Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Vài Suy Nghĩ Về Ý Nghĩa Đức Phật Chế Bát Kỉnh Pháp

12 Tháng Giêng 201610:46(Xem: 8947)
Vài Suy Nghĩ Về Ý Nghĩa Đức Phật Chế Bát Kỉnh Pháp

VÀI SUY NGHĨ VỀ Ý NGHĨA
ĐỨC PHẬT CHẾ BÁT KỈNH PHÁP

HT Thích Quang Đạo

Vài Suy Nghĩ Về Ý Nghĩa Đức Phật Chế Bát Kỉnh Pháp

 

Hiện nay, giới nghiên cứu Phật học đang lưu tâm đến vấn đề: “Bát kỉnh pháp do Đức Phật chế ra hay do người sau thêm vào trong Tam tạng giáo điển?”. Để hiểu rõ vấn đề này, chúng ta sẽ nghiên cứu từng kỉnh pháp và liên hệ với bối cảnh mà Bát kỉnh pháp ra đời.

1. Tỳ-kheo-ni dù 100 tuổi hạ cũng phải đảnh lễ một Tỳ-kheo vừa mới thọ giới một ngày.

Kỉnh pháp đầu tiên này, mới nhìn qua ta thấy Đức Phật bất bình đẳng đối với Ni giới, nhất là quý Ni trưởng, Ni sư. Nhưng trên thực tế, nếu bất cứ Tỳ-kheo-ni nào chí thành thực hiện với lòng tịnh tín và tâm hoan hỷ sẽ có những lợi ích như sau:

Về mặt tự lợi: Sẽ giúp các Tỳ-kheo-ni tiêu trừ tâm chấp ngã và thăng hoa đời sống tâm linh, hướng đến Niết-bàn an lạc (vì vô ngã là Niết-bàn).

Về mặt lợi tha: Việc tuân giữ kỉnh pháp này của chư Ni sẽ là điều cảnh tỉnh các Tỳ-kheo, đặc biệt là tân Tỳ-kheo, luôn phải biết quán chiếu tự thân, tu tập để làm sao xứng đáng với sự cung kính của chư Ni.

Các Tỳ-kheo-ni trưởng thượng, nếu tuân thủ một cách nghiêm ngặt kỉnh pháp này thì đối với chư Ni, nhất là những vị Ni trẻ, sẽ là một tấm gương sáng để các Ni noi theo, áp dụngtu tập đúng đường lối Đức Phật chỉ dạy thì chắc chắn sẽ hoạch thu được nhiều lợi ích.

Về mặt Tăng đoàn thì kỉnh pháp này được xem là bức tường thành kiên cố, góp phần ngăn cản những bất thiện pháp có thể xảy ra giữa hai bộ Tăng Ni, nhất là những Tăng Ni trẻ tuổi.

2. Tỳ-kheo-ni không được an cưmột trú xứ không có chư Tăng.

Kỉnh pháp này được chế định là vì lợi ích trực tiếp cho Tỳ-kheo-ni. Dù trong thời Đức Phật hay thời hiện tại, sự sinh hoạttu tập của Ni đoàn nếu được Tăng đoàn bảo hộ đúng như pháp sẽ góp phần an ổnlợi ích cho chư Ni trên lộ trình hướng đến giải thoát. Có ý kiến cho rằng, thời nay chư Ni đã có chùa, am, tịnh xá, tịnh thất…, đã có cửa đóng then gài, hoặc đã thuê được bảo vệ canh gác… thì không cần đến sự bảo hộ chư Tăng. Ý kiến này mới nghe qua có vẻ phù hợp, nhưng để tâm hơn vào nội dung tu tập của Tăng đoàn thì có điểm không hợp lý. Bởi vì sự bảo hộ ở đây không phải chỉ bảo hộ thân mạng, tài sản vật chất mà còn cả sự tu hành của chư Ni. Chẳng hạn như trong đại chúng Ni có xảy ra một sự cố bất như ý, làm mọi người phiền não; nội bộ Ni đôi khi bất lực trong việc xử lý thì phải nhờ đến sự can thiệp của Đại Tăng. Và chính nhờ tài đức của Đại Tăng sẽ góp phần ổn định cho sự sinh hoạt của Ni chúng. Vấn đề này từ xưa đến nay, thực tế đã xảy ra.

3. Mỗi nửa tháng đến ngày bố-tát, Tỳ-kheo-ni phải đến Đại Tăng cầu giáo giới.

Kỉnh pháp này được chế định cũng vì lợi ích thiết thực cho Tỳ-kheo-ni. Thời Đức Phật tại thế, Ngài giao trách nhiệm giáo giới chư Tỳ-kheo-ni cho những vị Trưởng lão Tỳ-kheo có uy tín. Thời nay những vị giáo thọ đi giáo giới chư Ni, hoặc do chư Ni thỉnh đích danh, hay do Đại Tăng đề cử thì phải đủ 10 điều kiện: Một là phải đủ 20 tuổi hạ, hai là giới luật phải vẹn toàn, ba là kiến thức phải rộng rãi, bốn là phải thông suốt hai bộ luật Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni, năm là quyết đoán rành mạch các vấn đề liên quan đến Giới luật, sáu là xuất thân từ một gia đình nề nếp, bảy là dung nghi đoan chánh, tám là thuyết pháp giỏi, chín là có khả năng thuyết pháp khiến mọi người hoan hỷ, mười là chưa từng phạm các trọng giới(Luật học tinh yếu, HT.Thích Phước Sơn biên soạn). Chư Ni được các vị giáo thọ hội đủ những điều kiện như trên giáo giới thì chắc chắn sẽ khai mở nhiều điều vướng mắc trong sinh hoạt cũng như tu tập. Chính vì mang lại nhiều lợi ích thiết thực như thế nên Đức Phật chế chư Ni phải đến Đại Tăng cầu giáo thọ trong ngày bố-tát.

4. Sau mùa an cư, chư Tỳ-kheo-ni phải đến cầu xin tự tứ với nhị bộ Tăng Ni.

Tự tứ có nghĩa là tùy hỷ thỉnh cầu, nghĩa là sau ba tháng an cư, đến giờ tự tứ, hành giả quỳ trước Đại Tăng để phát lồ (nói ra) những cái hay dở, tốt xấu… của mình, và cầu thỉnh Đại Tăng chỉ bảo cho mình ba việc: Thấy, nghe, nghi tội. Khi được Đại Tăng chỉ bảo xong, mình vui mừng đảnh lễ và xem Đại Tăng là bậc thiện tri thức đã trợ duyên cho mình tiến tu đạo giải thoát. Sau khi phát lồsám hối nghiệp chướng xong, tâm của hành giả tràn đầy hoan hỷan lạc. Đây là pháp hành giúp Tăng đoàn có sự tiến bộ tâm linh trong tinh thần thanh tịnhhòa hợp. Điều này vô cùng lợi ích cho chư Ni, giúp chư Ni đề đạt và thỏa mãn được những nguyện vọng chính đáng của mình giữa hai bộ Tăng Ni. Đây là truyền thống tốt đẹp, mang lại nhiều ích lợi cho chư Ni nên Đức Phật đã chế kỉnh pháp này.

5. Vị Ni phạm tội Tăng tàn phải đến trước nhị bộ Tăng Ni cầu xin hành pháp Ma-na-đọa trong nửa tháng.

Kỉnh pháp này giúp chư Ni phục hồi sự thanh tịnh cho một người phạm tội, giúp vị ấy trở lại sinh hoạt trong Tăng đoàn, dưới sự chứng minh của nhị bộ Tăng Ni. Lời dạy dỗ của vị giáo thọ đại diện Tăng đoàn có thể hướng dẫn và truyền trao kiến thức cho những Ni phạm tội nói riêng, đồng thời gián tiếp giáo giới chư Ni nói chung, cố gắng tu hành, đừng để vướng vào những tội như vậy. Bởi vì khi đã phạm tội thì tự thân đã đánh mất nhân cách, thương tổn phạm hạnh…, lại còn làm phiền đến chư tôn đức trưởng thượng trong nhị bộ Tăng Ni thì mình bị hao tổn phước đức rất lớn. Chính vì vậy, Đức Phật đã chế kỉnh pháp này.

6. Thức-xoa-ma-na tuân giữ sáu giới trong hai năm, muốn thọ Tỳ-kheo-ni phải đến trước nhị bộ Tăng Ni cầu xin.

Theo thiển ý, “Thức-xoa-ma-na tuân giữ sáu giới trong hai năm” được Đức Phật bổ sung vào kỉnh pháp này, khi Ni đoàn phát triển đông đảo. Bởi khi Đức Phật trao Bát kỉnh pháp cho Di mẫu Kiều Đàm thì chỉ có “muốn thọ Tỳ-kheo-ni phải đến trước nhị bộ Tăng Ni cầu xin”. Nhưng về sau, khi Ni đoàn được thành lậptrở thành tổ chức đầu tiên thể hiện sự bình đẳng cho giới nữ thì từ giai cấp vương tộc cho đến bình dân hạ tiện, giới nữ theo Đức Phật xuất gia đông đảo, lại xảy ra một trường hợp đặc biệt được ghi trong Luật tạng như sau: Có một phụ nữ xin gia nhập Ni đoàn mà không biết mình đang mang thai. Do trường hợp đặc biệt này, cô được phép vẫn giữ nếp sống của một Tỳ-kheo-ni để sanh con. Cô phải chịu nhiều trở ngại trong việc sinh hoạt của người vừa làm mẹ, vừa làm Nữ khất sĩ. Một hôm, vua Ba-tư-nặc đi ngang qua tịnh xá của cô ở, nghe đứa bé khóc la, vua ngạc nhiên dừng ngựa rồi đi vào tịnh xá nên biết được sự việc này, vua rất đau lòng và xin đứa bé mang về cung để nuôi dưỡng, đồng thời đem sự việc này trình bày với Đức Phật. Để tránh cho việc này không xảy ra trong Ni đoàn, Đức Phật đã thêm “Thức-xoa-ma-na tuân giữ sáu giới trong hai năm” bổ sung và hoàn thiện kỉnh pháp này. Chúng ta đã biết nguyên tắc chế giới của Đức Phật là “tùy phạm tùy chế”, việc bổ sung và hoàn thiện kỉnh pháp này cũng không ra ngoài điều lệ đó. Kỉnh pháp này sau đó trở thành điều kiện tiên quyết xác định người nữ đủ tiêu chuẩn xin thọ giới Tỳ-kheo-ni.

Còn việc “muốn thọ Tỳ-kheo-ni phải đến nhị bộ Tăng Ni cầu xin” cũng là vì lợi ích của Tăng Ni nhị bộ nên Đức Phật mới chế định. Tăng đoàn được thành lập trước Ni đoàn 8 năm, và trong đoàn thể ấy có rất nhiều vị đệ tử của Đức Phật là những bậc thượng thủ đã chứng quả A-la-hán, có đủ uy đức để dạy dỗ chư Ni. Ni đoàn thành lập sau, cho nên việc chư Ni nương vào và thông qua Đại Tăng để được thanh tịnh thọ giới Tỳ-kheo-ni là một việc hoàn toàn lợi ích. Vả lại, bối cảnh xã hội trọng nam khinh nữ, phân biệt giai cấp của đất nước Ấn Độ lúc đó, nếu Ni đoàn không nương tựa vào Tăng đoàn thì sẽ không thể tồn tại.  Hơn nữa, đoàn thể xuất gia đệ tử của Đức Phật bao gồm Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Thức-xoa-ma-na, Sa-di và Sa-di-ni, thế thì việc Ni đoàn thông qua Tăng Ni nhị bộ những vấn đề liên quan đến giới luật cũng là việc đúng nguyên tắc, thể hiện sự đoàn kết, thanh tịnhhòa hợp theo tinh thầnĐức Phật chế định. Chính những lý do nêu trên nên kỉnh pháp này có mặt để giúp cho sự tu tập và hưng thịnh của Ni giới vậy.

7. Vị Ni không được phép chửi rủa hay sỉ vả vị Tăng trong bất cứ trường hợp nào.

8. Chư Ni không được phép quở trách chư Tăng, chư Tăng được quyền quở trách chư Ni.

Kỉnh pháp thứ bảy và thứ tám cũng nói lên lợi ích trong đời sống cộng trú thanh tịnhhòa hợp của nhị bộ Tăng Ni, cũng là điều vô cùng cần thiết nhằm đem lại uy tínđạo hạnh cho từng cá nhân trong Ni đoàn. Tuy nhiên để giữ sự bình đẳng giữa hai đoàn thể Tăng và Ni, Đức Phật đã chế ra pháp Yết-ma cảnh cáo Tỳ-kheo cho Ni bộ trong ba trường hợp sau đây: “1. Nếu một Tỳ-kheo phá giới (trọng giới) phạm trai. 2. Nếu có Tỳ-kheo đánh mắng Tỳ-kheo-ni hoặc thóa mạ, hoặc ném hoa, tát nước, hoặc nói những lời thô bỉ, trá ngụy, khuyên dụ… làm cho chư Ni phiền não. 3. Nếu có vị Hòa thượng hoặc Thượng tọa nuôi đệ tử mà không dạy dỗ để đệ tử đến chùa Ni quậy phá, chư Ni thưa trình ba lần mà chú Sa-di không chịu sửa đổi”. Trong ba trường hợp này, chư Ni có quyền yết-ma tác pháp đối với  2 vị Tỳ-kheo và vị Hòa thượng hoặc Thượng tọa bổn sư của chú Sa-di bằng cách “không cộng ngữ, không lễ bái, không cúng dường” (Cương yếu giới luật, HT.Thích Thiện Siêu biên soạn).

Tóm lại, Bát kỉnh pháp do Đức Phật chế ra nhằm bảo hộ Ni đoàn, giữ gìn sự đoàn kết, thanh tịnhhòa hợp cho đoàn thể đệ tử xuất gia của Ngài. Ni đoàn có sự bảo hộ này sẽ yên ổntinh tấn tu tập, sớm thành tựu đạo quả. Đây chính là mục đích của sự có mặt Bát kỉnh pháp.

Xuyên suốt những vấn đề trên, nhìn lại thì Tăng đoàn nói chung hay các Tỳ-kheo nói riêng chẳng có được mất, hơn thua, hay lợi ích gì trong việc này cả. Việc bất bình đẳng trong Bát kỉnh pháp có chăng chỉ là nghiệp tánh, tức là sự khác biệt về nghiệp thức của người nam và người nữ mà thôi. Cho nên, Phật tánh thì bình đẳng nhưng nghiệp tánh thì có khác biệt giữa Tăng và Ni hay nam và nữ. Do đó, chúng ta không thể vin vào đây để nói Đức Phật đã bất bình đẳng, bất công bằng khi chế ra Bát kỉnh pháp dành cho chư Ni.

Hiểu được như vậy để thấy rằng, nếu khôngBát kỉnh pháp thì giới thể của Tỳ-kheo-ni không thành tựu; mà khi giới thể không thành tựu thì làm sao đạt được sự định tĩnh và trí tuệ giải thoát. Hiểu được như vậy để chúng ta khởi lòng tri ân vô hạn Đức Thế Tôn, bởi nếu không có sự đồng thuận của Ngài thì hôm nay đã không có mặt của Ni đoàn, không có tiếng nói làm căn bản cho tất cả các nhà nhân quyền, bình đẳng quyền… trên khắp hành tinh này. Hiểu được điều đó, chúng ta, những người con trai, con gái của Đức Phật phải có bổn phận giữ gìn gia tài quý báu ấy, phát nguyện dõng mãnh, tinh tấn tu hành để báo đáp thâm ân Phật-Tổ. 

HT Thích Quang Đạo

(Giác Ngộ)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 61)
Cuộc đời và công việc của Bồ tát được nói trong phần cuối đoạn Đồng tử Thiện Tài gặp đức Di Lặc.
(Xem: 144)
Trong khi các tín ngưỡng về nghiệp và tái sinh là phổ biến vào thời của Đức Phật,
(Xem: 167)
Đây là ba phạm trù nghĩa lý đặc trưng để bảo chứng nhận diện ra những lời dạy của đức Đạo sư một cách chính xác mà không
(Xem: 222)
Đi vào Pháp giới Hoa nghiêm là đi vào bằng bồ đề tâm thanh tịnh và được cụ thể hóa bằng nguyện và hạnh.
(Xem: 151)
Nhị đế là từ được qui kết từ các Thánh đế (āryasatayā) qua nhân quả Khổ-Tập gọi là Tục đế
(Xem: 203)
Quí vị không giữ giới luật có thể không làm hại người khác, nhưng thương tổn tự tánh cuả chính mình.
(Xem: 187)
Lầu các của Đức Di Lặc tượng trưng cho toàn bộ pháp giới của Phật Tỳ Lô Giá Na; lầu các ấy có tên là Tỳ Lô Giá Na Đại Trang Nghiêm.
(Xem: 222)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(Xem: 236)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 317)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 559)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 422)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 434)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 529)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 718)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 767)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 798)
Tóm tắt: Phật giáotôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 799)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 693)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 680)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 684)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 792)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 813)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 907)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 676)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 582)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 683)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 804)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 685)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 693)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 789)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 812)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 794)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 838)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 864)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 855)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 1042)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 916)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1578)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 1023)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1172)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 921)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1173)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 1086)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 1086)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1231)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1507)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 1941)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1054)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1317)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 1062)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 915)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 1041)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 1076)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1495)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1237)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1255)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 991)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1149)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant