Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tâm Giác Ngộ

21 Tháng Mười Hai 201513:44(Xem: 8785)
Tâm Giác Ngộ

TÂM GIÁC NGỘ

Nguyên tác: Bodhicitta
Tác giả: Geshe Rabten Rinpoche
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển

 
Tâm Giác Ngộ


Con Đường Tiệm Tiến Đến Giải Thoát


Thừa hay xe không phải là người chuyên chở hay những gì được chuyên chở - nó là sự chuyên chở . Vì vậy Tiểu Thừa có nghĩa là "sự chuyên chở vật nặng nhỏ hơn", và Đại Thừa, "sự chuyên chở vật nặng lớn hơn."

Hành giả Tiểu Thừa là những người thấy sự luân hồi là không thể chịu nổi và muốn thoát khỏi nó để thể nhập niết bàn. Họ giúp đở người khác một cách lớn lao bằng việc viễn ly thế giancố gắng để đạt được tự do, nhưng tư tưởng chính của họ là sự giải thoát cá nhân khỏi sanh tử luân hồi. Một vị a la hán - là vị đã hoàn tất con đường giải thoát cá nhân này - có nhiều năng lực tâm linh, và có thể giảng dạy giáo huấn tâm linh và cũng hổ trợ nhiều người, nhưng phải loại trừ sở tri chướng, những chướng ngại ngăn trở toàn giác. Việc thành tựu niết bàn sẽ chứng tỏ là không đủ và vị la hán sau đó phải thâm nhập Bồ tát đạotiến hóa qua mười địa Bồ tát đến cuối cùng, là hoàn thành Quả Phật.

Những người thực hành Đại Thừa cũng muốn xa rời sanh tử luân hồi và muốn thoát khỏi nó. Nhưng bởi vì họ đồng nhất hóa với tất cả những chúng sanh khác trong cõi luân hồi, nên những hành giả Đại Thừa không muốn chỉ sự giải thoát cá nhân đơn thuần. Qua việc quan tâm to lớn của họ cho những người khác, nguyện ước động cơ toàn triệt của hành giả Đại Thừamang đến hạnh phúc hoàn toàn cho tất cả chúng sanh. Họ thấu hiểu rằng tất cả chúng sanh trong cõi luân hồi - côn trùng, chư thiên và tất cả những chủng loại còn lại - là bình đẳng trong việc cùng muốn hạnh phúc và không muốn khổ đau. Họ cũng nhận thức rằng không ai trong những chúng sanh này có sự hài lòng với hạnh phúc hoàn toàn. Vì lý do này, họ phát triển một đại nguyện đưa tất cả chúng sanh ra khỏi khổ đau. Nguyện ước này, cũng là  một loại tâm sở, được gọi là đại bi, "bậc đại bi". Hành giả Đại Thừa nhận ra rằng tất cả chúng sanh trong cõi luân hồi, mặc dù họ có thể có hạnh phúc nhất thời, nhưng không có hạnh phúc chân thật miên viễn.

Nguyện ước tiếp theo, là đem cho tất cả chúng sanh hạnh phúc cứu kính tối hậu của Quả Phật được gọi là đại từ, "đại từ thệ nguyện năng động". Những nguyện ước này là mạnh mẽ hơn sự không thỏa mãn của hành giả Tiểu Thừa. Trước khi tầng nguyện vọng này được đạt đến, thì cũng có nhiều sự thực hành khác phải được phát triển vì thế hành giả Đại Thừa có thể nhận ra trọn vẹn nổi khổ đau của chúng sanh.

Đầu tiên họ muốn đưa tất cả chúng sanh đến Giác Ngộ mà không cần một sự trợ giúp nào. Điều này gọi là "tư tưởng đầu tiên" (adicinta). Sau đó, khi họ thẩm tra tự thân để thấy họ có đủ năng lực để làm việc đó một cách đơn độc không, thì họ thấy rằng cùng những phiền não mà những chúng sanh khác có cũng tồn tại trong họ. Vì vậy họ cố gắng để tìm xem ai có năng lực để giúp người khác trong cách này. Qua điều này họ thấy rằng chỉ có một Đức Phật mới có thể làm như thế, và do vậy họ phát triền nguyện ước được đạt đến Quả Phật một cách nhanh chóng. Đây là tâm giác ngộ, tâm bồ đề, "Tâm nhiệt tình Giác Ngộ."

Khi hành giả đã thực hành chủ đề lớn này, thì đại bi, đại từ, tư tưởng đầu tiên, và tâm giác ngộ ( mahakarunika, mahamaitreya, adicinta và bodhicitta) trở thành bộ phận rất tự nhiên của hành giả. Ở tại điểm này, hành giả trở thành một vị Bồ tát, mặc dù chưa là một tôn giả Bồ tát - một vị Bồ tát rất tiến hóa, vị đã thấy tánh không một cách rõ ràng. Khi hành giả đạt đến giai tầng cao của một vị Bồ tát, tất cả chư thiên đều tôn kính. Một khi tâm giác ngộ đã phát sinh, hạt giống của giáo pháp sẽ tiếp tục lớn mạnh cho dù vị ấy tỉnh giấc hay ngủ, và ngay cả những nghiệp nhân rất tổn hại cũng được ngăn chặn khỏi chín muồi.

Thông thường, người ta có thể loại trừ những phiền não tinh thần chỉ bằng việc thiền quán về tánh không. Tâm giác ngộ làm thiền quán về tánh không mạnh mẽ hơn nhiều. Khi một chiến sĩ đang chiến đấu với một kẻ thù thì người ấy cần sử dụng vũ khí của người ấy, nhưng vị ấy cũng cần có thực phẩm tốt; tâm giác ngộ giống như thực phẩm này.

Để đạt đến mục tiêu sau cùng, chúng ta cần hai khí cụ: tuệ giácphương tiện, những thứ chứa đựng cả bi mẫn và hành động bi mẫn. Đại bi, đại từ, tư tưởng đầu tiên và tâm giác ngộ tất cả bao hàm trong phương tiện. Tuệ giác là việc thấy mọi thứ như chúng là. Một vị Bồ tát là cả hai thứ này. Một vị a la hán, người đã hoàn thành con đường Tiểu Thừa, đã ra khỏi sanh tử luân hồi và đã đạt đến trình độ thấp nhất của niết bàn, là mạnh mẽ trong tuệ giác - trong sự thực chứng về tánh không - nhưng yếu kém về phương tiện. Họ có bi mẫn, nhưng không phải là đại bi. Họ có từ ái năng động nhưng không phải là đại từ. Khác biệt chính giữa con đường của họ và Đại Thừa là về phía phương tiện. Cuối cùng, những vị a la hán sẽ phải phát triển phương tiện.

Tôn giả Tịch Thiên, trong Hướng Dẫn Lối Sống Bồ tát (Nhập Bồ tát Hạnh) đề cập tất cả những đạo đức khác biệt của tâm giác ngộ, cho những ai quan tâm trong việc hiểu biết hơn về "tâm nhiệt tình Giác Ngộ".

Ẩn Tâm Lộ, Saturday, December 19, 2015

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 6074)
Cúng dườngnuôi dưỡng khiến Tam Bảo hằng còn ở đời. Tất cả những sự bảo bọc giúp đỡ gìn giữ để Tam Bảo thường còn đều gọi là cúng dường.
(Xem: 9321)
Bốn cấp độ thiền định hay tứ thiền là bốn mức thiền khi hành giả thực hành thiền có thể đạt được.
(Xem: 6390)
Một bào thai sở dĩ có mặt trên cuộc đời này ngoài yếu tố chính là do cha mẹ sinh ra, còn là kết quả của một tiến trình không đơn giản.
(Xem: 5960)
Đạo Phật là nguồn sống và lẽ sống của con người, là cương lĩnh cho nhân thế. Với sứ mạng thiêng liêng cao đẹp ấy, đạo Phật không xa lìa thực thể khổ đau của con người.
(Xem: 7464)
Mục đích của Đạo Phậtdiệt khổ và đem vui cho mọi loài, nhưng phải là người có trí mới biết được con đường đưa đến an lạchạnh phúc
(Xem: 7284)
Người ta thường nói đạo Phật là đạo của từ bitrí tuệ. Đối với nhiều người Phật tử, từ bi là quan trọng hơn cả, và nếu khôngtừ bi thì không có đạo Phật.
(Xem: 5168)
Các nhà khảo cổ đang nghiên cứu tại Nepal đã phát hiện bằng chứng về một kiến trúc tại nơi sinh ra Đức Phật có niên đại thế kỷ thứ 6 trước công nguyên.
(Xem: 8040)
Theo Đức Phật, tất cả những vật hiện hữu đều biến chuyển không ngừng. Sự biến chuyển này thì vô thuỷ vô chung. Nguồn gốc của vũ trụ không do một Đấng Sáng tạo (Creator God) tạo ra.
(Xem: 5907)
Đức Phật đản sanh vào năm 624 trước Công nguyên. Theo lý giải của Phật Giáo Nam Tông thì Đức Phật sanh ngày Rằm tháng Tư Âm lịch.
(Xem: 9546)
Nếu bạn say mê đọc kinh Phật, ưa thích những phân tích kỹ càng về giáo điển, muốn tìm hiểu các chuyện xảy ra thời Đức Phật đi giảng dạy nơi này và nơi kia, hiển nhiên đây là một tác giả bạn không thể bỏ qua
(Xem: 7363)
Tánh Không là một trong những khái niệm quan trọng và khó thấu triệt nhất trong giáo lý Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 7346)
Nguyên bản: Meditating while dying; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma; Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D. Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 6187)
Ba Mươi Hai Cách ứng hiện của Đức Quan Thế Âm Bồ Tát. Bởi vì Quan Thế Âm Bồ Tát đồng một Sức Từ với đức Phật Như Lai cho nên ngài ứng hiện ra 32 thân, vào các quốc độđộ thoát chúng sanh
(Xem: 5287)
Thể tánh của tâm là pháp giới thể tánh, bởi vì nếu không như vậy thì tâm không bao giờ có thể hiểu biết, chứng ngộ pháp giới thể tánh.
(Xem: 5833)
Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là một khái niệm thu hút nhiều sự quan tâm của học giới từ phương Tây cho đến phương Đông
(Xem: 5638)
Thuật ngữ pháp (dharma, có căn động tự là dhṛ có nghĩa là “duy trì, nắm giữ”; Pāli: dhamma; Tây Tạng: chos) mang nhiều ý nghĩa và ...
(Xem: 3947)
Trì danh là pháp tu Tịnh Độ phổ thông nhứt hiện nay. Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm, có Mười cách trì danh khác nhau
(Xem: 5663)
Phật dạy tất cả pháp hữu vi đều là vô thường sanh diệt không bền vững, như vậy thìthế gian cái gì có tạo tác có biến đổi đều là vô bền chắc.
(Xem: 4063)
Nguyên bản: Removing obstacles to a favorable death; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma; Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D. Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 7490)
Mối liên hệ giữa hình thức sớm nhất của Phật giáo và những truyền thống khác mà chúng đã phát triển về sau là một vấn đề luôn tái diễn trong lịch sử tư tưởngPhật giáo.
(Xem: 5701)
Nghiệp và Luân hồi là hai ý niệm đã có trong Ấn độ giáo, được giảng giải trong các Kinh Veda và Upanishad vào khoảng 1500 năm trước CN.
(Xem: 21848)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 5582)
Mục tiêu cao cả của đạo Phật là dạy con người tu tập để thoát khổ, giác ngộgiải thoát.
(Xem: 7014)
Phật giáo du nhập Nhật Bản vào thế kỷ thứ VI, sau đó trải qua thời kì Nara (710~785), thời kì Heian (794~1192) cho đến thời kì Kamakura (1192~1380), trước sau khoảng 700 năm, rồi phát sinh rất nhiều tông phái.
(Xem: 4998)
Tổ Quy Sơn dặn: “Nói ra lời nào phải liên hệ với kinh điển. Đàm luận gì, phải xét lại lời người xưa”.
(Xem: 6426)
Nhiều học giả phân vân là làm thế nào và tại sao những nhà Đại chúng bộ (Mahāsāṅghika) đã hình thành nên khái niệm về một Đức Phật siêu việt...
(Xem: 5777)
Hoa Sen Diệu Phápgiáo pháp được thuyết giảng trong Kinh Pháp Hoa. Quang Trạch giải thích Diệu Pháp là nhân của đạo Nhất Thừa, là quả của đạo Nhất Thừa.
(Xem: 4991)
Con người sống qui tụ lại thành một xã hội, và phát triển tập thể này rộng lớn dần dần thành một quốc gia.
(Xem: 7036)
Trước khi xác định Phật Giáo như là một hệ thống tư tưởng triết học (Buddhism as a philosophy) hay như là một tôn giáo (Buddhism as a religion), chúng ta sẽ tìm hiểu triết học là gì ? và Phật giáo là gì ?
(Xem: 6029)
Lục độ Ba-la-mật-đa/ Sáu phương pháp tu Ba-la-mật-đa (Six Paramitas) là 6 pháp tu để giải trừ các khổ ách của Đại thừa Phật giáo.
(Xem: 5532)
Theo quan điểm của Đại hoàn thiện thì ánh sáng trong suốt hiển hiện một cách tự nhiên và được gọi là "hoàn-toàn-tốt"
(Xem: 5851)
Đức Phật ra đời vào năm 624 trước tây lịch tại nước Ấn Độ. Ngài thuyết pháp 49 năm. Phật giáo đã trở thành quốc giáo, vì các vua, các quan và dân chúng đa phần đều theo đạo Phật.
(Xem: 5981)
Y Kinh Kinh Cang Bát Nhã Ba La Mật: Đức Thế Tôn Như Lai hỏi ngài Tu Bồ Đề: Như Lainhục nhãn không? Ngài Tu Bồ Đề thưa:
(Xem: 6733)
Cuốn sách “Luân Hồi trong Lăng Kính Lăng Nghiêm” được ra mắt cách đây 9 năm (2008), in lần thứ hai, ba và tư vào năm 2012, 2014 & 2016 tại Nhà xuất bản Phương Đông, và năm nay (2018) cũng tại NXB Hồng Đức
(Xem: 6413)
điều chắc chắn là làm người, ai cũng có ý thức về tội lỗi. Điều này là không đúng, điều này là không tốt, điều này là không đẹp.
(Xem: 6064)
Tựa đề của khảo luận này phát xuất từ tồn nghi của một pháp hữu trong khi dịch lại bản kinh Tập (Sutta Nipāta) ở văn hệ Nikāya.
(Xem: 6449)
Khái niệm ‘nghiệp’, thật ra, đã có mặt trong văn học Bà-la-môn giáo từ rất lâu trước khi Đức Phật xuất hiện ở đời.
(Xem: 6122)
Vũ trụ, con người hình thành như thế nào và tương lai sẽ ra sao? Câu hỏi chưa bao giờ được xếp lại. Khoa học lượng tử luôn tiên phong...
(Xem: 6334)
rong lịch sử tư tưởng Ấn-độ, thuyết Trung đạo đã mang lại cho tư tưởng giới đương thời một không khí hoạt bát[1].
(Xem: 5575)
Bản chất của ánh sáng trong suốt, mang tính cách nền tảng và rạng ngời, là cội nguồn tối hậu của tất cả mọi cấp bậc tri thức...
(Xem: 6885)
Chánh Pháp là gì? Phật Pháp được chia thành ba thời kỳthời Chánh Pháp, thời Tượng Pháp, và thời Mạt Pháp.
(Xem: 4545)
Ông trị vì từ năm 269 TCN đến năm 232 TCN thuộc đời thứ 3 của triều đại Maurya. Đế chế của ông rộng lớn gần như tất cả tiểu lục địa Ấn Độ trãi dài từ Đông sang Tây.
(Xem: 7757)
Trong Kinh Kim Cang, Phật dạy có 4 tướng: “Ngã – Nhân – Chúng Sanh – Thọ Giả”. Khi còn phàm phu, chấp thân này là thật là bền vững,
(Xem: 5997)
Đạo Phật đang phát triển rộng rãi đến nhiều tầng lớp. Rất nhiều các bậc tri thức, các nhà khoa học chân chính, đến cả những người ...
(Xem: 7249)
Kiếp sống của mỗi con người sinh ra ở thế giới Ta Bà này, dù thọ mạngdài hay ngắn, nhìn chung có thể phân chia làm nhiều giai đoạn.
(Xem: 7681)
Kể từ thời điểm Phật giáo khai sinh và nở hoa khắp mọi miềnthế giới, hễ mỗi khi nói đến hình ảnh một vị Phật xuất hiện trong tương lai,
(Xem: 5480)
Phép luyện tập thiền định được hỗ trợ bởi sự thực thi các hành động vị tha, các hành động đó đồng thời cũng được thúc đẩy bởi tình thương yêu và lòng từ bi.
(Xem: 5123)
Nếu đủ sức duy trì một cách đúng đắn sự nhận biết tâm thức thần bí nhất thì kết quả mang lại từ phép luyện tập đó sẽ trợ lực các bạn rất nhiều
(Xem: 5636)
Thời-không vũ trụ chứa hàng triệu, tỉ, hàng ức cho đến không máy móc nào đếm hằng hà sa số hành tinh như trái đất mới biết con ngườimột sinh thể gần như bằng không.
(Xem: 5486)
Trong các bài kinh thuộc hệ A Hàm hay kinh Đại Bát Niết Bàn v.v… Phật có nói đến địa ngục. Đề Bà Đạt Đa, Tì kheo Thiện Tinh, vua Lưu Ly v.v… đều đọa vào địa ngục ngay khi chết.
(Xem: 5499)
Xét về niên đại, bản kinh có mặt ở thời Hậu Hán (23-220), xuất hiện trong Cao Tăng Truyện quahành trạng của ngài Nhiếp-ma-đằng (攝摩騰)[2].
(Xem: 4991)
Thể dạng lắng sâu thường xuyên bên trong tâm thức thần bí nhất chỉ có thể thực hiện được với những người có một khả năng thật bén nhạy.
(Xem: 4250)
Bài viết này sẽ khảo sát một số thắc mắc thường gặp về Thiền Tông, hy vọng sẽ tiện dụng cho một số độc giả còn nhiều nghi vấn.
(Xem: 6026)
Thức Thứ Tám hay A Lại Ya là thức chủ trong 8 thức. Thức nầy có nhiều cách gọi khác nhau để chỉ về nhiệm vụ của mình. Tựu chung thức nầy có 3 việc chính là: Năng tàng, Sở tàng và Ngã ái chấp tàng.
(Xem: 5620)
Khi còn vướng mắc trong sự tạo tác triền miên của khái niệm, chẳng hạn như suy nghĩ về cái đúng, cái sai, v.v. , thì các bạn sẽ không thể nào bước vào con đường tu tập về
(Xem: 6271)
Học phái dịch thuật xưa của Phật giáo Tây Tạng đưa ra nhiều cách luyện tập dựa vào các phương pháp khác biệt nhau, gọi là các "cỗ xe"/thừa.
(Xem: 8514)
Thần tài trong Phật giáo, cụ thểPhật giáo Bắc truyền đã vay mượn giữa hình ảnh Bố Đại hòa thượng và các truyền thuyết về thần tài Trung Hoa, để tổng hòa nên một vị thần tài có nguồn gốc ngoài Phật giáo.
(Xem: 5223)
Thời Đức Phật tại thế, Ấn Độít nhất mười sáu tiểu vương quốc, mỗi vương quốc đều có ngôn ngữ hay phương ngữ riêng, nhưng có lẽ người dân của mỗi nước đều có thể giao tiếp và hiểu nhau được.
(Xem: 5779)
Trong các kinh sách thừa hưởng từ [Phật giáo] Ấn Độ thì nguyên tắc căn bản đó lúc thì được gọi là "tâm thức tự tại
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant