Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Bản Dịch Việt 12 Kệ Tụng Quán Mười Hai Chi Của Duyên Khởi

17 Tháng Giêng 201614:41(Xem: 8154)
Bản Dịch Việt 12 Kệ Tụng Quán Mười Hai Chi Của Duyên Khởi

BẢN DỊCH VIỆT 12 KỆ TỤNG
QUÁN MƯỜI HAI CHI CỦA DUYÊN KHỞI

(Bản dịch Cưu-Ma-La-Thập thu gọn thành 9 kệ tụng)

Bản dịch Việt:  Đặng Hữu Phúc


Bản Dịch Việt 12 Kệ Tụng Quán Mười Hai Chi Của Duyên Khởi


Tụng 1.

Do vô minh che lấp,
chúng sinh tạo ba hành,
nên theo ba hành nghiệp (thân, ngữ, tâm)
vào luân hồi sáu cõi.

*

Tụng 2

Ba hành nghiệp quá khứ,
duyên thức đi sáu cõi.
Ở nơi thức an lập,
danh và sắc tăng trưởng.

*

Tụng 3

Danh và sắc tăng trưởng,
làm duyên sinh sáu xứ.
sáu xứ làm duyên,
nên sáu xúc sinh khởi.

*

Tụng 4

Mắt làm duyên cho sắc,
và thấy sắc trong tâm;
Cũng vậy, thức làm duyên,
danh và sắc sinh khởi.

*

Tụng 5

Khi mắt, sắc và thức
hội tụ gọi là xúc.
sáu xúc làm duyên,
thế nên thọ sinh khởi.

*

Tụng 6

Thọ làm duyên, ái sinh
theo đối tượng của thọ.
Ái làm duyên cho thủ,
bốn loại thủ hiện diện.

*

Tụng 7

Khi có thủ: có hữu
của kẻ thủ sinh khởi.
Không thủ: sẽ giải thoát
vì sẽ không có hữu.

*

Tụng 8

Hữu này là năm uẩn.
Từ hữu nên có sinh.
Già và chết, và sầu,
bi, khổ, và vân vân,

*

Tụng 9

cộng thêm ưu, não:
chúng đều đến từ sinh.
Những gì sinh khởi
khổ gắn vào năm uẩn.

*

Tụng 10

Gốc sinh tử: hành nghiệp.
Kẻ vô minh: tác giả.
Kẻ trí thấy pháp tính
và không là tác giả.

*

Tụng 11

Khi vô minh diệt tận,
hành nghiệp không sinh khởi.
Vô minh diệt do tuệ
và thiền Lý duyên khởi.

*

Tụng 12.

Chi vô minh này diệt,
nên chi sau cũng diệt,
mỗi chi làm sao sinh?
Nên khổ năm uẩn diệt.

---------------

Chú thích 1

Bản dịch Việt, Trung Luận, chương XXVI, căn cứ vào 5 bản dịch dưới đây:

1. Bản dịch Thupten Jinpa (2009) (dịch từ Tạng-Anh) trong The Dalai Lama . The Middle Way. Faith grounded in Reason. 2009

2. Bản dịch Ngawang Samten & Garfield (2006) (dịch từ Tạng- Anh). trong Tsong Khapa . Ocean of Reasoning. 12006

3. Bản dịch Sanskrit- English của K.K. Inada (1970, reprinted 1993)

4. Bản dịch Sanskrit – English của Louis de La Vallé Poussin 1970

5. Bản Trung luận thích—Thanh Mục, do La Thập dịch Hán, và Thiện Siêu dịch Việt (2001).

[1] Bản dịch Tibetan- English
The Dalai Lama. The Middle Way. Faith grounded in Reason. Translated by Thupten Jinpa. (2009)

1. Obscured by ignorance and for the sake of rebirth we create the three kinds of action; it is these actions constructing [existence] that propel us through transmigration.

2. With volition as its condition, consciousness enters transmigation.

Once conscious has entered, name and form come to be.

3. Once name and form have developed, the six sense spheres come into being.

Depending on the six sense spheres, contact come into being.

4. It arises only in dependence on eye, form, and apprehension; thus, in dependence on name and form, consciousness arises.

5. The convergence of the three - eye, form, and consciousness – this is contact; from contact feeling comes into being.

6. Conditioned by feeling is craving; one craves because of feeling;

When one craves, there is grasping; the four kinds of grasping [take place].

7. Where there is grasping, the becoming of the grasper thoroughly comes to be.

Were there no grasping, being free, there would be no becoming.

8. This becoming is also the five aggregates, and from becoming emerges birth. Aging, death, and sorrow, grief, suffering, and so on,

9. As well as unhappiness and agitation: these come from birth. What comes into being is only a mass of suffering.

10. The root of cyclic existence is action; therefore, the wise do not act. The unwise one is an agent; the wise one is an agent; the wise one, seeing suchness, is not.

11. When ignorance has ceased, action will not arise. Ignorance ceases through insight into meditation on suchness.

12. Through the cessation of this and that, this and that do not manifest; in this way the entire mass of suffering ceases completely.

________________________________

[2] Bản dịch Tibetan - English
Trích từ: Rje Tsong Khapa. Ocean of Reasoning.
Translated by Geshe Ngawang Samten and Jay. L. Garfield. (2006)

1. The three kinds of actions that lead to rebirth,

Performed by one obscured by ignorance,

Are the karma that impel one

To further transmigration.

2. Having action as its conditions,

Consciousness enters transmigration.

One consciousness has entered transmigration,

Name and form come to be.

3. Once name and form come to be,

The six senses come into being.

Depending on the six senses,

Contact comes into being.

4. That is only dependent

On eye and form and retention.

Thus depending on name and form,

Consciousness arises.

5. That which is assembled from the three –

Eye, and form and consciousness –

Is contact. From contact

Feeling comes to be.

6. Conditioned by feeling is craving.

Craving arises for feeling.

When one craves,

The four objects of appropriation will be appropriated.

7. When there is appropriation,

The existence of the appropriator arises.

If he did not appropriate,

Then being freed, he would not come into existence.

8. This existence is also the five aggregates.

From existence comes birth,

Old age, and death and misery and

Suffering and lamentation…

9. Unhappiness and agitation.

All these arise as a consequence of birth.

Thus what comes into being

Is only a mass of suffering.

10. The root of cyclic existence is action.

Therefore, the wise one does not act.

Therefore the unwise is the agent.

The wise one is not, because he sees reality.

11. With the cessation of ignorance,

Action will not arise.

The cessation of ignorance occurs through

Exercising wisdom in meditating on this.

12. Through the cessation of this and that,

This and that will not be manifest.

That which is only a mass of suffering

Will thus completely cease.

Note: Having abandoning ignorance, action will have ceased. Similarly, through the cessation of the earlier limbs – the “this and that”—the later limbs—“this and that”—will not arise.

____________________

[3] Bản dịch Sanskrit-English: K.K. Inada:
Chapter XXVI. Examination of the Twelvefold Causal Analysis of Being
Translated by K.K. Inada

1. Those who are deluded by ignorance create their own threefold mental conformations in order to cause rebirth and by their deeds go through the various forms of life.

Note: The three fold mental conformations refer to those related to the body, speech  and mind.

The various forms of life refer to the following: hellish beings, hungry spirits, beats, evil spirits, human beings and heavenly beings.

2. The consciousness (vijnana), conditioned by the mental conformations, establishes itself with respect to the various forms of life. When the consciousness is established, name (nama) and form (rupa) are infused or become apparent.

3. When name and form are infused or become apparent the six ayatanas (i.e. seats of perception) arise. With the rise of six ayatanas, touch evolves.

4. As in the composite relation nature of the eye and its material  form, consciousness arises in a similar relational nature of name and form.

5. The harmonious triadic nature of form, consciousness and eye issues forth touch. And from the touch arises feeling.

6. Relationally conditioned by feeling, craving arises because it “thirsts after” the object of feeling. In the process of craving, the fourfold clinging are seized.

Note: Reference to clinging of passions, dogmatic views, rigid rules of conduct, and selfhood (kama, drsti, sila, atman)

7. When there is clinging perception, the perceiver generates being (bhava) .When there is no clinging perception, he will be freed and there will be no being.

8. Being is (always in reference to) the five skandhas and from being birth arises. Old age - death, suffering, etc., misery, grief….(continues to next verse.)

9. ….despair and mental disturbance arise from birth. In this manner the simple suffering attached to the skandhas comes into being.

10. Consequently, the ignorant creates the mental conformations which form the basis of samsaric life. Thus the ignorant is the doer while the wise, seeing the truth (tattva), does not create.

11. When ignorance is banished mental conformations do not arise. But the extinction of ignorance is dependent upon the wisdom of practicing (the cessation of the twelvefold causal analysis of being).

12. By the cessation of the various links of the causal analysis, each and every subsequent link will not arise (i.e. become a hindrance). And thus this simple suffering attached to the skandhas is rightfully extinguished.

 ---------------

[4] Bản dịch  Sanskrit-English
XXVI. Analysis of the Twelvefold Chain of Interdependent Origination.
Translated by Louis de La Vallé Poussin

*

1. Three dispositions leading to rebirth are formed by

unexplained ignorance which moves by means of those actions.

2. Consciousness is connected  with past disposition and conditioning.

Wherein consciousness deeply enters, name and form [mind/body] is infused.

3. Where name and form is infused, six sense - spheres arise.

The six senses having arrived, contact comes forth.

4. Form and attention are dependent on the eye.

Name and form is dependent on consciousness coming forth.

5. The conjunction of the three, which are eye, consciousness, and form, is contact. And from contact, feeling comes forth.

6. Craving is conditioned by feeling, indeed, craves  because of feeling.

He is laid hold of by grasping fourfold craving.

7. Where grasping exists, the being who grasps is set in motion.

Indeed, if there would be no grasping, he would be released and there would be no being [who grasps].

8. He, the being, is five skandhas and from being, rebirth is set in motion, together with lamentations, afflictions, suffering, etc …, old age and death.

9. Together with despair, all this set in motion from birth.

Thus is the origin of this entire mass of suffering.

10. Hence the ignorant compose dispositions, the roots of samsara.

Therefore, the ignorant create while the wise, seeing reality, do not.

11. Since the destruction of dispositions is the cessation of ignorance,

cessation of ignorance is from the practice based on knowledge.

12. With the cessation of [ignorance], which [link on the causal chain] advance to what [next link]?

Thus the entire mass of suffering is rightly ceased.

------------

[5] Bản dịch Phạn- Hán của Ngài Cưu Ma La Thập
(Ngài thu gọn 12 bài tụng thành 9 bài)
Chương XXVI Quán thập nhị nhân duyên

*

1. Chúng sinh si sở phục
vi hậu khởi tam hành
dĩ khởi thị hành cố
tùy hành nhập lục thú.

*

2. Dĩ chư hành nhân duyên
thức thọ lục đạo thân
hữu thức trước cố
tăng trưởng ư danh sắc.

*

3. Danh sắc tăng trưởng cố
nhân nhi sinh lục nhập
tình trần thức hoà hợp
dĩ xưng ư lục xúc.

*

4. Nhân ư lục xúc cố
tức sinh ư tam thọ
dĩ nhân tam thọ cố
nhi sinh ư khát ái.

*

5. Nhân ái hữu tứ thủ
nhân thủ cố hữu hữu
nhược thủ giả bất thủ
tắc giải thoát vô hữu.

*

6. Tòng hữu nhi hữu sinh
tòng sinh hữu lão tử
tòng lão tử cố hữu
ưu bi chư khổ não.

*

7. Như thị đẳng chư sự
giai tòng sanh nhi hữu
đản dĩ thị nhân duyên
nhi tập đại khổ ấm.

*

8. Thị vị vi sinh tử
chư hành chi căn bản
vô minh chư sở tạo
trí giả sở bất vi.

*

9. Dĩ thị sự diệt cố
thị sự tắc bất sinh
đản thị khổ ấm tụ
như thị nhi chính diệt.

-----------------------

TRUNG LUẬN 
Bản dịch Việt:  HT Thích Thiện Siêu . 2001

1.  Chúng sinh bị ngu si che lấp, làm khởi lên ba hành nghiệp, vì khởi lên hành nghiệp ấy, nên phải theo hành nghiệpđi vào sáu nẻo.

2.  Vì nhân duyên của các hành nghiệp, nên nghiệp thức phải chịu mang thân trong sáu nẻo, vì có thức đắm trước nên làm tăng trưởng danh và sắc.

3.  Do danh, sắc tăng trưởng, nên sinh ra sáu nhập, sáu căn, sáu trần và sáu thức hòa hợp mà sinh ra sáu xúc.

4.  Nhân sáu xúc liền sinh ra ba thọ, nhân ba thọ mà sinh ra khát ái .

5.  Nhân khát ái mà có bốn thủ, nhân thủ mà có hữu, nếu người chấp thủkhông chấp thủ, thời được giải thoát không có hữu.

6.  Do hữu mà có sinh, do sinh mà có già chết, do già chết nên có các khổ não buồn lo.

7.  Các việc như vậy đều do sinh mà có, chỉ vì nhân duyên ấy mà tập thành thân ngũ uẩn đại khổ.

8.  Như thế gọi là sinh tử, do các hành nghiệp làm cội gốc, người vô minh gây tạo, còn người trí thì không làm.

9.  Do sự này diệt, nên sự kia không sinh; chỉ khi nào thân năm uẩn đau khổ được tịch diệt không sinh, như vậy mới là thật diệt.

---

Chú thích 2

Các bài về Mười hai chi của Duyên khởi

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 4996)
Phật giáo có hai hệ là Theravada và Phát-Triển. Hệ Theravada quan niệm quả vị cao nhất mà hành giảthể đạt được là quả vị A-La-Hán.
(Xem: 4384)
Định học là một chi phần quan trọng trong Tam vô lậu học giới, định, tuệ .
(Xem: 4671)
Trí tuệ là sự thấu hiểu, là kiến thức liên quan đến tư tưởng đạo đức giúp ta đi sâu vào đặc điểm và biểu hiện của các đạ o lộ thông qua sự nỗ lực tinh tấn.
(Xem: 4712)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau, nhưng...
(Xem: 5877)
Có một chuyện rất khoa học, tôi không bắt quý vị phải nhắm mắt tin Phật nhưng tôi cho quý vị một gợi ý.
(Xem: 3310)
Đối với một người đã giác ngộ, sẽ không còn thấy nữ tính và nam tính nữa. Với một số vị thường quán bạch cốt, sẽ thấy thân mình và người chỉ là một nhóm xương khô đang đi đứng nằm ngồi.
(Xem: 5280)
Long Thọ hay Long Thụ (Nāgārjuna) không phải chỉ là tổ của tông Trung Quán (Madhyamika),[1] trong lịch sử phát triển Phật giáo ngài được coi là vị Phật thứ hai sau Đức Thế Tôn
(Xem: 2946)
Hạnh phúctrạng thái cảm xúc khi ta thỏa mãn được nhu cầu nào đó của bản thân. Hạnh phúc khi được nhận. Có một loại hạnh phúc khác mà cảm xúc mang đến cho bạn nhiều hơn nữa: Đó là hạnh phúc từ sự cho đi.
(Xem: 4160)
Kỳ thực, trên đời này không ai có thể khiến chúng ta đau khổ ngoài chính bản thân mình, và cũng không ai có thể mang lại hạnh phúc cho chúng ta ngoài bản thân mình ra…
(Xem: 5299)
Bài kinh "Viết Trên Đá, Trên Đất, Trên Nước" là bài kinh ngắn, trích trong Kinh Tăng Chi Bộ, chương Ba, phẩm Kusinàra.
(Xem: 4277)
Đã gần vào Hạ mà đức Thế Tôn vẫn chưa khuyên giải được mâu thuẫn giữa hai nhóm Tỳ-kheo đều là đệ tử của Ngài.
(Xem: 3334)
Cuộc sống giản đơn sẽ tháo bỏ cho chúng ta những gông cùm trách nhiệm do chính chúng ta tự đeo vào cổ, giúp chúng ta có nhiều thời gian hơn để sống với những người thân yêu.
(Xem: 6368)
Bài kinh "Thanh Tịnh" là bài kinh ngắn, Đức Phật giảng cho các vị Tỷ-kheo khi Ngài còn tại thế.
(Xem: 5356)
Sa-môn (Samana), Tỳ-kheo (Bhikkhu) hay Bí-sô (Bhiksu) là những danh xưng chỉ cho vị tu sĩ Phật giáo.
(Xem: 4644)
Kinh Trung A-Hàm được dịch sang Hán đầu tiên vào niên hiệu Kiến Nguyên năm thứ mười chín (383) do một nhóm các vị tăng nhân người Ấn Độ nói chung thực hiện.
(Xem: 6260)
Trung đạo (madhyamā-pratipad) là con đường tu tập được kinh nghiệm từ chính Đức Phật.
(Xem: 6120)
Tâm lý thường tình của con người là tò mò, ưa những điều lạ lùng, kỳ dị và khác thường vì họ đã quá quen với cuộc sống bình thường, nên ...
(Xem: 3909)
Chúng sinh trong cõi “Dục giới” luôn chạy theo tìm cầu để hưởng thụ năm thứ dục lạc nên gọi là ngũ dục. Ngũ dục, chính là năm thứ sắc, thanh, hương, vị, xúc.
(Xem: 6045)
Tứ động tâm là bốn Thánh tích thiêng liêng của Phật giáo tại Ấn Độ, ghi dấu bốn sự kiện trọng đại trong cuộc đờisự nghiệp hoằng hóa của Đức Phật Thích Ca.
(Xem: 4650)
Về mặt ngôn từ, thì chữ “công đức” là được dịch nghĩa từ chữ “punna” trong tiếng Pali. Tiếng Anh dịch thành chữ “merit”.
(Xem: 4809)
Nguyên nhân của sanh tử được nêu rõ trong Thập nhị nhân duyên, thuộc giáo lý căn bản của Phật giáo.
(Xem: 3401)
tại gia hay xuất gia, chúng ta đến với đạo Phật nhưng chỉ biết những hình thức cúng kiếng, lễ lạy
(Xem: 6298)
Uẩn, thuật ngữ Pāli là khandha (Skt: skandha) thường được dịch sang tiếng Anh là ‘aggregates’ uẩn.
(Xem: 4963)
Ba-la-mật (pāramī or pāramitā) là các pháp hành để hoàn thiện nhân cách được nói đến trong kinh điểnchú giải, nhất là phần Hạnh Tạng thuộc Tiểu Bộ kinh.
(Xem: 3559)
Nói đạo Phật là đạo “cứu khổ ban vui” nhưng kỳ thực chẳng có ai ‘cứu’ mà cũng không ai ‘ban’ cho cả.
(Xem: 3485)
Mọi hiện tượng và sự vật trên thế gianhoàn vũ này không bao giờ độc lậptồn tại, mà do nhân duyên hòa hợp tạo thành.
(Xem: 5693)
Quan điểm thống nhất trong kinh điển là: sát sanh vi phạm giới luật đầu tiên và chiến tranh là sai lầm ngay cả khi chiến đấu cho mục tiêu phòng thủ hay tấn công.
(Xem: 4259)
Narayan Helen Liebenson, Geshe Tenzin Wangyal Rinpoche và Blanche Hartman chia xẻ lời khuyên của họ về việc làm sao để ứng phó với các giai đoạn trầm cảm.
(Xem: 6015)
Niết-bàn là phước lạc tối thượng, một trạng thái hạnh phúc vĩnh cửu. Không thể trải nghiệm hạnh phúc của Niết-bàn bằng các giác quan mà bằng cách làm cho chúng tịch lặng.
(Xem: 5257)
Trong những bài pháp ngắn gọn, súc tích nhất để hướng dẫn tu hành khi chưa có giới bổn Patimokkha, Chư Phật đã chỉ ra con đường sống đạo,
(Xem: 3694)
Định hướng cuộc đời để đạt được mong muốn thích đángyếu tố quan trọng giúp cho ta thăng tiến trên đỉnh cao của sự giác ngộgiải thoát.
(Xem: 3774)
Hơn bao giờ hết, những bản dịch kinh điển rõ ràng dễ hiểu, được chú giải thận trọng, được thẩm định kỹ lưỡng trước khi đến tay người học Phật đang là một nhu cầu hết sức cấp thiết và quan trọng.
(Xem: 3713)
Nếu đời là vô thường, sự sống có giới hạn thì phải chăng con người ta khi sống nên có một chút ý nghĩa. Bạn ước mong gì?
(Xem: 3539)
Mong ước của tôi là chúng ta sẽ có dịp đồng hành cùng nhau trên hành trình tâm linh siêu việt của bạn.
(Xem: 5370)
“Tất cả những cảm thọ mà một người nhận chịu dầu đó là lạc thọ, khổ thọ hay vô ký thọ đều là kết quả của Nghiệp quá khứ, người nào quan niệm như vậy là tà kiến”.
(Xem: 4031)
Đức Phật là đấng đạo sư, là bậc thầy của nhân loại, nhưng ngài cũng là nhà luận lý phân tích, nhà triết học, nhà giáo dục vĩ đại. Kinh tạng Pāli cho chúng ta thấy rõ về các phương pháp giảng dạy của đức Phật một cách chi tiết. Tùy theo từng đối tượng nghe pháp mà Ngài có phương thức truyền đạt khác nhau.
(Xem: 4383)
Đất Phù Nam (Funan) bao trùm cả một phần Việt Nam, Căm Bốt (Cambodia), Mã Lai (Malaysia) và Thái Lan (Thailand).
(Xem: 5834)
Nhiều người không sinh ra trong gia đình Phật Giáo, nhưng đã tìm học về Phật Giáo nhờ nghe luật Nghiệp Báo
(Xem: 3139)
Thế Tôn thật sự là vị đã đoạn trừ nhiều khổ pháp cho chúng ta. Thế Tôn thật sự là vị đã mang lại nhiều lạc pháp cho chúng ta.
(Xem: 3080)
Đạo từ tâm sinh. Đi học đạo là học cho ta, để nhận chân được tự tâm, để tạo nên cái phẩm giá của ta
(Xem: 3881)
Người ngu si thiếu trí tuệ biến tự ngã của mình thành kẻ thù, lại tưởng kẻ thù của mình ở bên ngoài nhưng chính mình là kẻ thù của mình đó.
(Xem: 4871)
"Nầy các Tỳ Kheo, ta sẽ giảng dạy, và phân tích cho các ông nghe về con đường cao quý có tám phần. Khi ta nói, các ông hãy chú ý và lắng nghe."
(Xem: 3583)
Nếu tâm hồn biết thầm lặng kết “bạn đường” với thánh hiền tôn giáo, với các nhà hiền triết tâm linh, thì NĂNG LƯỢNG MẦU NHIỆM sẽ hiện hữu...
(Xem: 3069)
Có thể nói ngày nay, chiến tranh, hận thù, thương yêu, ghét bỏ, kỳ thị, náo động trên thế giới… đều do tà kiến mà ra.
(Xem: 4599)
Luật nhân quả có lẽ ai cũng biết và hầu như ít nhiều ai cũng tin. Tuy nhiên, để có được niềm tin không lay chuyển vào quy luật tự nhiêncông bằng ấy thì lại không dễ,
(Xem: 4750)
Tâm là chủ thể tiếp nhận các đối tượng từ bên ngoài lẫn bên trong. Khi đang ngủ say, thì tâm được cho là trống rỗng, hay nói cách khác, đó là trạng thái vô thức
(Xem: 3467)
Không ai có thể nói trước được chuyện gì sẽ xảy ra ở ngày mai, mặc dù ngày mai mặt trời vẫn lên.
(Xem: 4007)
Nhà Phật thường nhắc đến đạo lý sống Trung Đạo. Cái gọi là Trung Đạo chính là không đi theo hướng cực đoan, quá mức.
(Xem: 4746)
Nhiều trường phái Phật Giáo ngày nay vẫn tụng Kinh Pali, ngôn ngữ của Đức Phật lịch sử.
(Xem: 3590)
Hiện nay, quý vị trẻ thường thích thể hiện mình theo nhiều cách mà mọi người vẫn thường gọi chung chung là muốn khẳng định cái tôi.
(Xem: 3615)
Sắc thanh hương vị xúc pháp cấu thành thế giới của con người chúng taduyên sanh, vô tự tánh, bất khả đắcvô sở hữu
(Xem: 5165)
Pháp ấn, tiếng Phạn dharma-mudrā, trong đó dharma là pháp, là những lời dạy của Đức Phật, mudrā là dấu ấn, là khuôn dấu, là đặc chất, là tiêu chuẩn.
(Xem: 4177)
Phật giáo cho rằng, mọi việc thành bại, li hợp ở đời đều không nằm ngoài nguyên tắc "nhân duyên quả báo".
(Xem: 3304)
Buông bỏ phiền não, trước hết là để giải tỏa mọi ưu tư, khiến người ta hạnh phúc.
(Xem: 3008)
Có những nhân quảnhân tạo trong đời này nhưng quả có khi phải qua đời sau hoặc những đời sau mới trỗ.
(Xem: 3046)
Sự quán sát, quán chiếu khởi từ danh tướng - danh là hương, là vị; tướng là những tính chất đặc trưng của chúng
(Xem: 3127)
Phật tử, tôi tâm đắc phần thuyết giảng về ái ngữ của Thiền sư Thích Nhất Hạnh
(Xem: 3122)
Ai cũng mong trong cuộc sống có rất nhiều niềm vui và thật ít nỗi buồn.
(Xem: 3493)
Con người bình thường, khỏe mạnh là một thể thống nhất hài hòa giữa hai yếu tố thân và tâm hay thể xác và tinh thần.
(Xem: 4021)
Người khéo tu lúc nào cũng nhớ quay lại mình, nhận ra và sống được với Tâm chân thật, ngoài ra tất cả đều vô thường hư ảo, không cần chú tâm làm gì.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant