Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Năm Pháp Trong Kinh Lăng-Già

19 Tháng Mười Hai 201516:29(Xem: 8861)
Năm Pháp Trong Kinh Lăng-Già
NĂM PHÁP TRONG KINH LĂNG-GIÀ
[Tư tưởng đặc biệt quan trọng trong giáo lý Đại thừa]

(Phước Nguyên trích dịch và chú
từ Kinh Saddharmalaṅkāvatārasūtram)

Kinh Lang Gia

*Trích nguyên một đoạn từ chương 6, Kinh Thánh Pháp Nhập Lăng-già:

"पुनरपरं महामते पञ्चधर्माः-निमित्तं नाम विकल्पस्तथता सम्यग्ज्ञानं च। तत्र महामते निमित्तं यत्संस्थानाकृतिविशेषाकाररूपादिलक्षणं दृश्यते तन्निमित्तम्। यत्तस्मिन्निमित्ते घटादिसंज्ञाकृतकम्-एवमिदं नान्यथेति, तन्नाम। येन तन्नाम समुदीरयति निमित्ताभिव्यञ्जकं समधर्मेति वा, स महामते चित्तचैत्तसंशब्दितो विकल्पः। यन्नामनिमित्तयोरत्यन्तानुपलब्धिता बुद्धिप्रलयादन्योन्याननुभूतापरिकल्पितत्वादेषां धर्माणां सा तथतेति। तत्त्वं भूतं निश्चतो निष्ठा प्रकृतिः स्वभावोऽनुपलब्धिस्तत्तथालक्षणम्। मया अन्यैश्च तथागतैरनुगम्य यथावद्देशितं प्रज्ञप्तं विवृतमुत्तानीकृतम्, यत्रानुगम्य सम्यगवबोधानुच्छेदाशाश्वततो विकल्पस्याप्रवृत्तिः स्वप्रत्यात्मार्यज्ञानानुकूलं तीर्थकरपक्षपरपक्षश्रावकप्रत्येकबुद्धागतिलक्षणं तत्सम्यग्ज्ञानम्। एते च महामते पञ्च धर्माः। एतेष्वेव त्रयः स्वभावाः, अष्टौ च विज्ञानानि, द्वे च नैरात्म्ये, सर्वबुद्धधर्माश्चान्तर्गताः। अत्र ते महामते स्वमतिकौशलं करणीयम्, अन्यैश्च कारयितव्यम्। न परप्रणेयेन भवितव्यम्॥

तत्रेदमुच्यते -

पञ्च धर्माः स्वभावश्च विज्ञानान्यष्ट एव च।

द्वे नैरात्म्ये भवेत्कृत्स्नो महायानपरिग्रहः॥ ५॥

नामनिमित्तसंकल्पाः स्वभावद्वयलक्षणम्।

सम्यग्ज्ञानं तथात्वं च परिनिष्पन्नलक्षणम्॥ ६॥"


[ सद्धर्मलङ्कावतारसूत्रम् Saddharmalaṅkāvatārasūtram , ६ क्षणिकपरिवर्तो नाम षष्ठः 6 kṣaṇikaparivarto nāma ṣaṣṭhaḥ | , Vaidya, The Mithila Institute of Post-Graduate Studies and Research in Sanskrit Learning, Darbhanga, 1963]

*Phần dịch theo nguyên văn Sanskrit:

Lại nữa, này Mahāmati (Đại Huệ)! Có năm pháp (pañcadharmāḥ):  Đó là, tín hiệu (nimittaṃ)[1], từ mô tả (nāma), cấu trúc mang tính ngôn ngữ (vikalpaḥ)[2], như như (tathatā) và chánh trí (samyagjñānaṃ).

Này Mahāmati! Trong đó tín hiệu, nghĩa là, những gì mà có các đặc điểm như: hình thể, khuôn khổ, tính đặc thù, màu sắc, dấu hiệu v.v…  Những cái đó gọi là tín hiệu[3].

Từ nơi các tín hiệu này, mà các ấn tượng được sinh khởi, ví như một cái lọ v.v... Y theo đó, người ta có thể diễn đạt: “Đây là cái này, cái kia, mà không phải là cái khác”. Cái đó gọi là “từ mô tả”[4].

Này Mahāmati!  Khi “từ mô tả” được phát biểu rõ ràng như thế, và tín hiệu được xác định cụ thể, thì liền có “cấu trúc mang tính ngôn ngữ”, phát biểu rằng: “Đây là Tâm”, “Đây là những gì thuộc về Tâm”[5]. Từ đó, một “từ mô tả” được phát ra tương ưng[6] với một hình thái, hay một đối tượng nào đó, có bản thể được nhận biết giống như thế.  Cái đó, gọi là “cấu trúc cấu trúc mang tính ngôn ngữ”[7].

Các từ mô tả ấy và các tín hiệu ấy, tận cùng là “bất khả đắc”, như là các thực thể tính[8], khi “kiến lập trí”[9] bị đập vỡ, và trong chiều kích hỗ tương tồn tại của tất cả mọi thứ, được xác định là không còn bị nhận thứcấn tượng. Đó gọi là “như như” của các pháp[10].

“Như như” này, có thể được mô tả đặc tính như là “chân đế”, là “hữu thể”, là “biết trực tiếp”, là “tận cùng”, là “căn nguyên”, và là “tự tính”.

Điều này đã được tự thân Ta (Phật) và các đức Như Lai khác thể nghiệm, thi thiết đúng như thực, xác chứng, công khai tuyên bố, và diễn thuyết rộng rãi.

Hoặc có ai, chứng nghiệm điều này, hiểu được [sự thật] một cách chính xác toàn diện, không phải là thường tồn, cũng không phải đoạn diệt, thì lập tức “cấu trúc cấu trúc mang tính ngôn ngữ” bị chấm dứt, liền phát sinh trạng thái tùy thuận với phương tiện của Thánh Trí ngay trong nội tâm, đây là một trạng thái, mà đó không phải là kết quả đạt được do quá trình tranh luận của các triết gia, cũng không phải là sở đắc của các hạng Thanh vănBích Chi Phật. Đó gọi là Chánh trí[11].

Này Mahāmati!  Đây là năm Pháp, ba tự tính, tám thức, hai vô ngã; và hết thảy chân đế của Phật đều được thâu nhiếp ở vào trong đó.

Này Mahāmati! Trong điều này, Ông hãy tự mình, bằng Trí Tuệ mà khảo nghiệm kỹ lưỡng, và khiến cho những người khác cùng thực hành giống như thế, đừng để bản thân bị điều khiển dẫn dắt bởi người khác.

Do đó,  [Như Lai] tuyên thuyết rằng:

“Năm pháp, cùng tự tính,
Tám thức, hai vô ngã.
Hết thảy nó đều thâu nhiếp Đại thừa. //5//
“Từ mô tả” và “tín hiệu”,
Cùng với "cấu trúc mang tính ngôn ngữ”,
Đây là hai hình thái đầu của Tự tính.
Chánh trínhư như,
Đây là hình thái của viên thành thật[12]. //6//"

 

PN. dịch và chú.

*Phần chú thích:

[1]
 Skt. nimitta, hình tướng, dấu hiệu hay tín hiệu. Cf. Sphut., tr. 48: nimittaṃ vastuno’ vasthāviśeṣo, «tín hiệu,  là phần vị sai biệt của những  vật thể.», Phổ thông Hán dịch là: tướng 相; hoặc tượng 像. Phân biệt với tướng skt, lakṣaṇa là yếu tính, trạng thái hay đặc điểm, và tướng, từ skt.nimitta là dấu hiệu hay tín hiệu.

[2] Dịch theo chữ  Anh: “verbal construction” của T. Lê Mạnh Thát, dùng để dịch chữ vikalpa trong The Philosophy of Vasubandhu, 2003, tr. 284.

[3] Cf. Hiển dương 6 (tr.  507a17tt.): tướng (nimitta/tín hiệu), nếu  nói ngắn gọn,  là  y xứ của hết thảy mọi ngôn thuyết (abhilāpa)

[4] Ibid., Danh (nāma), là từ  mô tả , y cứ nơi các tướng. Nguyên trong Hiển Dương dùng chữ Hán: tăng ngữ, Skt. Adhivacana: từ mô tả, từ phác họa.

[5] Cf. Văn dịch của Suzuki trong The Laṅkāvatāra Sūtra, chương 6, mục LXXXIV:  “saying this is mind and this is what belongs to it”. Cùng tác  giả nhưng  trong  Studies in the Lankavatara Sutra, p.58, New Delhi, 1998, dịch có khác: “This is it”, ''This is no other”: Đây chính là nó, đây không phải là cái gì khác.

[6] Skt. Āpta, nghĩa đen là cái bị vươn tới, bị bắt kịp, Hán dịch: Tương ưng 相應. Kosa.i: Āpta aviyuktaḥ, hệ nghĩa là hệ thuộc. Câu-xá bản Chân Đế (T29n1559, tr.0167b29): 相應是有義。不相離義  tương ưng nghĩa là có, nghĩa là không tách rời nhau.

[7] Cf. Hiển dương 6 (tr.  507a17tt.): Phân  biệt (vikalpa= cấu trúc + mang tính ngôn ngữ/mang tính khái niệm), là  tâm  và  tâm sở hệ  thuộc  ba  giới.

[8] Cf. Nhiếp  luận  (Vô  Tính)  6  tr. 351b9,  b14:  Trước  hết,  suy  cầu về  danh, về  nghĩa, về tự tính, về  sai  biệt,

rằng  đó  chỉ  là  khái  niệm  giả  thác (prajñapti);  sau  đó,  biệt một  cách  như  thật rằng sự  chân  thật  như thế

không  thể nắm bắt.  Trong  khi  suy cầu, gọi  là  tầm tư.  Khi  biết  như  thật  là bất  khả  đắc, lúc ấy gọi  là bốn

như thật trí. Tức là sơ vị (bước đầu) gọi là tầm tư, hậu vị (kết quả) gọi như thật trí.

[9] Theo Suzuki, Studies., ibdid.p.165,p. 421, nói rằng từ skt. buddhi trong câu này chính là Pratishthapikabuddhi hay vikalpa-lakshana- grahabhinivesa –pratishthapikabuddhi,  tức kiến lập trí, và giải thích là: cái trí mà y theo đó một mệnh đề được thiết lập ( the intelligence where by a proposition is setup).

[10] Cf. Hiển dương 6 (tr.  507a17tt.): Chân như (tathatā/ như như), là sở hành của Thánh  trí (āryajñānagocara) được biểu thị bởi pháp  vô  ngã,  chẳng phải  là y xứ của hết thảy ngôn  thuyết.

[11] Ibid., Chính trí (samyagjñāna),  vắn tắt có hai: thế gianxuất thế gian.

[12] Skt. pariniṣpanna, Hán dịch là viên thành thật, triển chuyển, Cf. Nhiếp  luận bản,  tr.  138a15:  “viên  thành  thật,  đó  là sự  tuyết  đối  vô thể (không tồn tại/vô hữu tính) của  đối tượng, giống như  là  ảnh tượng tương tợ nơi y tha khởi.  Nhiếp luận 2,  tr. 139b16:  “viên thành thật, nghĩa là  ở nơi  y  tha  mà  không  hiện  khởi ảnh tượng dối trá. Do đó, khi y tha bị biến kế, thì gián tiếp viên thành thật cũng bị biến kế.” Madhyānta,  k.i.  6,  Thế  Thân: grāhyagrāhakābhāvaḥ pariniṣpannaḥ svabhāvaḥ, cái mà nơi đó không tồn tại đối tượng nắm bắt (sở thủ) và chủ thể nắm bắt(năng  thủ),  đó  là tự  tính  viên  thành  thật.  Tham chiếu Sthiramatinirvikārapariniśpattyā’  viparītapariniśpattyā  ca pariniṣpannatvāt  parinṣpanna  ucyate,  vì bởi  tính  hoàn  chỉnh, với sự  hoàn  chỉnh  không  biến thể,  và sự hoàn chỉnh không lộn ngược, nó được gọi là cái hoàn chỉnh, tức viên thành thật. 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 3711)
Những gợi ý dưới đây có thể giúp chúng ta lĩnh hội được ý nghĩa thâm sâu, khó hiểu của kinh một cách hiệu quả, đồng thời giữ gìn sự trung thực với nội dung của ý kinh.
(Xem: 4038)
Giải thoát nghĩa là cởi mở những dây ràng buộc mình vào một hoàn cảnh đau khổ nghịch ý.
(Xem: 3574)
Trong hệ thống kinh tạng Đại thừa, Pháp Hoa là một trong những bộ kinh quan trọng và phổ biến nhất.
(Xem: 4931)
Niết-bàn (Nirvana, Nibbana) là khái niệm của Phật giáo, một tôn giáo không công nhận và không thừa nhậnThượng Đế, có thần, có linh hồn trường cửu.
(Xem: 6518)
Bài này sẽ khảo sát một số khái niệm về các hiện tướng của tâm, dựa theo lời dạy của Đức Phật và chư Tổ sư
(Xem: 3897)
Tôi ngồi đây lắng nghe quý thầy cô tụng bài kinh Bát Nhã thật hay. Ví như ngài Huyền Trang ngày xưa tuyển dịch nhiều bài Tâm kinh như thế này để ...
(Xem: 4001)
Như Lai ngài đã du hành Đạo lộ tối thắng vượt trên các ca tụng Nhưng với tâm tôn kínhhoan hỷ Tôi sẽ ca tụng Đấng vượt trên ca tụng.
(Xem: 5226)
Quy nghĩa là “quay về, trở về” hay “hồi chuyển (tâm ý)”. Y là “nương tựa”. Quy Y cũng có nghĩa là “Kính vâng” hay “Phục tùng”. Tam là chỉ ba ngôi Phật, Pháp, Tăng.
(Xem: 3691)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả
(Xem: 4409)
Từ xưa đến nay, hàng xuất gia (Sa-môn, Bà-la-môn) tu hành không trực tiếp lao động sản xuất để tạo ra của cải vật chất nên đời sống phụ thuộc vào sự bố thí, cung cấp, cúng dường của hàng tín đồ tại gia.
(Xem: 3450)
Sống chếtvấn đề lớn nhất của đời người. Trong đạo Phật, chữ sanh tử (sống chết) là một từ được nhắc đến thuộc loại nhiều nhất
(Xem: 3830)
Kinh Kim Cang Bát Nhã được ngài Cưu Ma La Thập (344-413) dịch từ tiếng Phạn sang Hán văn, và được thái tử Chiêu Minh (499-529) chia bố cục ra 32 chương.
(Xem: 4290)
Đức Phật xuất hiện trên thế gian như mặt trời phá tan màn đêm u tối. Giáo pháp của Ngài đã mang lại những giá trị phổ quát cho...
(Xem: 5291)
Khái niệm Niết-Bàn không phải là sản phẩm bắt nguồn từ Phật Giáo, mà nó đã xuất hiện từ thời cổ đại Ấn Độ khoảng hơn 4,000 năm trước Tây Lịch.
(Xem: 3750)
Quán Thế Âm tiếng Sanskrit là Avalokitésvara. Thuật ngữ Avalokitésvara vốn bắt nguồn từ hai chữ Avalokita và isvara
(Xem: 3832)
Trong khi thế giới đang có nhiều biến động phức tạp, chiến tranh, khủng bố, thù hận diễn ra khắp nơi, mâu thuẩn chính trị, kinh tế, và văn hóa luôn là vấn đề nan giải.
(Xem: 3778)
Trong cõi đời, chúng ta phải chịu đựng những sự đau đớn, khổ não nơi thân và tâm, nhưng tâm bệnh có thể được chữa khỏi bằng Phật pháp.
(Xem: 4701)
Thiên Trúc (天竺) là tên mà người Trung Quốc thường gọi cho Ấn Độ cổ đại. Nó cũng được dịch “Trung tâm của cõi trời”, (nghĩa là trung tâm tinh thần);
(Xem: 4436)
Thông thường hai chữ tu hành đi đôi với nhau; sử dụng quá quen nên hiểu một cách chung chung, đã giảm tầm mức quan trọng mà tự thân nó mang một ý nghĩa sâu sắc.
(Xem: 4162)
Đã hơn 2500 năm kể từ khi Đức Phật Thích Ca đã nhập Niết Bàn. Hiện tại chúng ta sống trong thời đại gọi là “Mạt Pháp”, trong đó ta không thể nào thấy Đức Phật thực sự được nữa.
(Xem: 3739)
Pháp thân của chư Phật, là muốn nhấn mạnh đến loại pháp thân không còn ẩn tàng trong thân ngũ uẩn như pháp thân của chúng sinh.
(Xem: 4494)
Giáo lý Tam thân (trikāya), như đã được tất cả các tông phái Phật giáo Đại thừaTrung QuốcNhật Bản chấp nhận hiện nay
(Xem: 4084)
Ngày xưa chúng đệ tử của Đức Phật có nhiều hạng người khác nhau. Tùy theo căn cơ của mỗi người, Đức Phật áp dụng phương pháp giáo hóa khác nhau.
(Xem: 5967)
Ngày nay, chúng ta thấy hầu hết các ảnh, tượng của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đều được tạo hình có tóc, điều này khiến
(Xem: 4504)
“Chiếc đồng hồ của tôi không đánh số 1 đến 12 mà chỉ có ‘now’, ‘now’, ‘now’ để nhắc nhở rằng ta đang sống”,
(Xem: 4857)
Trong tác phẩm Jataka, truyện số 238 đã đề cập về chuyện một chữ (ekapadaṃ) nhưng có nhiều nghĩa (anekatthapadassitaṃ).
(Xem: 4083)
Về tiểu sửcông nghiệp của Huyền Trang (602-664) chúng ta đã có phần viết riêng trong phần phụ lục của sách Kinh Phật
(Xem: 4735)
Đã sanh làm kiếp con người, có ai mà không khổ? Cái khổ nó theo mình từ nhỏ đến khi khôn lớn, và sẽ khổ hoài cho tới...
(Xem: 5578)
Khi Bồ-tát Long Thọ nói “bất sanh bất diệt” thì hẳn nhiên trước đó phải có cái gì đó có sanh và diệt.
(Xem: 3541)
Trong nghĩa đơn giản nhất, tu Hạnh Bồ Tát là những người ra sức hoằng pháp và không muốn Chánh pháp bị đoạn đứt, bất kể người này có thọ giới Bồ Tát hay không.
(Xem: 3961)
Bài viết này sẽ khảo sát về Vô Tướng Tam Muội, một pháp môn ít được chú ý hiện nay.
(Xem: 4507)
Cứ mỗi lần chúng ta chứng kiến người thân qua đời là mỗi lần chúng ta đau xót, buồn rầu, vì từ nay chúng ta vĩnh viễn sẽ không bao giờ được nhìn thấy người thân yêu đó trên cõi đời này nữa.
(Xem: 5183)
Như các phần trước đã nói, chân tâm không sinh diệt và vọng tâm sinh diệt luôn tồn tại nơi mỗi con người chúng ta.
(Xem: 3064)
Thiền học là một môn học nhằm mục đích đào luyện trí tuệ để được giác ngộgiải thoát sanh tử mong đạt đến niết bàn tịch tịnh
(Xem: 4659)
Khi đức Phật đản sinh, trên trời có chín rồng phun hai dòng nước ấm mát tắm rửa cho Ngài
(Xem: 4448)
Mỗi độ tháng Tư về, trong tâm thức của những người con Phật đều hiển hiện hình ảnh huy hoàng Phật đản sinh bước đi trên bảy đóa sen
(Xem: 4202)
Phật giáo Đại thừa có cách nhìn nhận mới về đức Phật và lời dạy của ngài.
(Xem: 4659)
Đức Phật Thích Ca là một đức Phật lịch sử xuất hiện giữa thế gian để dẫn dắt chúng sinh thoát khỏi khổ đau, đạt đến an lạc giải thoát.
(Xem: 4402)
Con người được sanh ra từ đâu là một nghi vấn vô cùng nan giải cho tất cả mọi giới và mãi cho đến thế kỷ 21 này vấn đề con người vẫn còn phức tạp chưa được ai minh chứng cụ thể.
(Xem: 4502)
Kinh Pháp Cú dành riêng hẳn một phẩm gọi là “Phẩm Tỳ kheo” để đề cập tới các người xuất gia.
(Xem: 7098)
Cuộc sống biến đổi không ngừng, mỗi một thời gian, mỗi một thế hệ có cách sống và nghĩ suy ứng xử có khác nhau.
(Xem: 5110)
Trước hết, thời gian vật lý là khách quan và tồn tại bên ngoài tâm trí con người và là một phần của thế giới tự nhiên, thứ hai, thời gian tâm lý chủ quan và có sự tồn tại phụ thuộc vào ý thức.
(Xem: 4909)
Hôm nay nhân ngày đầu năm, tôi có vài điều nhắc nhở tất cả Tăng Ni, Phật tử nghe hiểu ráng ứng dụng tu để xứng đáng với sở nguyện của mình.
(Xem: 4493)
Huyễn: Có nhiều nghĩa như tạm bợ, hư dối, phù du, huyễn hoặc, ảo ảnh, thay đổi luôn luôn, có đó rồi mất đó, biến dịch hoài trong từng sát-na.
(Xem: 5522)
Ngạ quỷ nghe kinh là một trong những đề tài khá quen thuộc trong kinh Phật. Người phàm thì không ai thấy loài ngạ quỷ, trừ một vài trường hợp đặc biệt.
(Xem: 5177)
Từ thế kỷ trước, người ta đã tìm được rải rác các thủ cảo (manuscripts) kinh Phật cổ xưa nhất viết bằng văn tự Kharosthi chôn ở các di tích Phật giáo ở Gandhāra, Bắc Afghanistan.
(Xem: 4065)
Thư Viện Quốc Hội Mỹ đã công bố một văn bản quí hiếm từ 2.000 năm trước của Phật Giáo và văn bản cổ này đã giúp cho chúng ta ...
(Xem: 5887)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 4596)
Trước hết xin giới thiệu sơ lược những nét chính của hai bộ kinh Đại thừa lớn ở Ấn Độ mà chúng đã trở nên đặc biệt quan trọng trong Phật Giáo Đông Á.
(Xem: 4787)
Từ khi Đức Như Lai Thế Tôn thị hiện cho đến hiện tại là 2019, theo dòng thời gian tính đếm của thế nhân thì cũng đã gần 2600 năm.
(Xem: 5373)
Tôn giả Tịch Thiên (Shantideva) là con của vua Surastra, sinh vào khoảng thế kỷ thứ VII ở Sri Nagara thuộc miền Nam nước Ấn.
(Xem: 5482)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 5693)
Này các Tỳ-kheo, ta cho phép học tập lời dạy của Đức Phật bằng tiếng địa phương của chính bản thân (sakāya niruttiyā)
(Xem: 4906)
Phật giáo có hai hệ là Theravada và Phát-Triển. Hệ Theravada quan niệm quả vị cao nhất mà hành giảthể đạt được là quả vị A-La-Hán.
(Xem: 4265)
Định học là một chi phần quan trọng trong Tam vô lậu học giới, định, tuệ .
(Xem: 4578)
Trí tuệ là sự thấu hiểu, là kiến thức liên quan đến tư tưởng đạo đức giúp ta đi sâu vào đặc điểm và biểu hiện của các đạ o lộ thông qua sự nỗ lực tinh tấn.
(Xem: 4617)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau, nhưng...
(Xem: 5767)
Có một chuyện rất khoa học, tôi không bắt quý vị phải nhắm mắt tin Phật nhưng tôi cho quý vị một gợi ý.
(Xem: 3242)
Đối với một người đã giác ngộ, sẽ không còn thấy nữ tính và nam tính nữa. Với một số vị thường quán bạch cốt, sẽ thấy thân mình và người chỉ là một nhóm xương khô đang đi đứng nằm ngồi.
(Xem: 5171)
Long Thọ hay Long Thụ (Nāgārjuna) không phải chỉ là tổ của tông Trung Quán (Madhyamika),[1] trong lịch sử phát triển Phật giáo ngài được coi là vị Phật thứ hai sau Đức Thế Tôn
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant