Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phần 2a

01 Tháng Giêng 201615:35(Xem: 5737)
Phần 2a
BỤT HAY PHẬT? (Phần 2A)

Nguyễn Cung Thông

Bụt Hay Phật

Đức Phật trả lời dân Kalama - trích từ Kalama Sutta/tiếng Pali (tiếng Phạn Nam)
Ma anussavena : không nên tin những gì dù đã truyền đạt qua bao nhiêu đời (tạm dịch).
...
Ma Pitakasampadanena : không nên tin những gì dù đã được ghi nhận trong sách vở trước đây (tạm dịch).
...v.v…
Lời đức Phật trích từ Madhyamaka (Trung Luận) qua tiếng Pali (Malayasian) - Taapaac chedaac ca nikasat svarnam iva panditaih; Pariiksya bhiksavo graahyam madvaco na tu gauravaat : người khôn thử vàng (thật hay giả) bằng cách đốt, cắt hay chà (mài) - Này tỳ kheo - chỉ nên tin những lời này sau khi đã thử chúng chứ không chỉ vì tôn trọng (tạm dịch).


Bài viết 'Bụt hay Phật? (phần 1)' ghi lại hiện tượng dùng Bụt hay Phật một cách tổng quát, và chứng minh rằng Bụt chính là âm cổ của Phật còn duy trì trong ngôn ngữ dân gian của chúng ta. Phần 2 đi vào chi tiết cho thấy khả năng từ đơn tiết Bụt có thể từ phương Nam (Việt Hán) nhập vào tiếng Hán, sau đó trở thành Phật và từ Hán Việt/HV này nhập ngược lại tiếng Việt thời Đường Tống cũng như đa số các từ HV khác. Hiện tượng nhập ngược này có thể giải thích được phần nào qua các hoạt động dịch kinh Phật và sự hiện diện của các tăng sĩ Thiên Trúc (‘Hồ’) tại Giao Chỉ vào thời bình minh của đạo Phật ở Đông Nam Á. Phần này bổ túc cho phần 2 (gọi là phần 2A) cung cấp thêm các dữ kiện ngôn ngữ và nêu ra các vết tích của dạng Bụt hay *buot/buoc trong tiếng Việt và láng giềng, hi vọng thấy rõ thêm nguồn gốc phương Nam của từ đơn tiết Phật. Âm buộc của phất không phải là gượng ép mà thành vì chính học giả Hứa Thận thời Đông Hán cũng đã gợi ý này về chữ phất弗 :

8318 臣鉉等曰:韋所以束枉戾也 (Thần huyễn đẳng viết : vi sở dĩ thúc uổng lệ dã) - để ý thúc là buộc lại

Có nhiều cách hiểu về ghi nhận trên của Hứa Thận: hoặc dựa vào chữ vi (trái ngược) để dẫn đến một nghĩa rất trừu tượng là nghịch - ngược - không (chẳng) hay trái ý (phất ý, phật ý, phật lòng, mất lòng); Hoặc dựa vào chữ thúc để dẫn đến nghĩa cụ thể là bó (hai 'thanh cây' lại) hay buộc; Đây là một hoạt động rất căn bảnthực tế trong xã hội nông nghiệp truyền thống, thể hiện rất rõ nét khi nhìn nguồn gốc và cấu trúc của chữ phất . Tính chất cụ thể còn thể hiện qua cách dùng bốc như lửa bốc lên, mùi bốc ra ... so với phất trong cách dùng cờ phất lên, làm ăn đã phất ... (Việt Nam Tự Điển, 1954). Phần này sẽ không đề cập tới những lấn cấn như cách dùng Khổng Tử, Lão Tử so với Phật Tử, hay các từ đa tiết và đơn tiết của các ngôn ngữ Trung Á so với tiếng Việt: đây là những đề tài liên hệ nhưng cần tìm hiểu thêm để nhận ra chính xác hơn quá trình hình thành hiện tượng Bụt và Phật. Người viết sẽ tránh dùng các thuật ngữ Ngôn Ngữ Học, Phật Học ... để người đọc dễ cảm nhận phần này hơn, các chi tiết về tài liệu tham khảo được liệt kê để các bạn có thể tra cứu thêm. Thanh điệu của một âm được ghi bằng số hay mẫu tự (như F là Falling tone) và đứng sau chữ đó , so với cách ghi thanh điệu tiếng Việt hay phiên âm (bính âm, pinyin) giọng Bắc Kinh/BK bây giờ. Các dữ kiện như tiếng Thái, Lào, Hán Việt ... sẽ không có trích dẫn nguồn (vì rất dễ kiểm tra lại) so với những bài viết hay tài liệu ngôn ngữ đặc biệt hơn. Không nên lẫn lộn số phụ chú đứng sau một chữ với cách ghi thanh điệu trong bài.

1. Giới thiệu tổng quát

Các tài liệu về quá trình truyền bá đạo Phật1 ở Giao Chỉ cần được tra cứu thêm để hỗ trợ cho những dữ kiện ngôn ngữ, tuy nhiên nhiều tác giả đã viết về chủ đề này rồi và không cần phải nhắc lại ở đây. Đương nhiên là các dữ kiện khảo cổ (bia Võ Cảnh, di tích Phật ở Óc Eo ...), lịch sử, tôn giáo ... phải ăn khớp với dữ kiện ngôn ngữ để tăng mức chính xác. Trọng tâm của loạt bài 'Bụt hay Phật?' là giới thiệu các cách nhìn khác hơn như từ lăng kính Ngữ Âm Học Lịch Sử và cấu trúc chữ Hán, hi vọng soi sáng được phần nào thời kỳ phôi thai của đạo Phật ở Đông Nam Á. Hãy xem lại cấu trúc của chữ Phật 佛 : gồm có bộ nhân 人 hợp với chữ phất 弗. Chữ phất 弗được dùng làm thành phần hài thanh rất thường gặp trong quá trình cấu tạo chữ Hán. Có khoảng 55 chữ Hán có cấu trúc là các bộ thủ và chữ phất弗 (dựa vào Khang Hy). Tự điển Hán Việt có khoảng 10 chữ (dựa vào tự điển HV của Thiều Chửu). Tuy nhiên hiện nay chỉ có khoảng vài chữ còn thông dụng như Phật 佛, phí 費 hay 费 (phung phí), phất 沸 (phí - nước sôi), phất 拂 (bật, phật - quét, trái) và các chữ này không có dạng giản thể. Ngày nay có các cách đọc (theo pinyin, giọng Bắc Kinh) khác nhau như sau với âm phất (fu) vẫn chiếm đa số hay là hơn 50%

nguồn http://chinese-characters.org/contained/5/5F17.html

Trong các chữ Hán dùng chữ phất, chữ Phật佛rất thường gặp với tần số dùng là 108885 trên 434717750 so với 费 phí là 75589 trên 369369126, sau đó là phất (quét, trái) với tần số dùng là 8247 trên 434717750 so với phất (phí - nước sôi) là 5436 trên 434717750 - dữ kiện trích từ tự điển trên mạng http://www.chineselanguage.org/dictionaries/ccdict/ . Sau đây là các nghĩa và cách dùng của chữ phất:

1.1 Động từ

Nắn cho thẳng (Thuyết Văn : kiểu dã, 說文 : 矯也)

Trái lệnh (vi ảo : 違拗)

Không muốn (như phất thanh 違拗, không muốn nói ...)

1.2 Tính từ

Sôi (cũng như phí 沸)

Uất ức (cũnh như 怫 phật)

Không, chẳng (phủ định, như 不 phi, cùng một gốc)

1.3 Danh từ

Bút (cây viết, cũng như 筆 bút)

Phất/Phật Lăng (bây giờ thường thấy dùng Pháp Lang 法 郎 ở TQ hơn īso với Phật Lăng, 'frăng' ở VN)

Phiên âm tiếng nước ngoài, tên riêng như 弗雷 Freyr (vị thánh trong thần thoại Norse), 西弗 Sievert (Sv, đơn vị phóng xạ), 氟 (chất Flourine, ký hiệu F) 斯坦弗 (sītănfú, phiên âm Stanford) ...v.v... Dùng chữ phất để ký âm là khuynh hướng thường gặp hiện nay.

Đáng chú ý nhất là âm BÚT vẫn còn duy trì trong tiếng Việt2, các cách đọc khác của BÚT là

粵語:bat1 Việt Ngữ :bat1 (Quảng Đông) so với bǐ, giọng Bắc Kinh/BK bây giờ

客家話:[客英字典] bit7 [沙頭角腔] bit7 [寶安腔] bit7 [台灣四縣腔] bit7 [梅縣腔] bit7 [海陸豐腔] bit7 [東莞腔] bit7 [陸豐腔] bit7 [客語拼音字彙] bid5

Khách Gia thoại :[ Khách Anh tự điển ] bit7 [ sa đầu giác khang ] bit7 [ Bảo An khang ] bit7 [Đài Loan tứ huyền khang ] bit7 [ Mai Huyền khang ] bit7 [ Hải Lục phong khang ] bit7 [Đông Hoàn khang ] bit7 [ Lục Phong khang ] bit7 [ Khách ngữ bính âm tự vị ] bid5 - so với phil (tiếng Hàn), fude (tiếng Nhật/kun) và hitsu (hầu hoá phụ âm môi đầu thành h, tiếng Nhật/on)

Bảng so sánh cho thấy tiếng Việt còn duy trì một âm thượng cổ của phất弗là BỤT so với Phật佛là BỤT, nhưng chiều ảnh hưởng là từ Hán sang Việt hay Việt sang Hán? Bài viết phần 2 đã đưa ra khả năng ký âm BUỘC (ràng buộc) của chữ Phật, phần này sẽ trình bày thêm một số dữ kiện ngôn ngữ phản ánh dạng *BUOC là từ phương Nam chứ không phải có nguồn gốc là tiếng Hán (Cổ).

2. Các dạng ký âm phương Nam của tiếng Hán (Cổ)

Trong vốn từ Hán Cổ có các chữ có thể là ký âm của tiếng phương Nam (Việt Cổ) nhưng vì không hợp với hệ thống âm thanh của nhóm cai trị phương Bắc, vô tình hay cố ý, nên từ từ bị đào thải; Thí dụ như tên 12 con giáp chẳng hạn (Tý, Sửu ... Hợi), chúng không có liên hệ gì đến tên gọi 12 con vật trong tiếng Hán nhưng lại rất tương ứng với tên gọi 12 con vật trong tiếng Việt (nhánh Việt-Mường). Ta hãy khảo sát liên hệ của chữ Hán (Cổ) hiếm với tiếng Việt về dạng *BUOC

2.1 Chữ rất hiếm phật 䞞 viết bằng bộ tẩu hợp với chữ phất nghĩa là đi bộ, bước đi, nhảy ... Trích Khang Hy :

䞞 [廣韻】符弗切【集韻】符勿切,音佛。【玉篇】走貌。【類篇】跳也。 又【集韻】芳未切,音費。義同

Phật [Quảng Vận ] phù phất thiết [ Tập Vận ] phù vật thiết , âm phật . [ Ngọc Thiên ] tẩu mạo . [ Loại thiên ] khiêu dã . Hựu [ Tập Vận ] phương vị thiết , âm phí . Nghĩa đồng

So dạng bước với các ngôn ngữ láng giềng ta có bươk (tiếng Aslian), pươk/pauk (Brou), prơk (Todrah), bôk (Bahnar), pước (Mường Bi)... Do đó ta có thể phục nguyên một dạng âm cổ là *BUOC cho chữ phật 䞞 này. Dạng này rất phù hợp với dạng phục nguyên *BUOC hay *BUOT/BUT của Phật đã ghi nhận ở phần 2 của loạt bài 'Bụt hay Phật?' (tóm tắt là佛hàm ý con người từ lúc sinh ra 人bị ràng buộc弗 - vừa ký âm bụt và vừa gợi ý giải thoát …). Chữ Nôm bước dùng bộ túc hợp với chữ bắc hài thanh 足北như trong

'... Quét trúc bước qua lòng suối ...' (Nguyễn Trãi, 8b)

'... Chân chẳng bước đến thành chợ ...' (Truyền Kỳ Mạn Lục, II, 37a)

…v.v…

Âm HV bắc 北 có dạng âm cổ hơn là *pơk tương ứng với dạng *BUOC. Tiếng Mường Bi còn dùng pước môch (bước một), thàng nì nả mởi ti ản mẩy pước thơi (thằng bé này chỉ mới đi được mấy bước thôi). Trong vốn từ Hán có chữ hiếm bát 㞈 (Tập Vận : bắc mạt thiết, âm bát - [集韻]: 北末切,音撥) nghĩa là cẳng (chân) lớn, bước đi ... Mà giọng Quảng Đông là but6, but3 cũng là dấu vết của các dạng ký âm (dùng các chữ khác nhau) của cùng một gốc.

2.2 Một chữ hiếm nữa là 䢌 bát (giọng Quảng Đông là but3) với thành phần hài thanh 巿 (đọc như phất):

䢌 bó BK but3 QĐ 廣韻】【集韻】北末切,音撥。【玉篇】急走也。【集韻】前頓也。又【集韻】普活切,音鏺。【廣雅】猝也。又蒲撥切,音跋。義同。又【說文】行貌。或作䟛𧺡𧺺 [Quảng vận ] [ Tập Vận ] bắc mạt thiết , âm bát . [ Ngọc Thiên ] cấp tẩu dã . [ Tập Vận ] tiền đốn dã . Hựu [ Tập Vận ] phổ hoạt thiết , âm bát . [ Quảng Nhã ] thốt dã . Hựu bồ bát thiết , âm bạt . Nghĩa đồng . Hựu [ thuyết văn ] hành mạo . Hoặc tác bát ... Chữ này có nghĩa là đi bộ, bước đi, chạy ... Có thể là vết tích của âm cổ *BUOC (bước) cũng như chữ hiếm 䟛 cùng có thành phần hài thanh là巿 (trích Khang Hy) - so với bạt 跋 ...

䟛 bó bá BK bat8 QĐ 廣韻】【集韻】蒲撥切,音跋。【玉篇】急行貌。【類篇】行貌。一曰猝也。或作𧿳。 又【廣韻】方味切【集韻】方未切,音沸。義同。又【集韻】博蓋切,音貝。與䟺同。步行躐跋也

[Quảng Vận ] [ Tập Vận ] bồ bát thiết , âm bạt . [ Ngọc Thiên ] cấp hành mạo . [ Loại Thiên ] hành mạo . Nhất viết thốt dã . Hoặc tác bát. Hựu [ Quảng Vận ] phương vị thiết [ Tập Vận ] phương vị thiết , âm phí . Nghĩa đồng . Hựu [ tập vận ] bác cái thiết , âm bối . Dữ bối đồng . Bộ hành liệp bạt dã

2.3 Một chữ hiếm khác là phất 柫 cũng có thành phần hài thanh là phất, theo Thuyết Văn Giải Tự

3678 柫,[敷勿切 ],擊禾連枷也。從木弗聲

3678 Phật/phất ,[ phu vật thiết ] , kích hòa liên gia dã . Tòng mộc phất thanh

Phất 柫 nghĩa là một loại chày giã gạo (danh từ) hay đánh (kích, động từ) mà tiếng Việt còn có dạng vụt như các cách dùng vụt gậy vào lưng, vụt roi ... So sánh với chữ bột 浡 cũng là vút. Theo thiển ý VỤT tượng thanh có thể là một biến âm của BỤT (như vua-bua...).

2.4 Chữ hiếm phật 𢂀 viết bằng bộ cân nghĩa là khăn buộc tóc đáng chú ý - trích Khang Hy

[廣韻】【集韻】敷勿切。音拂。【玉篇】韜髮也

[Quảng Vận ] [ Tập Vận ] phu vật thiết . Âm phất . [ Ngọc Thiên ] thao phát dã

Nếu phất mang nghĩa là không (phủ định) hay uất ức, bật (vụt, vọt) lên … thì không có nghĩa, chỉ có ý nghĩa khi phất là ký âm buộc (âm cổ hơn) của phương Nam : khăn buộc tóc tương ứng với định nghĩa của Ngọc Thiên

2.5 Alexandre de Rhodes trong tự điển Việt Bồ La/VBL (1651) từng nhận ra rằng

"... THÍC CA (Thích Ca) .... khi ông bỏ bà vợ sau một ít năm chung sống, rồi ông tự trở thành BỤT tức là tượng thần ..."

VBL dùng từ BỤT 10 lần so với 1 lần dùng từ Phật. Một nhận xét khá thú vị là sau VBL khoảng 4 thế kỷ, lật một tự điển Việt (2009) ra xem thì thấy chữ Phật dùng 5 lần so với chữ Bụt dùng 1 lần - tỷ số Bụt:Phật đảo ngược lại (không kể các thành ngữ ca dao). Ngày nay ít nghe thấy trong khẩu ngữ từ Bụt mà chỉ còn vết tích trong vài tiếng địa phương hay ca dao tục ngữ. Trước VBL 4 thế kỷ, Cư Trần Lạc (vua Trần Nhân Tông) dùng từ BỤT 10 lần so với 1 lần dùng từ Phật (nhưng chỉ dùng từ kép Phật Tổ 佛祖), Đắc Thú Lâm Tuyền Thành Đạo dùng từ BỤT 2 lần (không dùng Phật), Vịnh Chùa Hoa Yên dùng từ BỤT 3 lần và 1 lần dùng Phật (từ kép Phật quả 佛果), Phú Dạy Con/Mạc Đĩnh Chi dùng từ BỤT 4 lần (không dùng Phật). Chữ Bụt trong các tài liệu chữ Nôm dùng chữ Hán bột (sao chổi) 孛 hay bộ nhân hợp với chữ bột 侼, bộ mộc hợp với chữ bột 桲 ... Các dạng này vẫn duy trì âm cổ của Phật là bột/ Bụt4. Cho đến năm nay (2009), người viết có dịp xem qua một cuốn tự điển tiếng Việt thì thấy dùng 5 lần từ Phật so với 1 lần Bụt (tỷ số 5:1 so với 1:10 trong VBL).

Khuynh hướng trên cho thấy rõ ràng từ BỤT đã được dùng trước thời Trần và chữ Phật đã từ từ thâm nhập vào tiếng Việt (cũng như đa số các từ Hán Việt khác) và chiếm ưu thế cũng như đa số các từ HV khác.

2.6 Một âm trung cổ của phất là phí 費 phản ánh qua từ phí HV (hao, tổn - Ngọc Thiên). Chữ này gồm có bộ bối (chỉ nghĩa, tiêu dùng) và âm 弗 - theo Thuyết Văn Giải Tự :

費 : 𢿱財用也。从貝弗聲 (3955)

Phí : Tán tài dụng dã . Tòng bối phất thanh

Rõ ràng là phất còn có một cách đọc khác5 hơn là phí, thuộc dạng *phi (hay * phǝć) có nguồn gốc phương Bắc (liên hệ đến phi/bất 不). Thời Đông Hán các chữ Phật, phất và phí đọc giống nhau. Phí là từ Hán Việt (gốc Hán phương Bắc nhập vào tiếng Việt), tương phản với dạng *but của phất 弗 đến từ phương Nam (từ Việt Hán, gốc Việt nhập vào tiếng Hán cũng như tên gọi 12 con giáp chỉ thú vật).

Các dữ kiên ngôn ngữ trên đều nói lên những hoạt động cụ thể như buộc (lúa, rạ), bước, vụt ... Phản ánh tư duy nông nghiệp phương Nam và rất khác biệt với cách diễn dịch trừu tượng của phương Bắc. Bụt là từ phương Nam thể hiện rõ nét qua các tài liệu bằng chữ Nôm trong giai đoạn phôi thai: tổng kết các dữ kiện từ phần 1,2 và 2A lại và so sánh với lý luận của học giả Quý Tiễn Lâm6 dựa vào một số dạng but, pwt, bud … của các ngôn ngữ Trung Á, ta thấy nguồn gốc phương Nam *BUT của từ Phật có cơ sở vững chắc; Nhất là khi nhận ra tương quan của dạng *BUOC/*BUOT (ràng buộc, như trong cụm từ Tam Phọc - Tam Căn/Độc là cội rễ ràng buộc của phiền não/Nhất Đề) và nguồn gốc cấu tạo chữ phất弗.

Buddha-buộc - Bụt

buthayphat-002

Các con đường truyền bá của Phật giáo (trích từ vi.wkipedia)

3. Các cách diễn dịch khác nhau của chữ Phật

Nếu không dựa vào chức năng hài thanh của chữ Hán3 như đã bàn bên trên, ta có thể suy diễn nghĩa của chữ Phật bằng nhiều cách và có khi cho ra những kết luận ngược với nhau hay những lấn cấn khó hiểu:

3.1 Theo truyền thuyết thì ngài Huyền Trang7 giải thích chữ Phật 佛gồm bộ nhân人hợp với chữ phất弗 (phất có một nghĩa là chẳng, không) hàm ý Phật Tổ là người giác ngộ, hay hiểu được Tánh Không (Phật Tánh) - một khái niệm cơ bản của đạo Phật. Nhưng nếu xem chữ phí hay phất 沸 và dựa vào nghĩa của phất (không) thì chữ này hàm ý không có nước (bộ thuỷ) hay khô cạn ... Suy diễn như vậy là sai vì chữ phất ở đây là hài thanh, tượng thanh : hàm ý âm thanh của bọt nước sôi lên, hay vọt ra. Tương tự như vậy, hãy xem chữ hiếm phất 𩖼 viết bằng bộ phong hợp với chữ phất : nếu suy diễn dựa vào nghĩa của phất (không) thì chữ này hàm ý không gió, tạnh gió ... Thật ra nghĩa của chữ này lại là gió thoảng (gió phớt/phất qua - light breeze) như ghi nhận của [Ngọc Thiên] phất : phong dã [玉篇] 𩖼 : 風也 hay trước nữa ở [Tiểu Nhã]: phiêu phong phất phất [小雅]:飄風弗弗. Đây là một nhược điểm của loại chữ (Hán) hội ý: có khả năng tán rộng ra đến những kết quả hoàn toàn trái ngược với nhau. GS William G. Boltz hoàn toàn phủ nhận cấu trúc hội ý này, cho rằng khả năng hài thanh đã mất đi hay không còn ai (hay tài liệu) nhớ cách đọc cổ nữa (thời kỳ hình thành chữ Hán). Thí dụ như chữ an 安, thường được dẫn là loại chữ hội ý: gồm bộ miên 宀 (nóc nhà) hợp với chữ nữ 女 (con gái), thành ra hàm ý an (lành, con gái ở trong nhà). Thật ra âm an/yên có thể hiện diện trong các chữ 妟 (yến, yên lặng),奻 (noan, cãi cọ) và 姦 (gian, ác) - xem chi tiết trang http://en.wikipedia.org/wiki/Chinese_character

3.2 Một cao đệ của ngài Huyền TrangKhuy Cơ, trong sách Đại Thừa Pháp Uyển Nghĩa Lâm Chương (q. 6), còn nhận xét rằng 'Phạn văn Bột Đà, ngọa lược vân Phật'! Thật ra dạng Bụt biến thành Phật là chẳng có sai gì cả - đây chỉ là biến âm tự nhiên của tiếng nói theo dòng thời gian/lịch đại; Trong ngữ hệ Ấn Âu biến âm b > ph chính là một phần của định luật âm thanh Grimm : đây là chủ đề của bài 1 "Bụt hay Phật?". Thường thì rất khó nhận ra các dạng âm cổ vì sự khác biệt quá lớn của âm thanh qua một thời gian dài, nhất là các dữ kiện ngôn ngữ lại không được dồi dào (dễ kiểm tra lại) như ngày nay và không kể đến tâm lý tự tôn hay tự ti của con người.

3.3 Những cách lý giải khác từ góc độ văn hoá 'truyền thống' Trung Quốc/TQ như

3.3.1 Bộ nhân và chữ phất (không) : (Phật) không phải là người thường, cũng hàm ý đắc đạo (giác ngộ)8 ...

弗即“不是” ... 不是凡人,也不是常人,更不是俗人 ...

phất tức "bất thị" ... bất thị phàm nhân, dã bất thị thường nhân, canh bất thị tục nhân ...

3.3.2 Một Thiên Sư TQ nổi tiếng (宣化上人 Tuyên Hoá Thượng Nhân) lại diễn giải tiếng Phạn buddha có âm giống như bu da (bất đại 不大) nghĩa là không lớn - nên Phật Tổ là không lớn không nhỏ, không đến không đi ...v.v... Xem thêm chi tiết trang

3.3.3 Một ‘đỉnh cao' của khả năng diễn dịch (và ‘xoá’ hẳn cấu trúc hài thanh hay chức năng ký âm của chữ Phật 佛) là chữ Phật gồm có các chữ cung 弓 (xuyên qua, bao quát) các chữ 丿(nét viết về phía trái, biểu tượng cho phái tà) và 丨(nét viết thẳng đứng, biểu tượng cho phái chánh) - hàm ý khắc phục các gian nan dù là người tà hay chánh để trở thành người giác ngộ hay Phật … Xem thêm các tài liệu gần đây về những trao đổi giữa học giả nổi tiếng của TQ, Lý Thổ Sanh 李土生và cố học giả Quý Tiện/ Tiễn Lâm 季羨林, về cách giải thích này (phương thức tượng tư duy)9.

Tóm lại, ta có cơ sở để nêu lên khả năng từ đơn tiết Bụt (âm cổ của Phật) có thể nhập vào tiếng Hán từ phương Nam; Giọng Quảng Đông cũng có âm Bụt (but6), như bột 脖 (cái cổ) bánh bột 餑 ... Nhưng để chỉ cái bát (chén/trản HV), gốc tiếng Phạn patra पात्र, giọng Quảng Đông10 cũng là but6, but3 so với tiếng Việt bát gần với âm Phạn nguyên thuỷ hơn cũng như là Bụt so với Buddha बुद्ध : Bụt và bát là các dạng đơn âm hoá cho hợp với hệ thống âm thanh tiếng Việt. Thành ra nguồn gốc 'phương Nam' là gần với tiếng Việt hơn cả.

4. Phụ chú và phê bình thêm

Để cho liên tục, người đọc nên tham khảo các bài viết 'Bụt hay Phật?' phần 1 và 2 - như trên mạng http://www.khoahoc.net/baivo/nguyencungthong/270809-buthayphat-1.htm , http://www.khoahoc.net/baivo/nguyencungthong/170909-buthayphat-2.htm hay http://dongtac.net/spip.php?article3034 , http://dongtac.net/spip.php?article3081 …v.v…

Hay tra cứu thêm bài viết của các tác giả khác như Nguyễn Trọng Phu, Phan Mạnh Lương, Huỳnh Ngọc Chiến ... Hay các diễn đàn, bài báo - xin được liệt kê ở đây để người đọc tiện tra cứu thêm:

- "Từ Buddha đến Bụt và Phật" tác giả Huỳnh Ngọc Chiến hay xem trên mạng http://www.giaodiemonline.com/noidung_detail.php?newsid=2621

- "Bụt hay Phật" tác giả Phạm Mạnh Lương - Tạp Chí "Thế kỷ 21" số 129 (1/2000) hay xem trên mạng http://www.thuvienhoasen.org/ddpp-buthayphat.htm

- "Bụt hay Phật" tác giả Nguyễn Trọng Phu - Tạp Chí "Thế kỷ 21" số 123 (7/1999)

- "Danh Từ Bụt" - Sư Cô Chơn Không (Lá Thư Làng Mai Số 25 12/2/2002) - đăng trên mạng Thư Viện Phật Giáo Hoa Sen http://www.thuvienhoasen.org/ddpp-buthayphat-02.htm

- Hoa vô ưu (tập 9) "Ông Phật hay ông Bụt" (Hoà Thượng Thích Thanh Từ, 2002) hay xem trên mạng http://www.thuong-chieu.org/uni/KinhSachThiKe/PhoThong/HoaVoUu9/Html/04.htm

- "Phật" trên mạng vi.wikipedia địa chỉ http://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%E1%BA%ADt

- Các lời bàn về “Lý do vì sao không sửa chữ PHẬT thành BỤT” hay xem trên mạng Đặc Trưng http://dactrung.net/phorum/tm.aspx?m=424540&mpage=1&key=&#424540

- Bài viết về "Phật hay Bụt" xem trên mạng http://profiles.yahoo.com/blog/5PQLDPGDVHLTTJJIRWUT72RUDY?eid=.oHZLcBgnnuYZ1ctEYXMLXZhVGGloWTFdQ7DqMD3iAQdAPg9mg

- Vài ý kiến của tác giả Lê Anh Minh và Huệ Thiên đăng trên báo (23/7/2007) http://www.sggp.org.vn/saigonthubay/2007/7/111914/

- Ý kiến của các bạn đọc về cách gọi Bụt hay Phật (cách đây 8 năm) trên mạng http://giaodiemonline.com/thuvien/doithoai/ykienbandoc-buthayphat.htm

- Các trao đổi trên diễn đàn Viện Việt Học http://www.viethoc.org/phorum/read.php?15,43638,43771,quote=1

…v.v…

1) xem lịch sử truyền bá đạo PhậtViệt Nam trên mạng http://www.daophatngaynay.com/english/vietnam/country/005-VietnameseBuddhism.htm ; Học giả Lê Mạnh Thát cũng đề nghị Phật giáo đã đến Việt Nam khoảng thế kỷ thứ III hay thế kỷ thứ II trước công nguyên - xem thêm tài liệu trên mạng http://old.thuvienhoasen.org/u-lspgvn1.htm ; Tác giả Nguyễn Lang thì cho rằng khoảng đầu công nguyên thì Phật giáo đến Việt Nam (trung tâm Luy Lâu) - xem chi tiết trên mạng http://old.thuvienhoasen.org/vnphatgiaosuluan1-01.htm , http://vi.wikipedia.org/wiki/L%E1%BB%8Bch_s%E1%BB%AD_%C4%91%E1%BA%A1o_Ph%E1%BA%ADt_Vi%E1%BB%87t_Nam, "Lịch sử Phật giáo Việt Nam" Nguyễn Tài Thư (Chủ biên) - NXB Khoa Học Xã Hội (Hà Nội, 1991), hay "Phật Giáo tại Việt Nam" tác giả Thích Nguyên Tạng trên mạng http://www.daophatngaynay.com/viet/pgvn/su/001-pgvn1.htm hay tác giả Thích Mật Thể http://www.tangthuphathoc.com/suphatgiao/lichsuphatgiaovn-01.htm , hay bài viết của tác giả Quang Lâm (2009) trên mạng Phật giáo bắt đầu truyền bá vào Việt Nam như thế nào? ...v.v...

2) tiếng Hàn còn có dạng put (chỉ cây viết lông hay cọ sơn, vẽ) so với dạng phil. Tuy nhiên buộc là mukta (tiếng Hàn) lại khác hẳn. Một điểm quan trọng là Hứa Thận (trong Thuyết Văn Giải Tự/TVGT, khoảng 100 SCN) đã ghi nhận các nhận xét về cách dùng chữ bút như sau
1930 聿部: 聿:所以書也。楚謂之聿,吳謂之不律,燕謂之弗。從𦘒一聲。凡聿之屬皆從聿

1930 Duật bộ : duật : sở dĩ thư dã . Sở vị chi duật , Ngô vị chi bất luật , Yến vị chi phất . Tòng niếp nhất thanh . Phàm duật chi thuộc giai tòng duật

Như vậy là vào thời Hán, có nhiều cách đọc (và cách viết) chữ BÚT聿 tuỳ theo địa phương so với dạng筆bây giờ. Thật ra 筆âm Hán trung cổ là [廣韻】鄙密切【韻會】逼密切【正韻】壁吉切,音必 [Quảng Vận ] bỉ mật thiết [ Vận Hội ] bức mật thiết [ Chánh Vận ] bích cát thiết , âm tất ... Theo hệ thống âm thanh Hán Việt (âm Hán trung cổ); Nhưng tiếng Việt vẫn giữ dạng BÚT. An Nam Dịch Ngữ phiên âm bút và vuốt (*BUOT) bằng âm HV bác 剝 (bō BK, *pok, bóc).

3) Thuyết Văn Giải Tự (khoảng 100 SCN) có 82% thành phần hài thanh, so với Từ điển Khang Hy (1716) có khoảng 97% (có tài liệu đề nghị 90%) thành phần hài thanh; Vốn từ hài thanh càng ngày càng tăng trong các tự điển TQ gần đây, nhất là với các dạng giản thể - trích từ cuốn "The Chinese Language: Fact and Fantasy" (University of Hawai’i Press, 1984) của GS John DeFrancis:

Principle

(cấu trúc)

Oracle
Bones
(Shang
Dynasty)

Giáp văn

(nhà Thương)

Xu Shen
(2nd
century)

Hứa Thận

(TK 2)

Zheng
Qiao
(12th
century)

Trịnh Tiều

(TK 12)

Kang Xi
(18th
century)

Khang Hy

(TK 18)

Pictographic

(tượng hình)

227 (23%)

364 (4%)

608 (3%)

Simple
indicative

(chỉ sự đơn)

20 (2%)

125 (1%)

107 (1%)

Compound
indicative

(chỉ sự phức)

396 (41%)

1,167 (13%)

740 (3%)

Semantic-
phonetic

(hài thanh)

334 (34%)

7,697 (82%)

21,810 (93%)

47,141 (97%)

Total

(tổng số chữ)

977

9,353

23,265

48,641

4) Bột 孛là âm Hán trung cổ (còn duy trì qua âm HV và Quảng Đông but6) có thể đọc là phất 茀 (phu vật thiết, theo Khang Hy). Giọng Bắc Kinh bây giờ là bèi hay bó (pinyin). Bột nghĩa là sao chổi, nóng (bừng) mặt ... Nhưng còn một nghĩa rất xưa là những gì nghiền hay tán nhỏ thành như bột gạo, bột nếp ... phản ánh qua tục ngữ "có bột mới gột nên hồ" ... Tiếng Trung (Quốc) hiện nay dùng các từ như phấn 粉, đan 丹, sa 沙 ... để chỉ bột chứ không còn dùng từ bột này nữa. Trong vốn từ Hán có chữ bột 𥹸 viết bằng bộ mễ :

𥹸 [集韻】薄沒切,音孛。屑米也

Bột [Tập Vận ] bạc một thiết , âm bột . Tiết mễ dã (gạo xay, nhỏ hạt)

So sánh với các ngôn ngữ láng giềng bột (bôt, Mường Bi), pu-ột (Nùng), h-poh, h-boh, b-bôt (Môn), bột (Lào), bột (Thái - ผัด phatL : nghiền nhỏ, tra phấn). Chữ hiếm bột 餑 trong vốn từ Hán , tần số dùng là 15 trên 171894734, có nghĩa là bánh (bánh bột) mà giọng Quảng Đông là but3, giọng Hẹ là p'ut8 cũng cho thấy nguồn gốc phương Nam của bột (Bụt).

5) Theo tự điển tầm nguyên trên mạng http://starling.rinet.ru/cgi-bin/response.cgi?single=1&basename=\data\china\bigchina&text_recno=2779&root=config do cố GS người Nga Sergio Starostin khởi xướng (1998). Tiếc rằng ông là một nhà ngôn ngữ học đầu tiên đề nghị Bụt là dạng mượn cổ hơn (older loanword, tiếng Hán Cổ) so với Phật mà không phân tách cặn kẽ các dạng khác như bút (viết) 筆, hay nghiên cứu sâu xa hơn về cấu trúc cổ đại (triện văn, kim văn, giáp văn) của chữ phất 弗 ... Mà chỉ so sánh sơ lược vỏ ngữ âm rồi đi đến kết luận như trên (rất dễ kết luận như vậy khi so sánh tiếng Hán và tiếng Việt). Các nhà ngôn ngữ (Hán học) khác như GS Axel Schuessler (“ABC Etymological Dictionary of Old Chinese” 2007), William Baxter (*pjut, 1992), E. G. Pulleyblank (EMC, 1991), W. South Coblin (ONWC), E. Pulleyblank, B. Karkgren ... đều khá nhất trí với dạng cổ *but (*put) của Phật nhưng không đi đến kết luận như Starostin.

6) Xem thêm toàn văn bài viết "Phù Đồ dữ Phật" 浮屠与佛 của học giả Quý Tiện/Tiễn Lâm 季羨林 trên mạng

新浪文化讀書 > 散文隨筆 > 季羨林佛學硏究經典:佛 > 浮屠與佛 Tân lãng văn hóa độc thư > tản văn tùy bút > Quý Tiện Lâm Phật học nghiên cứu kinh điển : Phật > Phù Đồ dữ Phật

http://vip.book.sina.com.cn/book/chapter_60473_42199.html

7) cách giải thích của ngài Huyền Trang được đăng trên trang mạng Thư Viện Hoa Sen, và tác giả Phan Mạnh Lương nhắc lại trong bài viết 'Bụt hay Phật?'. Người viết vẫn còn tra cứu thêm về nguồn gốc chính xác của cách lý giải này. Một điều cần nhắc ở đây là ngài Huyền Trang/HT không phải là người đầu tiên sáng tác ra chữ Phật 佛 như một số tác giả đã lầm tưởng! Ngài HT đã phát triển khái niệm ‘Phật’ và đóng góp rất lớn vào công trình phiên dịch kinh Phật từ tiếng Phạn. Thời HT có nhiều trường phái và tranh cãi lẫn nhau về giáo lý của đức Phật, dựa vào một số kinh đã dịch từ trước, trong đó có thể một số đã xuất phát từ Giao Chỉ phản ánh qua âm BỤT chẳng hạn. Một trường hợp đáng chú ý là khả năng ký âm (chỉ là gần đúng) của tiếng Hán, như phất 弗 dùng để ghi âm Phạn Sariputra शारिपुत्र (Phạn Nam/Pali là Sariputta, Phất/putra nghĩa tiếng Phạn là con trai) Xá Lị Phất 舍利弗 cũng như Buddha बुद्ध là Phật Đà 佛陀. Xá Lị Phất còn là Xá Lị Phất Đa hay cách dịch mới (đơn âm hoá putra) là Xá Lị Phất Đa La, Xá Lị Bổ Đát La ... Ngài HT thì dịch (ý và âm) là Xá Lị Tử 舍利子 (Phạn + Hán), điều này nói lên phần nào các lấn cấn trong dạng phất hay Phật đã dùng trước thời HT. Các cách dịch khác là Thu Lộ Tử 鶖鹭子 hay 秋露子, Thân Tử 身子 (dạng xưa hơn) … vì khả năng tiếng Phạn rút gọn Sari- có nhiều nghĩa khác nhau: nếu là giản lược từ của sarira शरीर, cách dịch mới là Thiết Lị La/Thất Li La ..., hay là xương và tro thân cốt của Phật (sau khi hoả táng) hay tinh tuý của các bậc chân tu. Nếu là viết tắt của sarika शारिका, thì có nghĩa là một loại chim két ở Ấn Độ (có khả năng nói, hùng biện nên còn gọi là Bách Thiệt/trăm lưỡi) còn Thu Lộ là phiên âm gần đúng của Sari-. Lại có cách giải thích chim sarika là loài bồ nông Ấn Độ có cặp mắt rất tinh ... Đây cũng chính là tên mẹ của ngài Xá Lị Phất nên theo Pháp Hoa Huyền Tán thì ngài đã có tài biện luận từ mẹ vậy. Phạm trù nghĩa của Xá Lị đã không rõ ràng ngay cả trong tiếng Phạn, do đó khi phiên âm (âm dịch) và phiên nghĩa (ý dịch) thì khả năng diễn đạt chính xác rất khó đạt được. Một liên hệ khá dễ nhận ra khi phân tách các cách ký âm tiếng Phạn bằng chữ Hán trên là dạng *BUT (trong tiếng Phạn Sariputra) là âm cổ hơn của phất, tương ứng với BỤT (trong tiếng Phạn Buddha) là âm cổ hơn của Phật. Nếu dùng tử 子thay cho phất弗như ngài HT thì liên hệ này khó phát hiện hơn.

8) Cách giải thích Phật thường gặp trong các tài liệu TQ:

將“佛”字解構,人弗也。“弗”是象形字,按其甲骨文字形看,中僩像兩個不平直之物,上以繩索束縛,使之平直。其本義爲“矯枉”,《說文》徐灝注:“弗……凡弛弓,則以兩弓相背而縛之,以正枉戾,所謂矯也。”爲人要做到矯枉而不過正,使理智、情感和能力都同時達到最圓滿境地,所以,“佛”就是覺者,覺悟的人,是大智、大悲與大能的人。…v.v…

Tương " Phật " tự giải cấu , nhân phất dã . " Phất " thị tượng hình tự , án kỳ giáp cốt văn tự hình khán , trung gian tượng lưỡng cá bất bình trực chi vật , thượng dĩ thằng tác thúc phược , sử chi bình trực . Kỳ bổn nghĩa vi " kiểu uổng " , " Thuyết Văn " Từ Hạo chú : " phất ... phàm thỉ cung , tắc dĩ lưỡng cung tương bội nhi phược chi , dĩ chánh uổng lệ , sở vị kiểu dã . " Vi nhân yếu tố đáo kiểu uổng nhi bất quá chánh , sử lý trí , tình cảm hòa năng lực đô đồng thời đạt đáo tối viên mãn cảnh địa , sở dĩ , " Phật " tựu thị giác giả , giác ngộ đích nhân , thị đại trí , đại bi dữ đại năng đích nhân …v.v…

9) xem chi tiết trên mạng http://www.dyrb.com.cn/Article/hmzk/fczg/200907/24392.html hay http://www.sinology.cn/wkgx/thread-178840-1-1.html …v.v…

10) Thí dụ như trong vốn từ Hán có chữ bát 撥 bō fā giọng BK, but6 but2 put3 but3 giọng Quảng Đông - một dạng âm thượng cổ là *puat (so với *buot/buoc) nhưng nghĩa lại trái ngược với nghĩa phương Nam : phát ra, gẫy (chiết) ... so với buộc lại, giữ lại ... Đây là hàm ý sâu sắc của chữ Phật (bộ nhân và âm buộc - gợi ý đã là con người thì bị các mối ràng buộc/tam phọc).

粵語:but6 put3

Việt ngữ :but6 put3 (giọng Quảng Đông)

客家話:[梅縣腔] bat8 bat7 [台灣四縣腔] pat7 bat7 [客英字典] pat7 [陸豐腔] pat7 [東莞腔] pat7 [寶安腔] pat7 | pat8 [客語拼音字彙] bad5 [海陸豐腔] pat7 bat7

Khách Gia thoại :[ Mai huyền khang ] bat8 bat7 [Đài Loan tứ huyền khang ] pat7 bat7 [ Khách anh tự điển ] pat7 [ Lục phong khang ] pat7 [Đông Hoàn khang ] pat7 [ Bảo An khang ] pat7 | pat8 [ Khách ngữ bính âm tự vị ] bad5 [ Hải lục phong khang ] pat7 bat7

Trích từ http://www.zdic.net/zd/zi/ZdicE6Zdic92ZdicA5.htm

Điều này hỗ trợ cho dạng Bụt (Phật) nhập vào tiếng Hán (Cổ) qua trung gian tiếng Việt (Nam) chứ không phải từ tiếng Việt Quảng Đông!

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 7325)
“Thừa Tự”, theo quan niệm phong kiến xưa, có nghĩa là thọ hưởng của “hương hỏa” với trách nhiệm nối dõi việc thờ cúng Tổ tiên.
(Xem: 4509)
Nhà nghiên cứu phật học K.SCHMIDT1 đã có lần nêu lên những điểm tương đồng giữa tri thức luận của Kant và của Phật học,
(Xem: 4551)
Theo đức Phật, vũ trụ không có khởi nguyên, không có tận cùng và khoảng không vũ trụ vốn vô tận, gồm vô số thế giới như cát sông Hằng (Gangânadivâlukopama).
(Xem: 7286)
Phàm tất cả vạn pháp, vạn hữu trong vũ trụ được sanh ra và có mặt trên thế gian này đều có nguyên nhân, nguyên do đầu mối của nó.
(Xem: 2952)
Chữ khám phá ở đây rất chính xác. Không có sự truyền giáo của đạo Phật đến người Tây phương. Và, tuy người Âu châu khám phá đạo Phật rất trễ, nhưng đó là sự khám phá vô cùng lý thú.
(Xem: 12184)
“Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao Tăng làm sáng cho Phật giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ 6 mãi đến nay đều là các Thiền sư.”
(Xem: 3982)
“Nguyên nhân hình thành Phật giáo Đại Thừa” là một đề tài có phạm trù không rộng lắm, nên ít có người khảo sát và nguồn tư liệu về nó cũng rất hạn chế.
(Xem: 3794)
Những gợi ý dưới đây có thể giúp chúng ta lĩnh hội được ý nghĩa thâm sâu, khó hiểu của kinh một cách hiệu quả, đồng thời giữ gìn sự trung thực với nội dung của ý kinh.
(Xem: 4180)
Giải thoát nghĩa là cởi mở những dây ràng buộc mình vào một hoàn cảnh đau khổ nghịch ý.
(Xem: 3663)
Trong hệ thống kinh tạng Đại thừa, Pháp Hoa là một trong những bộ kinh quan trọng và phổ biến nhất.
(Xem: 5022)
Niết-bàn (Nirvana, Nibbana) là khái niệm của Phật giáo, một tôn giáo không công nhận và không thừa nhậnThượng Đế, có thần, có linh hồn trường cửu.
(Xem: 6646)
Bài này sẽ khảo sát một số khái niệm về các hiện tướng của tâm, dựa theo lời dạy của Đức Phật và chư Tổ sư
(Xem: 3992)
Tôi ngồi đây lắng nghe quý thầy cô tụng bài kinh Bát Nhã thật hay. Ví như ngài Huyền Trang ngày xưa tuyển dịch nhiều bài Tâm kinh như thế này để ...
(Xem: 4110)
Như Lai ngài đã du hành Đạo lộ tối thắng vượt trên các ca tụng Nhưng với tâm tôn kínhhoan hỷ Tôi sẽ ca tụng Đấng vượt trên ca tụng.
(Xem: 5327)
Quy nghĩa là “quay về, trở về” hay “hồi chuyển (tâm ý)”. Y là “nương tựa”. Quy Y cũng có nghĩa là “Kính vâng” hay “Phục tùng”. Tam là chỉ ba ngôi Phật, Pháp, Tăng.
(Xem: 3776)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả
(Xem: 4513)
Từ xưa đến nay, hàng xuất gia (Sa-môn, Bà-la-môn) tu hành không trực tiếp lao động sản xuất để tạo ra của cải vật chất nên đời sống phụ thuộc vào sự bố thí, cung cấp, cúng dường của hàng tín đồ tại gia.
(Xem: 3543)
Sống chếtvấn đề lớn nhất của đời người. Trong đạo Phật, chữ sanh tử (sống chết) là một từ được nhắc đến thuộc loại nhiều nhất
(Xem: 3920)
Kinh Kim Cang Bát Nhã được ngài Cưu Ma La Thập (344-413) dịch từ tiếng Phạn sang Hán văn, và được thái tử Chiêu Minh (499-529) chia bố cục ra 32 chương.
(Xem: 4383)
Đức Phật xuất hiện trên thế gian như mặt trời phá tan màn đêm u tối. Giáo pháp của Ngài đã mang lại những giá trị phổ quát cho...
(Xem: 5386)
Khái niệm Niết-Bàn không phải là sản phẩm bắt nguồn từ Phật Giáo, mà nó đã xuất hiện từ thời cổ đại Ấn Độ khoảng hơn 4,000 năm trước Tây Lịch.
(Xem: 3838)
Quán Thế Âm tiếng Sanskrit là Avalokitésvara. Thuật ngữ Avalokitésvara vốn bắt nguồn từ hai chữ Avalokita và isvara
(Xem: 3924)
Trong khi thế giới đang có nhiều biến động phức tạp, chiến tranh, khủng bố, thù hận diễn ra khắp nơi, mâu thuẩn chính trị, kinh tế, và văn hóa luôn là vấn đề nan giải.
(Xem: 3861)
Trong cõi đời, chúng ta phải chịu đựng những sự đau đớn, khổ não nơi thân và tâm, nhưng tâm bệnh có thể được chữa khỏi bằng Phật pháp.
(Xem: 4819)
Thiên Trúc (天竺) là tên mà người Trung Quốc thường gọi cho Ấn Độ cổ đại. Nó cũng được dịch “Trung tâm của cõi trời”, (nghĩa là trung tâm tinh thần);
(Xem: 4507)
Thông thường hai chữ tu hành đi đôi với nhau; sử dụng quá quen nên hiểu một cách chung chung, đã giảm tầm mức quan trọng mà tự thân nó mang một ý nghĩa sâu sắc.
(Xem: 4241)
Đã hơn 2500 năm kể từ khi Đức Phật Thích Ca đã nhập Niết Bàn. Hiện tại chúng ta sống trong thời đại gọi là “Mạt Pháp”, trong đó ta không thể nào thấy Đức Phật thực sự được nữa.
(Xem: 3823)
Pháp thân của chư Phật, là muốn nhấn mạnh đến loại pháp thân không còn ẩn tàng trong thân ngũ uẩn như pháp thân của chúng sinh.
(Xem: 4621)
Giáo lý Tam thân (trikāya), như đã được tất cả các tông phái Phật giáo Đại thừaTrung QuốcNhật Bản chấp nhận hiện nay
(Xem: 4181)
Ngày xưa chúng đệ tử của Đức Phật có nhiều hạng người khác nhau. Tùy theo căn cơ của mỗi người, Đức Phật áp dụng phương pháp giáo hóa khác nhau.
(Xem: 6091)
Ngày nay, chúng ta thấy hầu hết các ảnh, tượng của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đều được tạo hình có tóc, điều này khiến
(Xem: 4592)
“Chiếc đồng hồ của tôi không đánh số 1 đến 12 mà chỉ có ‘now’, ‘now’, ‘now’ để nhắc nhở rằng ta đang sống”,
(Xem: 4935)
Trong tác phẩm Jataka, truyện số 238 đã đề cập về chuyện một chữ (ekapadaṃ) nhưng có nhiều nghĩa (anekatthapadassitaṃ).
(Xem: 4154)
Về tiểu sửcông nghiệp của Huyền Trang (602-664) chúng ta đã có phần viết riêng trong phần phụ lục của sách Kinh Phật
(Xem: 4797)
Đã sanh làm kiếp con người, có ai mà không khổ? Cái khổ nó theo mình từ nhỏ đến khi khôn lớn, và sẽ khổ hoài cho tới...
(Xem: 5653)
Khi Bồ-tát Long Thọ nói “bất sanh bất diệt” thì hẳn nhiên trước đó phải có cái gì đó có sanh và diệt.
(Xem: 3630)
Trong nghĩa đơn giản nhất, tu Hạnh Bồ Tát là những người ra sức hoằng pháp và không muốn Chánh pháp bị đoạn đứt, bất kể người này có thọ giới Bồ Tát hay không.
(Xem: 4022)
Bài viết này sẽ khảo sát về Vô Tướng Tam Muội, một pháp môn ít được chú ý hiện nay.
(Xem: 4576)
Cứ mỗi lần chúng ta chứng kiến người thân qua đời là mỗi lần chúng ta đau xót, buồn rầu, vì từ nay chúng ta vĩnh viễn sẽ không bao giờ được nhìn thấy người thân yêu đó trên cõi đời này nữa.
(Xem: 5261)
Như các phần trước đã nói, chân tâm không sinh diệt và vọng tâm sinh diệt luôn tồn tại nơi mỗi con người chúng ta.
(Xem: 3130)
Thiền học là một môn học nhằm mục đích đào luyện trí tuệ để được giác ngộgiải thoát sanh tử mong đạt đến niết bàn tịch tịnh
(Xem: 4745)
Khi đức Phật đản sinh, trên trời có chín rồng phun hai dòng nước ấm mát tắm rửa cho Ngài
(Xem: 4530)
Mỗi độ tháng Tư về, trong tâm thức của những người con Phật đều hiển hiện hình ảnh huy hoàng Phật đản sinh bước đi trên bảy đóa sen
(Xem: 4278)
Phật giáo Đại thừa có cách nhìn nhận mới về đức Phật và lời dạy của ngài.
(Xem: 4733)
Đức Phật Thích Ca là một đức Phật lịch sử xuất hiện giữa thế gian để dẫn dắt chúng sinh thoát khỏi khổ đau, đạt đến an lạc giải thoát.
(Xem: 4480)
Con người được sanh ra từ đâu là một nghi vấn vô cùng nan giải cho tất cả mọi giới và mãi cho đến thế kỷ 21 này vấn đề con người vẫn còn phức tạp chưa được ai minh chứng cụ thể.
(Xem: 4586)
Kinh Pháp Cú dành riêng hẳn một phẩm gọi là “Phẩm Tỳ kheo” để đề cập tới các người xuất gia.
(Xem: 7201)
Cuộc sống biến đổi không ngừng, mỗi một thời gian, mỗi một thế hệ có cách sống và nghĩ suy ứng xử có khác nhau.
(Xem: 5190)
Trước hết, thời gian vật lý là khách quan và tồn tại bên ngoài tâm trí con người và là một phần của thế giới tự nhiên, thứ hai, thời gian tâm lý chủ quan và có sự tồn tại phụ thuộc vào ý thức.
(Xem: 4988)
Hôm nay nhân ngày đầu năm, tôi có vài điều nhắc nhở tất cả Tăng Ni, Phật tử nghe hiểu ráng ứng dụng tu để xứng đáng với sở nguyện của mình.
(Xem: 4572)
Huyễn: Có nhiều nghĩa như tạm bợ, hư dối, phù du, huyễn hoặc, ảo ảnh, thay đổi luôn luôn, có đó rồi mất đó, biến dịch hoài trong từng sát-na.
(Xem: 5597)
Ngạ quỷ nghe kinh là một trong những đề tài khá quen thuộc trong kinh Phật. Người phàm thì không ai thấy loài ngạ quỷ, trừ một vài trường hợp đặc biệt.
(Xem: 5260)
Từ thế kỷ trước, người ta đã tìm được rải rác các thủ cảo (manuscripts) kinh Phật cổ xưa nhất viết bằng văn tự Kharosthi chôn ở các di tích Phật giáo ở Gandhāra, Bắc Afghanistan.
(Xem: 4154)
Thư Viện Quốc Hội Mỹ đã công bố một văn bản quí hiếm từ 2.000 năm trước của Phật Giáo và văn bản cổ này đã giúp cho chúng ta ...
(Xem: 5996)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 4706)
Trước hết xin giới thiệu sơ lược những nét chính của hai bộ kinh Đại thừa lớn ở Ấn Độ mà chúng đã trở nên đặc biệt quan trọng trong Phật Giáo Đông Á.
(Xem: 4862)
Từ khi Đức Như Lai Thế Tôn thị hiện cho đến hiện tại là 2019, theo dòng thời gian tính đếm của thế nhân thì cũng đã gần 2600 năm.
(Xem: 5470)
Tôn giả Tịch Thiên (Shantideva) là con của vua Surastra, sinh vào khoảng thế kỷ thứ VII ở Sri Nagara thuộc miền Nam nước Ấn.
(Xem: 5602)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 5799)
Này các Tỳ-kheo, ta cho phép học tập lời dạy của Đức Phật bằng tiếng địa phương của chính bản thân (sakāya niruttiyā)
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant