứ 3 của triều đại Maurya. Đế chế của ông rộng lớn gần như tất cả tiểu lục địa Ấn Độ trãi dài từ Đông sang Tây.
(Xem: 7628)
Trong Kinh Kim Cang, Phật dạy có 4 tướng: “Ngã – Nhân – Chúng Sanh – Thọ Giả”. Khi còn phàm phu, chấp thân này là thật là bền vững,
(Xem: 5925)
Đạo Phật đang phát triển rộng rãi đến nhiều tầng lớp. Rất nhiều các bậc tri thức, các nhà khoa học chân chính, đến cả những người ...
(Xem: 7182)
Kiếp sống của mỗi con người sinh ra ở thế giới Ta Bà này, dù thọ mạngdài hay ngắn, nhìn chung có thể phân chia làm nhiều giai đoạn.
(Xem: 7590)
Kể từ thời điểm Phật giáo khai sinh và nở hoa khắp mọi miềnthế giới, hễ mỗi khi nói đến hình ảnh một vị Phật xuất hiện trong tương lai,
(Xem: 5394)
Phép luyện tập thiền định được hỗ trợ bởi sự thực thi các hành động vị tha, các hành động đó đồng thời cũng được thúc đẩy bởi tình thương yêu và lòng từ bi.
(Xem: 5034)
Nếu đủ sức duy trì một cách đúng đắn sự nhận biết tâm thức thần bí nhất thì kết quả mang lại từ phép luyện tập đó sẽ trợ lực các bạn rất nhiều
(Xem: 5544)
Thời-không vũ trụ chứa hàng triệu, tỉ, hàng ức cho đến không máy móc nào đếm hằng hà sa số hành tinh như trái đất mới biết con ngườimột sinh thể gần như bằng không.
(Xem: 5393)
Trong các bài kinh thuộc hệ A Hàm hay kinh Đại Bát Niết Bàn v.v… Phật có nói đến địa ngục. Đề Bà Đạt Đa, Tì kheo Thiện Tinh, vua Lưu Ly v.v… đều đọa vào địa ngục ngay khi chết.
(Xem: 5426)
Xét về niên đại, bản kinh có mặt ở thời Hậu Hán (23-220), xuất hiện trong Cao Tăng Truyện quahành trạng của ngài Nhiếp-ma-đằng (攝摩騰)[2].
(Xem: 4905)
Thể dạng lắng sâu thường xuyên bên trong tâm thức thần bí nhất chỉ có thể thực hiện được với những người có một khả năng thật bén nhạy.
(Xem: 4177)
Bài viết này sẽ khảo sát một số thắc mắc thường gặp về Thiền Tông, hy vọng sẽ tiện dụng cho một số độc giả còn nhiều nghi vấn.
(Xem: 5928)
Thức Thứ Tám hay A Lại Ya là thức chủ trong 8 thức. Thức nầy có nhiều cách gọi khác nhau để chỉ về nhiệm vụ của mình. Tựu chung thức nầy có 3 việc chính là: Năng tàng, Sở tàng và Ngã ái chấp tàng.
(Xem: 5537)
Khi còn vướng mắc trong sự tạo tác triền miên của khái niệm, chẳng hạn như suy nghĩ về cái đúng, cái sai, v.v. , thì các bạn sẽ không thể nào bước vào con đường tu tập về
(Xem: 6175)
Học phái dịch thuật xưa của Phật giáo Tây Tạng đưa ra nhiều cách luyện tập dựa vào các phương pháp khác biệt nhau, gọi là các "cỗ xe"/thừa.
(Xem: 8434)
Thần tài trong Phật giáo, cụ thểPhật giáo Bắc truyền đã vay mượn giữa hình ảnh Bố Đại hòa thượng và các truyền thuyết về thần tài Trung Hoa, để tổng hòa nên một vị thần tài có nguồn gốc ngoài Phật giáo.
(Xem: 5151)
Thời Đức Phật tại thế, Ấn Độít nhất mười sáu tiểu vương quốc, mỗi vương quốc đều có ngôn ngữ hay phương ngữ riêng, nhưng có lẽ người dân của mỗi nước đều có thể giao tiếp và hiểu nhau được.
(Xem: 5686)
Trong các kinh sách thừa hưởng từ [Phật giáo] Ấn Độ thì nguyên tắc căn bản đó lúc thì được gọi là "tâm thức tự tại
(Xem: 7294)
Kinh Hoa Nghiêm tiếng Sanskrit là Avatamsaka, tiếng Nhật là Kégon Kyo. Kinh nầy bằng tiếng Sanskrit do Bồ Tát Long Tho (Nagarjuna) soạn vào khoảng thế kỷ thứ 2 Tây Lịch.
(Xem: 6194)
Con người muốn có cuộc sống an lạchạnh phúc, cần phải tu nhơn tạo phước, chứ không phải chỉ cầu nguyện...
(Xem: 5831)
Phát huy sự chú tâm đúng đắn hướng vào một điểm nhằm mục đích gì? Việc luyện tập đó không nhất thiết là chỉ để giúp tâm thức đạt được một mức độ tập trung thật cao...
(Xem: 4656)
Đức Đạt Lai Lạt Ma Nói Về Phật Giáo Ứng Dụng - Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 5566)
A Dục, Asoka (Sanskrit). Khi đức Phật Thích ra đời, Vua A Dục là một đứa trẻ, trong lúc đang chơi đức Phật đi ngang qua, đứa trẻ đem cát mà coi như cơm cúng dường đức Phật...
(Xem: 5726)
Hàng ngày các Phật tử có thể “Xưng danh hiệu” hay “Niệm danh hiệu” của chư Phật, tức là đọc tên của chư Phật và tưởng nhớ đến các ngài.
(Xem: 5998)
Trong Phật giáo, giải thoát hay thoát khỏi luân hồi là một đề tài vô cùng lớn lao. Ngay cả những người Phật tử đã học qua giáo lý, cũng mường tượng sự giải thoát như ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant