Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tôi Không Tin Vào Những Hệ Tư Tưởng

26 Tháng Giêng 201611:09(Xem: 8061)
Tôi Không Tin Vào Những Hệ Tư Tưởng

TÔI KHÔNG TIN VÀO NHỮNG HỆ TƯ TƯỞNG

Đức Đạt Lai Lạt Ma
Tuệ Uyển chuyển ngữ

Tôi Không Tin Vào Những Hệ Tư Tưởng

 

Nhân Loại Là Một

CỘNG ĐỒNG NHÂN LOẠI đã đến một điểm nghiêm trọng trong lịch sử của nó. Thế giới ngày nay khiến chúng ta phải chấp nhận nhân loại là một. Trong quá khứ, những cộng đồng khác nhau có thể cho phép họ nghĩ rằng họ là riêng biệt. Nhưng ngày nay, như những sự kiện bi thảm gần đây ở Hoa Kỳ đã cho thấy, những gì xảy ra trong một nước ảnh hưởng đến nhiều xứ khác. Thế giới đang trở thành càng ngày càng liên hệ hổ tương hơn. Trong phạm vi của mối liên hệ hổ tương mới này, việc quan tâm chính mình đòi hỏi lưu ý đến những quan tâm của người khác. Không có sự thấu hiểu và thúc đẩy ý nghĩa trách nhiệm toàn cầu của chúng ta, thì tương lai của chúng ta tự nó bị đe dọa. Tôi tin tưởng một cách vững chắc rằng chúng ta phải trau dồi một cảm nhận lớn hơn về trách nhiệm toàn cầu. Chúng ta phải nghiên cứu để hành động không phải cho chính chúng ta, gia đình chúng ta, hay quốc gia của chúng ta, nhưng vì sự tốt lành của nhân loại. Trách nhiệm toàn cầu là căn bản khả dĩ nhất để bảo đảm cho hạnh phúc cá nhân và hòa bình thế giới. Nó  hàm ý rằng tất cả mọi người được tiếp cận bình đẳng những nguồn tài nguyên thiên nhiên, bằng việc bảo vệ môi trường cho những thế hệ tương lai. Nhiều vấn nạn trên thế giới phát sinh vì chúng ta đã đánh mất nhãn quan nhân loại căn bản vốn đã thống nhất tất cả những thành viên của gia đình loài người. Chúng ta có khuynh hướng quên lãng rằng mặc dù có sự khác biệt về chủng tộc, tôn giáo, văn hóa, ngôn ngữ, và tư tưởng, nhưng tất cả có một quyền bình đẳngcăn bản với hòa bình và hạnh phúc. Mỗi chúng ta muốn hạnh phúc và không muốn khổ đau. Tuy thế, mặc dù một cách lý thuyết, chúng ta ca ngợi sự đa nguyên, bất hạnh thay chúng ta thường thất bại trong việc đem nó vào thực hành. Trong thực tế, bất lực trong việc nắm lấy tính đa dạng của chúng ta đã trở thành một nguồn gốc quan trọng cho xung đột giữa những dân tộc.

Liên Hệ Nhân Duyên Hổ Tương Là Quy Luật Của Tự Nhiên

LIÊN HỆ HỔ TƯƠNG  là một quy luật nền tảng của tự nhiên. Nó liên quan nhiều hơn chỉ là hình thức tiến hóa hơn của cuộc sống, vì ngay cả những côn trùng bé nhỏ cũng là những chúng sanh xã hội đã tồn tại, căn cứ trên việc nhận thức bẩm sinh về sự tương quan của chúng, cho dù côn trùng vốn không có một chút tôn giáo, luật lệ hay giáo dục nào, cảm ơn sự hợp tác hổ tương. Vô số hình thức của sự sống cũng như những trình độ vi tế nhất của những hiện tượng vật chất bị chi phối bởi tính liên hệ nhân duyên hổ tương. Tất cả những hiện tượng trên hành tinh mà chúng ta đang sống, từ những đại dương đến những đám mây, những khu rừng, và những bông hoa chung quanh chúng ta, vốn tồn tại trong sự lệ thuộc phù hợp với những hình thức vi tế của năng lượng. Không có sự tương tác thích đáng, chúng sẽ tàn  hoại và biến mất.

Một Cảm Nhận Trách Nhiệm Được Sinh Khởi Từ Lòng Từ Bi

TÂY TẠNG CHÚNG TÔI nói rằng nhiều bệnh tật có thể được chửa trị duy nhất bằng phương thuốc của từ ái và bi mẫn. Những phẩm chất này là nguồn gốc tột cùng của hạnh phúc, và chúng ta cần chúng trong chiều sâu thẩm nhất của con người.

Bất hạnh thay, từ ái và bi mẫn vốn đã bị khai trừ khỏi rất nhiều lãnh vực của sự tương tác xã hội, từ lâu lắm rồi. Bị giam hảm trong môi trường riêng tư gia đình, cho nên những biểu lộ công cộng của chúng được xem là ngượng ngùng hay ngay cả ngây thơ. Đây là một bi kịch, vì trong ý kiến của tôi sự biểu lộ của từ bi, hoàn toàn không là một dấu hiệu của chủ nghĩa lý tưởng xa rời thực tế, nhưng là cách hiệu quả nhất để phục vụ những sự quan tâm của người khác cũng như của chính chúng ta.

Một tâm thức dâng hiến cho từ bi, giống như một hồ chứa đầy tràn: nó là một cội nguồn liên tục của năng lượng, quyết tâm, và thánh thiện. Chúng ta có thể so sánh từ bi như một hạt giống. Nếu chúng ta nuôi dưỡng nó, nó sẽ làm thành một sự rộ nở những phẩm chất tuyệt vời khác một cách phong phú, chẳng hạn như tha thứ, bao dung, sức mạnh nội tại, và tự tin, cho phép chúng ta chinh phục sợ hãi và băn khoăn. Tâm từ ái bi mẫn giống như linh đan diệu dược: nó có sức mạnh đảo ngược những nghịch cảnh thành những hoàn cảnh thuận lợi. Do thế, chúng ta không nên giới hạn biểu lộ của chúng ta về từ ái và bi mẫn chỉ cho gia đình và bạn bè chúng ta. Từ bi cũng không là trách nhiệm đơn thuần của những giáo sĩ, nhân viên bảo vệ sức khỏe và  xã hội. Nó nhất thiết phải quan tâm đến tất cả mọi lãnh vực của cộng đồng nhân loại.

Khi một xung đột phát sinh từ lãnh vực chính trị, thương mại, hay tôn giáo, sự tiếp cận vị tha thường là giải pháp khả dĩ duy nhất. Đôi khi những sự tranh luận được sử dụng như phương tiện của hòa giải thì tự chính nó là nguyên nhân của rắc rối. Trong một trường hợp như thế, khi một giải pháp dường như không thể, cả hai phía nên nhớ nền tảng nhân bản tự nhiên mà thông thường họ có. Như thế sẽ giúp họ tìm ra một lối thoát cho ngõ cụt, và về lâu về dài mọi  người có thể đạt đến mục tiêu của họ một cách dễ dàng. Rất có thể là không ai sẽ hoàn toàn hài lòng, nhưng nếu cả hai phía đều nhượng bộ, tối thiểu hiểm họa của xung đột sẽ được xoa dịu. Tất cả chúng ta đều biết rằng những sự hứa hẹn như thế là cách tốt nhất để giải quyết những vấn nạn. Vậy thì tại sao chúng ta không sử dụng chúng thường xuyên hơn?

Khi quán chiếu về sự thiếu vắng hợp tác trong xã hội, tôi tự nói với mình rằng đó là qua sự si mê hay không biết bản chất liên hệ hổ tương của chúng ta. Tôi thường xúc động bởi những côn trùng nhỏ như những con ong. Những quy luật tự nhiên ra lệnh chúng làm việc với nhau để tồn tại, vì chúng được phú cho một cảm nhận bẩm sinh về trách nhiệm xã hội. Chúng không có hiến pháp, luật lệ, cảnh sát, tôn giáo, hay giáo dục đạo đức, nhưng chúng làm việc một cách trung thành với nhau do bởi bản chất của chúng. Có những lúc chúng có thể phải chiến đấu, nhưng trong tổng quát toàn bộ bầy đàn tồn tại, cảm ơn sự hợp tác. Con ngườihiến pháp, những hệ thống hợp pháp phức tạp và lực lượng cảnh sát, tôn giáo, sự thông minh phi thường, và những trái tim được phú cho năng lực của yêu thương. Nhưng mặc cho những phẩm chất ngoại hạng như vậy, trong sự thực tập thật sự chúng ta tụt hậu xa những con côn trùng nhỏ nhất. Trong những cách nào đó, tôi cảm thấy rằng chúng ta tệ hơn những con ong.

Mặc dù chúng ta là những động vật xã hội, buộc phải sống với nhau, nhưng chúng ta thiếu một cảm nhận trách nhiệm đối với những đồng loại con người của chúng ta. Có phải sự sai sót vốn ở trong cấu trúc căn bản của gia đình và xã hội? Tôi không nghĩ như thế.

Tôi nghĩ rằng mặc cho những sự tiến bộ nhanh chóng mà nền văn minh đã thực hiện trong thế kỷ qua, nhưng nguyên nhân trước mắt của tình trạng hiện tại là việc dành đặc quyền cho tiến trình vật chất trên tất cả những thứ khác. Chúng ta đã buông mình một cách thật điên cuồng vào mục tiêu của nó mà chúng ta đã quên lãng việc chú ý và những nhu cầu thiết yếu của yêu thương, ân cần, hợp tác, và chăm sóc. Thật rõ ràng đối với tôi là một cảm nhận xác thật về trách nhiệm chỉ có thể thúc đẩy nếu khi chúng ta phát triển từ bi. Chỉ một cảm giác tự nhiên của thấu cảm đối với người khác mới có thể động viên chúng ta hành động nhân danh họ.

Chiến Tranh Là Một Việc Lỗi Thời

CHIẾN TRANH, hay bất cứ hình thức nào của việc tổ chức chiến đấu, được phát triển cùng với nền văn minh và dường như là một bộ phận của lịch sửtính khí con người.

Tuy nhiên, thế giới đang thay đổi, và chúng ta phải hiểu rằng chúng ta không thể giải quyết những vấn nạn của loài người với vũ khí. Những sự tranh chấp vốn kết quả từ những sự khác biệt ý kiến phải nên được dàn xếp dần dần qua đối thoại.

Rõ ràng, những cuộc chiến tranh sản sinh ra những kẻ chinh phục và người bị chinh phục, nhưng chỉ tạm thời. Những sự chiến thắng hay chiến bại hệ quả từ những cuộc chiến tranh không thể tồn tại lâu. Hơn thế nữa, thế giới chúng ta đã trở thành quá liên hệ hổ tương với nhau mà sự chiến bại của một xứ sở có những tiếng vang khắp thế giới còn lại và đưa một cách trực tiếp hay gián tiếp nổi khổ hay mất mát cho mỗi chúng ta.

Ngày nay, trong một thế giới liên hệ hổ tương như vậy, khái niệm về chiến tranh dường như lỗi thời, phát xuất từ những thái độ cổ lỗ sĩ của chúng ta. Chúng ta luôn luôn nói về sự đổi mới và thay đổi. Nhiều truyền thống từ quá khứ không còn thích hợp với hiện tại và ngay cả là chướng ngại ẩn tàng và vì vậy đã bị bỏ vào thùng rác của lịch sử. Chiến tranh cũng nên được ký gửi cho thùng rác của lịch sử.

Bất hạnh thay, mặc dù chúng ta đã đi vào thế kỷ 21, nhưng chúng ta chưa thực hiện sự cắt đứt rõ ràng với những thói quen quá khứ: tôi ám chỉ đến sự tin tưởng rằng chúng ta có thể giải quyết những vấn nạn với vũ khí. Chính là do bởi ý tưởng này mà thế giới tiếp tục trải nghiệm tất cả những loại khó khăn. Nhưng chúng ta nên làm gì? Điều gì nên được hoàn tất khi mà những cường quốc quan trọng trên thế giới đã có những quyết định của họ rồi? Chúng ta có thể mong cầu cho một sự chấm dứt dần dần đối với truyền thống chiến tranh.

Đương nhiên, chúng ta không thể chấm dứt truyền thống quân sự một cách dễ dàng. Nhưng hãy nghĩ về điều ấy. Nếu có một sự chém giết, người có quyền hay những lãnh tụ sẽ có những nơi trú ẩn an toàn; họ sẽ trốn khỏi những hậu quả đau đớn bằng việc tìm ra những nơi ẩn náo. Nhưng điều gì sẽ xảy ra cho những người nghèo, con nít, người già, người bệnh? Họ là những kẻ sẽ phải chịu đựng sự xung đột.

Khi vũ khí nói chuyện, chúng sẽ tạo ra sự chết chóc và tàn phá mà không phân biệt giữa kẻ vô tội và người tội lỗi. Những hỏa tiển được kẻ thù phóng đi không tôn trọng người vô tội, người nghèo, người không có khí giới - chính những người xứng đáng với lòng từ bi. Như một kết quả, những người mất mát thật sự là những người có đời sống giản dị.

Điểm tích cực duy nhất: những tổ chức từ thiện mang thuốc men và vật dụng cứu trợ nhân đạo và len lõi trong những vùng bị tan nát bởi những cuộc xung đột. Việc phát triển những tổ chức này là một chiến thắng của trái tim trong kỷ nguyên hiện đại.

Hãy hy vọngcầu nguyện để hoàn toàn không có chiến tranh, nếu có thể. Nếu một cuộc chiến tranh bùng nổ, chúng ta hãy cầu nguyện để có thể chỉ có sự chém giết và khổ đau tối thiểu. Tôi không biết sự cầu nguyện của chúng ta sẽ có đem đến bất cứ sự trợ giúp nào  không, trong hình thức cụ thể, nhưng đó là tất cả mà chúng ta có thể làm lúc này.

***

Tuyên bố này được thực hiện ở Dharamsala ngày 11 tháng Ba năm 2003, khi hiểm họa của cuộc chiến ở Iraq đang ló dạng. Sáu tháng sau, tháng 10 năm 2003, trong khi đang giảng dạy ở Paris, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã nói rằng, trong những sự buộc tội chống lại lãnh tụ Iraq, Saddam Hussein, không đề cập nào được thực hiện về sự kiện rằng những vũ khí của nhà độc tài đã được làm với việc sử dụng những kỷ thuật phương Tây. Ngài chỉ ra rằng sự tham lam của những kẻ buôn bán vũ khí nên được lên án cùng với kẻ bạo chúa khát máu.

Tháng Giêng 2009 ở Sarnath, Đức Đạt Lai Lạt Ma nhắc lại thí dụ này nhằm để làm sáng tỏ sự lệ thuộc hổ tương và nhu cầu của mỗi con người nên nhận thấy trách nhiệm toàn cầu mà tất cả chúng ta chia sẻ và việc nhận ra rằng một hành vi nhỏ nhất cũng ảnh hưởng đến thế giới.

Mỗi Người Phải Gánh Vác Sự Chia Sẻ Trách Nhiệm Toàn Cầu

TÔI KHÔNG TIN TRONG việc tạo ra các phong trào quần chúng hay trong những hệ tư tưởng. Và tôi cũng không đánh giá cao kiểu tạo ra một tổ chức nhằm để thúc đẩy một ý tưởng này hay nọ, là điều hàm ý rằng một nhóm nhỏ chịu trách nhiệm đơn thuần trong việc đưa ra một chương trình nào đó, với việc loại trừ những người khác. Trong những hoàn cảnh hiện tại, không người nào nên cho rằng người khác nào đó sẽ giải quyết vấn đề của ta. Mọi người phải đảm đương sự chia sẻ của chính mình trong trách nhiệm toàn cầu. Cách này, như con số được quan tâm, những cá nhân chịu trách nhiệm sẽ gia tăng - những chục người đầu tiên, rồi hàng trăm, hàng nghìn và ngay cả hàng trăm nghìn - không khí phổ quát sẽ được cải thiện.

***

Đức Đạt Lai Lạt Ma không tán thành những hệ tư tưởng nào vốn làm con người xa rời với sự nhận thấy cần thiết gánh vác tính nhân bản tròn vẹn của họ. Vị thế mới nhất của Đức Đạt Lai Lạt Ma cốt đặt trọng tâm việc giải quyết những rắc rối về con ngườiđạo đức.

Từ bi là lẽ thật của con người, và nó hình thành bằng việc phát triển thái độ vị tha trên trình độ cá nhân. Trên trình độ toàn cầu, từ bi hướng đến việc phát triển trách nhiệm toàn cầu. Trong thời kỳ toàn cầu hóa lịch sửvăn minh, tất cả chúng ta gánh vác sự chia sẻ của chúng ta về trách nhiệm toàn cầu dù cho chúng ta sống ở nơi nào đi nữa. Mỗi hành động cá nhânảnh hưởng rộng khắp. Lãnh vực hành động của mỗi người đã trở thành toàn cầu, với sự tự do cá nhân kết hợp những nhiệm vụ lẫn quyền lợi.

Như một kết quả sự lệ thuộc hổ tương của chúng ta, việc làm kiệt quệ một quốc gia, một dân tộc, hay một nền văn hóa tước đi của nhân loại sự đa dạng phong phú của nó, một sự chia sẻ không thể thay thế. Việc tấn công vào những quyền căn bản của một người trở thành một sự tấn công vào phẩm cách của tất cả.

Điều gì hơn thế  nữa, theo Đức Đạt Lai Lạt Ma, việc nhận biết trách nhiệm toàn cầu nên mở rộng đến thế giới khoa học. Vì chân giá trị của con người bị coi thường không chỉ bởi sự áp chế của cảnh sát và sự chuyên chế của chính quyền hay bởi sự xung đột quân sự. Đạo đức trung thực trong nhiều thập niên đã phải đối diện với một sự thử thách mới trở thành cấp thiết hơn khi khoa học và kỷ thuật tiếp tục hiện thực những tiến bộ mới. Những kỷ luật này bây giờ có sức mạnh để vận dụng các mã di truyền thật sự trong đời sống.

Để cho phép khoa học gánh vác trách nhiệm trong việc phục vụ con người, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã tham gia vào những cuộc đối thoại với những học giả nổi tiếng trên thế giới. Trên căn bản của Phật Giáo, được thấu hiểu như một môn khoa học về tâm thức, ngài đã nhấn mạnh những sự hội tụ giữa truyền thống quán chiếu của chính ngài và khoa học thần kinh hiện đại. Như một kết quả của sự đối thoại này, một định nghĩa về những nguyên tắc đạo đức có thể áp dụng được cho thế giới khoa học đã được nổi lên cùng với những triển vọng nghiên cứu sáng tạo.

Trích từ quyển My Spiritual Journey của Đức Đạt Lai Lạt Ma

Ẩn Tâm Lộ, Friday, January 22, 2016
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 5953)
Bát Chánh Đạo chính là con đường giúp ta thanh lọc tư tưởng, chuyển hóa tâm phiền muộn, khổ đau thành an lạc, hạnh phúc.
(Xem: 7017)
Trong cuộc sống, con người luôn chuẩn bị tâm thế để đối mặt với khổ đau. Khi khổ đau đến, hoặc chúng ta phải chịu đựng và quỵ ngã, hoặc...
(Xem: 14171)
TĂNG GIÀ THỜI ĐỨC PHẬT Thích Chơn Thiện Nhà xuất bản Phương Đông
(Xem: 20173)
Người học Phật có được một tài liệu đầy đủ, chính xác, đáng tin cậy, dễ đọc, dễ hiểu, dễ nhớ và dễ tra cứu khi cần...
(Xem: 9353)
Ngày nay nếu chúng ta có dịp đọc lại trong kinh tạng, sẽ thấy có rất nhiều tư liệu nói về Bồ-tát Quán Thế Âm.
(Xem: 7684)
Luận Hiển dương Thánh giáo 顯揚聖教論, tiếng Phạn là Ārya-śāsana-prakaraṇa-śāstra hay Prakaranaryavaca-sastra (Acclamation of the Scriptural Teaching/ Treatise of Acclamation of the Sagely Teaching),,,
(Xem: 8008)
Bát chánh đạo’ hay Tám con đường cao quý (八正道 - āryāstāngika-mārga/còn được gọi là "Trung Đạo") là một trong những nền tảng của toàn bộ lời dạy của Đức Phật.
(Xem: 7282)
Pháp ấn, tiếng Phạn dharma-mudrā, trong đó dharma là pháp, là những lời dạy của Đức Phật, và mudrā là dấu ấn, là khuôn dấu, là đặc chất, là tiêu chuẩn.
(Xem: 9228)
Khái niệm về Niết bàn (Nirvana) đã xuất hiện hơn 2500 năm. Xuyên qua nhiều thế kỷ, biết bao học giảtriết gia đã cố gắng để...
(Xem: 7302)
Nếu mỗi sự-vật là chẳng có tự tính, không cái gì có thể sinh hoặc diệt, vậy thì từ hoàn toàn đoạn trừ hoặc diệt tận cái gì mà kết quả là niết bàn?
(Xem: 7316)
Hai pháp có thể hiểu biết phải được thông suốt: danh và sắc; hai pháp có thể hiểu biết phải được tận diệt: vô minhái dục; hai pháp có thể ...
(Xem: 7521)
Giải thoát hay tánh Không thì không chỗ nào không có, nên bất cứ ở đâu chúng ta cũng có thể gặp nó.
(Xem: 9325)
Đức Phật dạy: “Tất cả đều do “tâm” tạo”, “Trong các pháp, “tâm” dẫn đầu, “tâm” làm chủ, “tâm” tạo tác tất cả,,,
(Xem: 8619)
Hôm nay chúng tôi nói "vào cửa Không" tức là đi sâu vào phần nội tâm. Trong nhà Phật, chúng ta thường nghe nói: "Kẻ phàm phu thì chấp thân, đạo sĩ thì chấp tâm".
(Xem: 7193)
Niết bàn được Đức Thế Tôn miêu tả là hai phương diện cho những người sống một đời sống đức hạnh trong sáng, thực hành giới hạnh dẫn tới ...
(Xem: 7792)
Đức Phật xuất hiện ở đời vì hạnh phúc chư thiênloài người. Sau 49 năm thuyết pháp, độ sinh, ngài đã để lại cho chúng ta vô số pháp môn tu tập
(Xem: 6879)
Tất cả chúng ta đều biết rằng lời Phật dạy trong 45 năm, sau khi Ngài đắc đạo dưới cội cây Bồ Đề tại Gaya ở Ấn Độ, đã để lại cho chúng ta một gia tài tâm linh đồ sộ...
(Xem: 7533)
Đạo Phật từ Ấn Độ du nhập vào Việt Namhiện hữu với dòng lịch sử dân tộc gần 2000 năm.
(Xem: 9694)
Một trong những nhà lãnh đạo chính của phong trào Phật giáo Đại thừa tại Ấn Độ là đạo sư- tăng sĩ Long Thọ.
(Xem: 8157)
Trong tín niệm vãng sanh của một số truyền thống Phật giáo Bắc truyền, ở quá khứ cũng như hiện tại, đã căn cứ vào tình trạng nóng, lạnh từ thân thể...
(Xem: 8691)
Khi một người sắp chết, người ấy bắt đầu đánh mất sự kiểm soát ý thức của tiến trình tinh thần. Rồi đến lúc hành động và thói quen của người ấy bị ngăn trở với ký ức xảy ra.
(Xem: 7507)
Đức Phật là bậc đạo sư đầu tiên nhận thức được bản chất thực của bản ngã, rằng bản ngã không phải là một thực thể cụ thểtrường tồn,...
(Xem: 8703)
Muốn tâm an vui và có chánh kiến thì bình thường, ngoài việc làm phước chúng ta cần có thời gian học hỏi tu tập để có trí tuệ nhìn thấu lẻ vô thường và định tĩnh trước những cảnh bất như ý.
(Xem: 8474)
Thái độ tâm linh của đạo Phật không phải nằm trên bình diện siêu việt tính (plan transcendantal), nghĩa là không dính líu gì với đời sống này.
(Xem: 7876)
Lăng-già, Thập Nhị Môn Luận cũng như trong luận Thành Duy Thức có đề cập đến bốn loại duyên, từ đó có các pháp. Nhân duyên. Thứ đệ duyên. Duyên duyên.
(Xem: 8824)
Dược Sư, là danh hiệu đọc theo tiếng Hán, nguyên ngữ Sanskrit gọi là Bhaiṣajya-guru-vaiḍūrya-prabhā-rāja, hay ngắn gọn hơn: Bhaiṣajyaguru,
(Xem: 9250)
Đọc lịch sử Đức Phật ta vẫn còn nhớ, sau 49 ngày tham thiền nhập định dưới gốc cây Bồ đề bên dòng sông Ni Liên Thiền, khi sao Mai vừa mọc thì ...
(Xem: 8556)
Nếu chúng ta bước vào Hoa nghiêm (Gaṇḍavyūha) [1] sau khi qua Lăng già (Laṅkāvatāra) Kim cang (Vajracchedika), Niết-bàn (Parinirvāṇa), hay ...
(Xem: 8743)
Tôn giả Angulimala[1] trước khi gặp Phật, là một kẻ sát nhân. Sau khi xuất gia, tôn giả tinh tấn tu tập, lấy phép quán từ bi làm tâm điểm trong việc tu tập của mình.
(Xem: 7059)
Mỗi khi đọc Lại-Tra-Hòa-La trong kinh Trung A Hàm 1 thì lúc nào tôi cũng liên tưởng đến nhân vật Siddharta trong tác phẩm Câu Chuyện Dòng Sông...
(Xem: 8985)
Giáo lýđức Phật giác ngộ dưới cội cây Bồ đềduyên khởiduyên khởi là nguyên tắc vận hành của cuộc đời, không phải do...
(Xem: 8442)
Khi một Bồ tát tu tập một đạo lộ với các mantras, phát bồ đề tâm theo phương diện tương đốibản chất của đại nguyện, Bồ tát phải ...
(Xem: 7750)
“Nói kinh Đại thừa vô lượng nghĩa xong, Đức Phật ngồi kiết già nhập trong định ‘Vô lượng nghĩa xứ’, thân tâm chẳng động.
(Xem: 9444)
“Sắc tức thị không, không tức thị sắc (Sắc tức là không, không tức là sắc) là câu kinh đơn giảnnổi tiếng nhất trong hệ Bát-nhã Ba-la-mật của Phật pháp.
(Xem: 9979)
Nguyên đề của sách là The Essentials of Buddhist Philosophy dịch theo tiếng Việt là Tinh hoa Triết học Phật giáo. Nguyên tác: Junjiro Takakusu, Tuệ Sỹ dịch
(Xem: 8604)
Nếu muốn hiểu đúng về nghiệp và tái sinh, ta phải quán sát chúng trong ánh sáng của vô ngã. Chúng phản ánh vô ngã khá sống động, tuy nhiên...
(Xem: 8151)
Con đường đưa đến giác ngộ, giải thoátNiết Bàn chính là Bát Thánh Đạo, Tứ Diệu Đế; và phần quan trọng nhất trong con đường này là Thiền định.
(Xem: 7495)
Bốn Sự Thật Cao Quý được các kinh sách Hán ngữ gọi là Tứ Diệu Đế, là căn bản của toàn bộ Giáo Huấn của Đức Phật và cũng là...
(Xem: 9170)
Thật ra Phật đã đau yếu từ ba tháng trước và đã khởi sự dặn dò người đệ tử thân cận nhất là A-nan-đà. Phật bảo A-nan-đà tập họp các đệ tử để...
(Xem: 7337)
Thế giới Pháp Hoa hay nhà cha vốn như vậy (Mười Như thị, phẩm Phương tiện, thứ 2), nghĩa là vốn có sẵn, cho nên sự trở về nhà nhanh hay chậm là tùy nơi chúng ta.
(Xem: 15151)
Hơn hai ngàn năm trăm năm đã trôi qua kể từ khi bậc Đạo Sư từ bi của chúng ta, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, giảng dạy ở Ấn độ.
(Xem: 7124)
Từ nơi bản thể tịch tĩnh của Đại Niết-bàn mà đức Thế-Tôn thiết định Sīla: học xứ, học giới,.. nên học xứ ấy là nghiệp dụng của bản thể...
(Xem: 8356)
Ngày nay, người ta tìm thấy bản Bát-nhã tâm kinh xưa nhất được chép bằng thủ pháp Siddham[1] (Tất-đàn) trên lá bối...
(Xem: 12029)
Đối với người tu tập thuần thành thì cái CHẾT thực sự không phải là chết Mà là con đường dẫn đến sự giác ngộ viên mãn.
(Xem: 7153)
Thiền sư Bạch Ẩn ngày còn nhỏ rất sợ địa ngục. Một lần, Nichigon Shonin, cao tăng thuộc phái Nhật Liên, đã đến giảng tại ...
(Xem: 11356)
Ở bài này, chỉ dựa trên cơ sở Kinh Nikaya để xác minh ý nghĩa lễ cúng thí thực vốn có nguồn gốc trong hai truyền thống Phật Giáo.
(Xem: 8173)
Thời Thế Tôn tại thế, các đệ tử tại gia cũng như xuất gia đa phần đều tu tập tinh tấn, dễ dàng chứng đắc các Thánh vị.
(Xem: 7883)
Đức Phật nói rằng khi Ngài nhìn ra thế giới ngay sau khi Giác ngộ, Ngài thấy rằng chúng sanh cũng giống như...
(Xem: 7758)
Thuở quá khứ xa xưa, có Bồ-tát Tỳ-kheo tên là Thường Bất Khinh. “Vì nhân duyên gì có tên là Thường Bất Khinh?
(Xem: 8755)
một lần, Ma Vương hóa trang thành một người đàn ông, rồi đến thưa hỏi Đức Phật...
(Xem: 7259)
Trời mưa, trời nắng là chuyện bình thường. Thời tiết phải có lúc nắng, lúc mưa, không thể nào bầu trời không mưa hay...
(Xem: 18007)
“Ăn Cơm Hương Tích, uống Trà Tào Khê, ngồi Thuyền Bát Nhã, ngắm Trăng Lăng Già”...
(Xem: 9192)
Tánh Không với hàm ý bản thể của thế giới, vạn vật đều là không, nghĩa là không có thật, không có thực thể, không có...
(Xem: 7861)
Có một thực tế hiển nhiên cần được ghi nhận rằng, không phải ai cũng hiểu đúng về lời dạy của Đức Phật, ngay cả khi Ngài còn tại thế.
(Xem: 8825)
Vị thế tối thượng ở đời được Thế Tôn xác lập dựa vào sự kết tinh của tu tập giới định tuệ và thành tựu giải thoát.
(Xem: 7438)
Một thời Thế Tôn du hành giữa dân chúng Kosala, tại thị trấn của người Kàlàmà, ở Kesaputta. Rồi các người Kàlàmà đi đến đảnh lễ...
(Xem: 8085)
Cuộc sống ngày nay, khó mà thoát ly hoàn toàn, vì cơ chế và nhịp sống của nhân loại theo đà tiến hóa khoa học và...
(Xem: 9117)
Hãy trân quý những gì đang có, giải thoáthạnh phúc ở trong lòng bàn tay của bạn! Xin hãy mỉm cười...
(Xem: 9162)
Trong Phật giáo các từ ngữ như “chánh ngữ” và “ái ngữ” luôn luôn được đề cập tới để khuyên dạy các Phật tử khi sử dụng tự do ngôn luận.
(Xem: 8857)
Theo Phật giáo Nam truyền, ngày Đản sanh, Thành đạo và nhập Niết-bàn của Đức Phật đều diễn ra vào ngày trăng tròn tháng Vesākha
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant