Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Ưng Vô Sở Trụ Nhi Sinh Kỳ Tâm

28 Tháng Giêng 201614:05(Xem: 9626)
Ưng Vô Sở Trụ Nhi Sinh Kỳ Tâm

"ƯNG VÔ SỞ TRỤ NHI SINH KỲ TÂM"
       
"... to use the mind yet be free from any attachment"

Chân Minh

Ưng Vô Sở Trụ Nhi Sinh Kỳ Tâm

 

"Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm" là một câu kinh rất ngắn trong cả quyển kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật rất nổi tiếng được giới học Phật trích dẫn nhiều nhứt. Nó được lập đi lập lại khắp nơi khắp chốn. Từ các Phật đường, Tổ đường cho chí trong các dãy hành lang dài hun hút, hay dưới chân cội tùng già, bên ngôi tháp cổ,... của các đại tùng lâm, các tự viện, các viện Phật học lừng danh thế giới... và nó cũng có mặt ngay ở trong các ngôi chùa lá cũng như ở trong các thiền thất, thảo am đơn sơ mộc mạc.

Người ta đã mổ xẻ - chia chẻ - phân tích nó đủ mọi khía cạnh. Thậm chí có thể nói một cách không quá đáng rằng nó đã được người đời phân tích tìm hiểu ý nghĩa ví như chẻ tư chẻ tám một sợi tóc vậyĐa số đều dùng trí năng, cũng như xem xét kỹ thuật kết cấu câu từ của nó cho quá trình phân tích. Tuy nhiên cũng có không ít người trực ngộ được nó bằng con đường tư duy thiền quán

Tiếc thay, người có thực chứng lại không nói nhiều, thậm chí không mở miệng, trong khi kẻ chỉ biết qua khái niệm lại khá nhiều lời.

Thực ra nó không khó hiểu cho lắm cho một người có trình độ Phật học bình thường. Nhưng chữ hiểu của giới học giả không đồng nhứt với chữ chứng của giới hành giả. Nói cách khác từ hiểu đi tới chứng có một khoảng cách khá lớn, thậm chí rất lớn. Chúng ta có thể dùng những phương pháp khoa học trong học thuật, nhứt là quy cách phân tích của ngành triết học để hiểu nó. Nhưng để chứng được nó thì phải qua con đường công phu thiền định để làm sao nó có thể tan chảy, hoá chuyển thành máu thành thịt của chính mình. Để làm được việc đó không còn cách nào khác là dùng nó như một công án - lấy nó làm đề tài công phu thiền quán của đời mình.

Có lẽ chúng ta cần chép ra đây đoạn kinh có chứa câu "Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm".

"... - Tu-bồ-đề, ư ý vân hà? Bồ-tát trang nghiêm Phật độ phủ?

- Phất dã Thế Tôn! Hà dĩ cố? Trang nghiêm Phật độ giả, tức phi trang nghiêm, thị danh trang nghiêm.

- Thị cố Tu-bồ-đề, chư Bồ-tát ma-ha-tát ưng như thị sanh thanh tịnh tâm, bất ưng trụ sắc sanh tâm, bất ưng trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp sanh tâm. Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm..." 

Sư ông Làng Mai dịch :

- Tu Bồ Đề, thầy nghĩ sao? Bồ Táttrang nghiêm cõi Bụt chăng?

- Bạch Thế Tôn, không. Vì sao? Trang nghiêm cõi Bụt tức là không trang nghiêm cõi Bụt, vì vậy nên mới gọi là trang nghiêm cõi Bụt.

- Như thế đó, thầy Tu Bồ Đề, các vị Bồ Tátđại nhân nên phát tâm thanh tịnh theo tinh thần ấy. Không nên dựa vào sắc mà phát tâm, cũng không nên dựa vào thanh, hương, vị, xúc và pháp mà phát tâmChỉ nên phát tâm trong tinh thần vô trụ. (Xem Kinh Kim cương gươm báu cắt đứt phiền não)

Đứng về phương diện cú pháp thì "Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm" tức là "Chỉ nên phát tâm trong tinh thần vô trụ" là câu kết luận nhằm mục đích chốt lại lời dạy ngắn gọn của Bụt rằng : "các vị Bồ Tátđại nhân nên phát tâm thanh tịnh theo tinh thần ấy. Không nên dựa vào sắc mà phát tâm, cũng không nên dựa vào thanh, hương, vị, xúc và pháp mà phát tâm." Nói cách khác : các vị Bồ Tát và đại nhân không nên dựa vào sáu trầnphát tâm thanh tịnhtâm thanh thịnh là tâm của chư Bụt và chư Bồ Tát

Rõ ràng không có gì là khó hiểu. Nhưng! Một chữ NHƯNG khá lớn này lại là vấn đề nan giải cho học giả lẫn hành giả

Chúng ta biết rằng: sắc, thanh, hương, vị, xúc, và pháp là sáu trần của sáu căn : mắt, tai, mũi, lưỡi, da, và ý. Trong khi căn, trần lại là nhân duyên của sáu thức : nhản thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thứcý thức. Cả ba hợp lại thành mười tám giới. Theo đó chúng ta có thể hiểu lời Bụt dạy thầy Tu Bồ Đề rằng : Các bậc Bồ Tát và đại nhân phát tâm thanh tịnh nhưng hoàn toàn tự do - không bị mười tám giới ràng buộc. Nghĩa là quý ngày đã vượt thoát được mọi buộc ràng của những sợi dây sinh tử luân hồi, luôn luôn an trú nơi bản thể thanh tịnh - làm việc gì cũng thong dong dong tự tại

Vấn đề lớn ở đây là làm sao chúng ta có thể đạt được điều đó? Có lẽ không có cách nào khác hơn là hành giả phải quyết tâm hạ thủ công phu, bám lấy nó, biến nó thành công án - làm chất liêu sống mới mong giải quyết được vấn đề. Tuy khó thật đấy, nhưng không có nghĩa là bế tắt, không có nghĩa là bất khả. Lịch sử truyền thừa của đạo Phật đã chứng minh được điều đó.

- Chuyện kể rằng, sau khi đắc pháp với ngũ tổ Hoằng Nhẫn, lục tổ Huệ Năng đã du hạ Nam phương. Trên đường hóa độ chúng sinh có lần vì cảm hóa đám người thợ săn dữ dằn và hiếu sát. Ngài đã không ngại sống cùng họ, cùng ăn thịt uống rượu như họ mà không thấy bị rượu thịt làm ngăn trở. 

Trong lịch sử Phật giáo Việt Nam cũng có không ít vị thiền sư đạt được tinh thần vô ngại như Lục Tổ

- Đời nhà Trần chẳng hạn. Chúng ta có Tuệ Trung Thượng Sĩ, là một trong những vị thiền sư đắc đạo, ngài đã chứng đắc được trạng thái tự do tuyệt đối. Bằng tinh thần vô ngại, Tuệ Trung đã có thể tiến/lui, đi/về rất ư là tự tại. Sử viết rằng : Có lần Tuệ Trung được em gái tức Hoàng hậu Nguyên Thánh Thiên Cảm mời vào cung ăn tiệc. Trên bàn có những món mặn và món chay, ngài gắp thức ăn một cách không phân biệt. Hoàng hậu hỏi: "Anh tu thiềnăn thịt cá thì làm sao mà thành Phật được?" Ngài cười đáp: "Phật là Phật, anh là anh ; anh không cần thành Phật. Phật không cần thành anh. Em chẳng nghe cổ đức nói: Văn ThùVăn Thù, giải thoátgiải thoát đó sao?" (Theo VN Phật Giáo Sử Luận của Nguyễn Lang). 

Sử sách cũng ghi chép rằng, khi cần ngài cũng đã không ngần ngại mang cung cỡi ngựa xông pha trận mạc. Ít nhất là 2 lần Tuệ Trung lãnh lịnh trấn giữ đất Hồng Lộ tức Hải Dương bây giờ nhằm ngăn chận giặc Bắc xâm lăng. Nhìn bề ngoài người đời sẽ cho đó là việc thường tình của những bậc anh hùng cứu nước hà cớ tới bậc thiền sư! Nhưng xét về phương diện tâm ý thì ngài làm việc đó với một tinh thần tự do tuyệt đối không bị ràng buộc bởi sân hận, oán thù theo cách của giới tướng lĩnh thường tình. Xong việc ngài lại giũ sạch bụi trần trả chiến bào cho vua, khoát áo chân không vui cùng sông núi.

- Gần với thế hệ của chúng ta có thiền sư Nhất Định, tổ khai sơn chùa Từ Hiếu ở Huế. 

Sử kể rằng: Sau khi trao trả giới đaođộ điệp ; từ bỏ hết mọi chức vụ Trụ trì các ngôi quốc tự cũng như chức vụ Tăng Cang toàn quốc cho triều đình. Ngài lui về ẩn tu nơi thâm sơn cùng cốc với hai đệ tử và một mẹ già 80 tuổi. Một hôm mẹ bệnh, thầy thuốc bảo: phải cho ăn cháo cá mới hết bệnh. Ngài đã xuống núi tới chợ Quy Giả tức chợ  Đông Ba ngày nay xin một con cá rồi thong dong tự tại xách con cá trần trụi còn vẫy đuôi buộc vào sợi dây đi trở lên núi (hiện nay Viện Phật Học Ứng Dụng Châu Âu tại Đức có treo bức hình này nơi thờ Tổ), nhờ người làm thịt nấu cháo cho mẹ ăn hết bịnh. 

Hình ảnh một vị cao tăng nổi tiếng tay xách con cá trần trụi thong dong đi giữa thanh thiên bạch nhựt vào thời đó chẳng khác nào một tiếng sấm lớn làm kinh động tới tận kinh thành khiến triều đình phải mở cuộc điều tra. Sau khi biết được tấm lòng hiếu thảo của ngài, đích thân nhà vua đã tới thảo am vấn an và tỏ lòng tôn kính một bậc thiền sư chứng đắc

Nhà vua cũng như nhiều quan đại thần muốn cúng dường đồ ăn thức uống. Ngài đã khẳng khái trả lời rằng: "...hữu thị giả nhị nhơn, thực ma đậu, triêu tịch cung cấp túc hỷ, bất nguyện đa giả !”. (Có hai thị giả, ăn mè đậu, sáng tối cung cấp đủ, không mong nhiều)." 

Người ta cũng đã xin ngài cho phép biến thảo am thành ngôi phạm vũ nhưng ngài đã một mực từ chối. Mãi đến sau khi ngài viên tịch người ta mới dựng trên nền thảo am xưa một ngôi cổ tự với tên gọi là Tổ đình Từ Hiếu. Hai chữ Từ Hiếu ý nói lên lòng hiếu thảo của ngài vậy.

Gần hơn nữa, ngay trong những thế hệ hậu bán thế kỷ XX này cũng đã có không ít chư vị thiền sưcư sĩ người Việt đắc đạo phát tâm trong tinh thần vô trụ.

- Đó là hành trạng của Bồ tát Thích Quảng Đức. Ngài đã dũng mãnh tự đốt cháy tấm thân ngũ uẩn, cúng dường chư Phật mười phương - thức tỉnh nhân loại trước thảm cảnh độc tôn tín lý, độc quyền tín ngưỡng, kỳ thị tôn giáo bằng những hành vi khủng bố, giết chóc tù đày người khác tôn giáo của chế độ Ngô Đình Diệm.

Thay vì trả đũa bằng những phương thức bạo động, vũ trang chống lại chính quyền, ngài đã tự biến thân mình làm ngọn đuốc mong soi sáng tâm ý của Tổng thống và chính phủ Ngô Đình Diệm với một tấm lòng bi mẫn, và tự tại không bị hận thù làm vướng bận. Lời tâm nguyện ngài viết trước khi tự thiêu đã nói lên điều đó :

« Tôi pháp danh Thích Quảng Đức, Hòa thượng trụ trì Chùa Quán Âm Phú Nhuận (Gia Định). Nhận thấy Phật giáo nước nhà đương lúc ngửa nghiêng, tôi là một tu sĩ mệnh danh là trưởng tử của Như Lai không lẽ cứ ngồi điềm nhiên tọa thị để cho Phật Pháp tiêu vong, nên tôi vui lòng phát nguyện thiêu thân giả tạm này cúng dường chư Phật để hồi hướng công đức bảo tồn Phật giáo. Mong ơn mười phương chư Phật, chư Đại Đức Tăng Ni chứng minh cho tôi đạt thành chí nguyện như sau:

- Mong ơn Phật Tổ gia hộ cho Tổng Thống Ngô Đình Diệm sáng suốt chấp nhận năm nguyện vọng tối thiểu của Phật giáo Việt Nam ghi trong bản tuyên ngôn.

- Nhờ ơn Phật từ bi gia hộ cho Phật giáo Việt Nam được trường cửu bất diệt.

- Mong nhờ hồng ân chư Phật gia hộ cho chư Đại đức Tăng Ni, Phật tử Việt Nam tránh khỏi tai nạn khủng bố bắt bớ giam cầm của kẻ gian ác.

- Cầu nguyện cho đất nước thanh bình, quốc dân an lạc.

Trước khi nhắm mắt về cảnh Phật, tôi trân trọng kính gởi lời cho Tổng Thống Ngô Đình Diệm nên lấy lòng bác ái từ bi đối với quốc dân và thi hành chánh sách bình đẳng tôn giáo để giữ vững nước nhà muôn thủa…»

- Đó cũng là hành trạng của chị Nhất Chi Mai tự thiêu để kêu gọi Hòa bình cho Việt Nam. Mười bức thư mà chị để lại đã nói lên được sự « phát tâm trong tinh thần vô trụ » của chị. (Xem tiểu sửhành trạng của chị ở đây).

- Đó cũng là hành trạng của những tác viên Trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội. Họ là những người thanh niên sinh viên ở độ tuổi tràn đầy mơ mộng cùng chí nguyện, và tâm huyết lợi tha. Không ngại gian lao khổ nhọc tự tại thong dong từ giả thành đô hoa lệ dấn thân về vùng nông thôn nghèo đói bệnh tật, cùng với bà con dựng trường học, xây trạm xá, khám bệnh phát thuốc … đem ánh sáng văn minh vào vùng tăm tối. Họ cũng đã không ngại đi giữa hai làn đạn chiến tranh - kéo cờ Phật giáo khẩn cầu các cấp chỉ huy của đôi bên tạm ngưng tiếng súng cho phép họ băng bó vết thương cứu chữa và khử trùng chôn xác nạn nhân chiến cuộc. Họ cũng đã bị người đồng bào khác đạo hiểu lầm tới nơi họ ở, nơi họ làm việc thiện nguyện để bắt cóc, sát hại, khủng bố gieo rắc sợ hãi bắt họ phải dừng lại con đường lý tưởng mà họ đang đi. Có cả thảy sáu người bị bắn chết, 19 người bị thương, và tám người bị bắt đi mất tích. Tất cả xảy ra trong bốn cuộc khủng bố bằng vũ lực. Thế nhưng họ đã không bị hận thù cướp đi tình thương, không bị tham sân si cướp đi tinh thần vô trụ của bậc Bồ Tát, Đại Nhân trong lời kinh "Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm". (Xem bài Xứng đáng chỉ có tình xót thương).

xxx

Đôi dòng sử liệu đơn sơ cho chúng ta thấy rằng giáo pháp của Phật không chỉ là những lời dạy, những tư tưởng triết học suông bằng chữ nghĩa in ấn trong kinh điển chỉ để phụng thờ, mà nó là một giáo pháp, một chân lý sống, một pháp môn thực hành. Nếu được học và đem ra thực tậpứng dụng vào đời sống hàng ngày nó sẽ cho ra một kết quả rất cụ thể, mà không là niềm tintư tưởng trên mây hứa hẹn ở đời/kiếp sau. 

Đó là một trong những thực chất sống động của câu kinh thời danh "Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm" tức "Chỉ phát tâm trong tinh thần vô trụ" đã và đang hóa thành hiện thực vậy.

Chân Minh

Paris, 23/1/2016
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12258)
Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo vũ trụ. Tôn giáo ấy phải vượt lên Thượng đế của cá nhân và tránh giáo điều cùng lý thuyết thần học.
(Xem: 11028)
Ngoài việc nói pháp đúng đối tượng nghe, Thế Tôn còn nói pháp đúng thời và đúng chỗ, khiến cho tác dụng của thời pháp được tăng thêm hiệu quả.
(Xem: 10915)
Trong Phật giáo, Tiểu ngã hay Đại ngã, chỉ là những khái niệm giả danh. Nhưng cái giả danh được đông kết bởi tích lũy vô số vọng tưởng điên đảo.
(Xem: 13371)
Đối tượng của nhận thức không phải là cái cụ thể, mà là cái trừu tượng. Một sự thể, nếu không được biểu thị bằng những thuộc tính, không thể hiện hữu như một đối tượng.
(Xem: 11784)
Tác-phẩm của Trần-Thái-Tông còn lưu truyền đến nay chỉ gồm có Bộ-Khóa-Hư-Lục và hai bài thơ sót lại của quyển Trần-Thái-Tông ngự-tập đã thất-lạc.
(Xem: 13669)
Mỗi con người chúng ta đều có ba thân, đó là thân Tiền ấm, thân Trung ấm và thân Hậu ấm. Thân Tiền ấm là thân hiện đời chúng ta đang có, là thân vật chất...
(Xem: 11911)
“Ta là cái gì?” “Ta ở đâu?” “Ta từ đâu đến?” “Ta đi về đâu?” Tất cả chỉ là một vấn đề duy nhất, mà cách hỏi khác nhau. Hiểu được một, sẽ giải quyết tất cả còn lại.
(Xem: 11175)
Kinh Đại bản [Tương đương Pāli: Mahānpadānasutta, D 14] Cũng được gọi là Đại bản duyên. Hán dịch Đại bản, tương đương Pāli là mahāpadāna.
(Xem: 12198)
Vũ trụ bao la rộng lớn với vô vàn những hình thù khác nhau, nhưng kỳ diệu thay, tất cả chúng đều được hình thành nên từ đơn vị vật chất cơ bản là nguyên tử.
(Xem: 12407)
Ở đây, có sự sai biệt nhau trên bình diện mê, nên có Tục đế - Đệ nhất nghĩa đế - Niết bàn. Nhưng khi ngộ thì chính ba cái sai biệt đó không khác nhau.
(Xem: 20601)
Tập tục Sóc, Vọng theo chân những người Việt di dân khai phá vùng đất mới mà vào Nam bộ. Chính ở đấy, đã hòa hợp vào những con người tứ xứ và đất đai...
(Xem: 12427)
Suy cho cùng, Phật giáo là một lối sống phản bổn hoàn nguyên, một lối sống quay trở về với chính mình, rồi từ nơi tự thân nhận chân cái giá trị hiện hữu của con người
(Xem: 12456)
Kim cang là kinh phổ biến nhất của Đại thừa. Xu hướng giảng kinh Kim cang tại Việt Nam trước nay phần lớn dựa trên truyền thống Hán qua bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập.
(Xem: 11716)
Không thể định nghĩa về Không, mà chỉ có thể gợi ý rằng Không không thể là đối tượng của tư duy ngã tính (nhị duyên), mà là thực tại như thực của sự thể nhập...
(Xem: 11596)
Không thể định nghĩa về Không, mà chỉ có thể gợi ý rằng Không không thể là đối tượng của tư duy ngã tính (nhị duyên), mà là thực tại như thực của sự thể nhập...
(Xem: 22425)
Bài viết dưới đây xin trích dẫn một giai thoại trong cuộc đời tu tập của Ngài Vô Trước, được giới thiệu trong "CANG -SKYA ON YOGACARA...
(Xem: 13578)
Các Ngài đã đạt được Tam minh, Lục thôngBát giải thoát, vâng thừa giáo chỉ của Phật, kéo dài thọ mạng, trụ tại thế gian tại thế gian để hộ trì chánh pháp...
(Xem: 29677)
Trong lịch sử Phật giáo Trung Quốc có vua Lương Võ Đế rất tin tưởng Phật pháp, song bà Hoàng hậu tên Hy Thị được vua yêu quý nhất thì tánh lại độc ác...
(Xem: 11545)
Từ trong lòng Tánh Không luận đi ra, người ta thử thay đổi các bình diện biểu lộ của nó, rồi qua những gì sẽ đạt được, trong lãnh vực suy lý cũng như trong lãnh vực sinh hoạt thực tế...
(Xem: 16743)
Phong trào phát triển một đường lối Phật Giáo mới, về sau này được gọi là Mahayana (Đại thừa), bắt đầu thành hình trong thời gian 250 năm, từ năm 150 TCN đến 100 CN...
(Xem: 12002)
Tinh thần hòa hiệp đoàn kết là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, là tinh thần của một hội chúng biết tôn trọng ý niệm tự tồn và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 16837)
Tượng Phật là để thờ, tất nhiên: như sự bày tỏ niềm tri ân, tôn kính của người Phật tử. Nhưng không chỉ thế, tượng Phật còn để chiêm ngưỡng: như một lối trang trí...
(Xem: 12079)
Mọi sự mọi vật theo luật vô thường, chuyển biến liên tục không bao giờ ngừng nghỉ, nhất là chúng thay đổi mau chóng. Con người do không rõ được lẽ vô thường sinh diệt đó...
(Xem: 17926)
Pháp môn Lạy Phật không phải chỉ có các Phật tử thuộc truyền thống Tịnh Độ thực hành, nhưng phương pháp này cũng được các truyền thống khác tu tập.
(Xem: 12639)
Đây là một danh từ rất phổ thông trong chốn thiền môn. Pháp khí là những đồ dùng trong chùa nhưng đúng với Phật Pháp như chuông mõ, khánh, tang đẩu, linh, chung cổ...
(Xem: 13174)
... nếu Niết bàn là có (hữu), thì cái có này, hay Niết-bàn này thuộc vào tướng hữu vi. Nhưng tướng hữu vi, theo đức Phật dạy thì chúng luôn ở trong trạng thái biến diệt không thật có.
(Xem: 14762)
Chính vì phương tiện đối trị căn cơ, nên giáo pháp chữa bệnh của đức Phật được Ngài nói ra có đến vô lượng để chữa trị có ngần ấy cơ bệnh do ba độc phiền não sinh ra.
(Xem: 22627)
Trong thời kỳ đầu tạo 30 pháp hạnh Ba La Mật, Đức Bồ Tát phát nguyện trong tâm muốn trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác đã trải qua suốt 7 a-tăng-kỳ.
(Xem: 10586)
Đối với một truyền thống nặng thần bí như dân tộc Ấn độ, ngôn ngữ quả là một ma lực, một năng lực kỳ diệu có thể vén mở tất cả sự ẩn tàng của thế giới.
(Xem: 14049)
Chiếc áo cà-sa khoác lên tâm thức sẽ che chở cho ta trong cuộc sống bon chen, đầy tham vọng, lừa đảo, hận thù và hung bạo. Nó ngăn chận không cho ta hung dữ và hận thù.
(Xem: 13869)
Trong kinh Majjhima Nikàya (Trung Bộ), Đức Phật dạy rằng: "Con người là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự nghiệp. Nghiệp là thai tạng mà từ đó con người được sanh ra...
(Xem: 13717)
Thứ nhất, nghĩ đến thân thể thì đừng cầu không bịnh khổ, vì không bịnh khổ thì dục vọng dễ sinh. Thứ hai, ở đời đừng cầu không hoạn nạn, vì không hoạn nạn thì kiêu sa nổi dậy.
(Xem: 13868)
Chúng ta có thể hình dung bánh xe luân hồi như là một "vòng tròn sinh sinh - hóa hóa" của đời sống của muôn loài chúng sanh. Trên vòng tròn ấy, không có điểm khởi đầu...
(Xem: 13941)
Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính”, không có yếu tính quyết định.
(Xem: 14837)
Các nhà nghiên cứu Phật học, các Sử gia đều coi Kinh tạng Nguyên thủytài liệu đáng tin cậy nhất và gần gũi nhất để xác định những gì mà Đức Phật tuyên thuyết.
(Xem: 13854)
Theo đúng giáo lý bất hại của đức Phật, vua Asoka nêu bật tầm quan trọng, tính cách thiêng liêng của cuộc sống không chỉ giữa loài người mà cả với loài vật.
(Xem: 18412)
Ở trong chánh điện thờ Phật, chỉ có cái ý thờ Phật mà thôi, nhưng Phật có tam thânPháp thân, Báo thânỨng thân. Cách bài trí các tượng Phậtchánh điện theo đúng ý nghĩa ấy...
(Xem: 22805)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ tát Quan Thế Âm...
(Xem: 15400)
Sau khi nhận lời thỉnh cầu của Phạm thiên, đức Phật dùng tri kiến thanh tịnh quan sát khắp cả thế giới. Bằng tuệ nhãn, Ngài thấy chúng sanh có nhiều căn tánh bất đồng...
(Xem: 17327)
Phải biết gạn đục, khơi trong. Đừng lẫn lộn giữa Pháp và người giảng Pháp, bởi “Pháp” chính là Đạo: giảng Phápgiảng Đạo. Ta nghe Pháp để “thấy” đạo...
(Xem: 22416)
Nếu chúng ta nhận thức được tầm quan trọng của sự sống nhất thể, chúng ta có thể chia sẻ nguồn vui với mọi kẻ khác cũng như hành động vì hạnh phúc của họ...
(Xem: 14264)
Giúp đỡ người khác chính là giúp đỡ cho mình, phụng sự người khác là phụng sự cho mình, đem lại niềm vui cho người khác là khai mở niềm vui nơi chính mình.
(Xem: 12585)
Ðạo Phật là đạo từ bi và trí tuệ, là thuyền bát nhã cứu vớt tất cả những sanh linh đang đắm chìm trong sông mê bể khổ, đang trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi.
(Xem: 11172)
Chánh tín trong Phật Giáoniềm tin được soi sáng bởi trí tuệ, được trắc nghiệm qua sự thực hành, là niềm tin vào nhân quả, nghiệp báo, là niềm tin vào Tam Bảo...
(Xem: 17769)
Chánh tín trong Phật Giáoniềm tin được soi sáng bởi trí tuệ, được trắc nghiệm qua sự thực hành, là niềm tin vào nhân quả, nghiệp báo, là niềm tin vào Tam Bảo...
(Xem: 13214)
Chúng ta tin vào Phật phải tin vào pháp và phải tin vào Tăng, tin vào Kinh, tin vào nhân quả. Tất cả những việc nầy đều tạo chúng ta có một sức mạnh tự thân...
(Xem: 13109)
Bài viết dưới đây tóm lược lại hai câu chuyện được ghi chép trong kinh sách, tả lại những cảnh ganh tị, hận thù, tham vọng,... đã xảy ra khi Đức Phật còn tại thế.
(Xem: 18798)
Mặc dầu hư vọng phân biệt là một khái niệm liên quan mật thiết với đối cảnh sở duyên của chỉ quán, nhưng thực ra, hư vọng phân biệt là thức và thức là duyên sinh...
(Xem: 17182)
Làm chủ tâm, mà Chư Vị Bồ Tát đã thị hiện vào cuộc đời này, dù bất cứ môi trường nào, hoàn cảnh nào Bồ Tát vẫn an nhiên tự tại trong đời sống hành đạo của Bồ Tát.
(Xem: 13506)
Đây là bốn phạm trù tâm thức rộng lớn cao thượng không lường được phát sinh từ trong thiền định khi hành giả tu tập trong tự lợi và, lợi tha khi đem chúng ra ban vui cứu khổ...
(Xem: 12921)
Bát bất gồm có 8 loại không. Đó là: Bất sinh bất diệt, bất đoạn bất thường, bất nhất bất dị và bất khứ bất lai. Đây là 8 loại lập luận để thấy con đường trung đạo.
(Xem: 14701)
Không biến cố nào có thể xảy ra nếu trước đó không xảy ra nguyên nhân của nó. Khi hiểu nguyên nhân, con người có thể ngăn chận biến cố...
(Xem: 14660)
Cờ Phật Giáo, trước hết là biểu trưng tinh thần thống nhất của Phật Tử trên toàn thế giới. Cờ Phật Giáo còn tượng trưng cho niềm Chánh tín và sự yêu chuộng hòa bình...
(Xem: 15880)
Về tên gọi Chùa hầu như đều thống nhất từ trước tới nay và ai cũng hiểu rõ đó là một tập hợp kiến trúc nhà làm nơi thờ Phật. Đó là tài sản chung của một cụm người cư trú...
(Xem: 13516)
Lời Phật cần ghi nhớ: "Chúng sanh là kẻ thừa tự những hành vi mà nó đã làm". Và còn có lời Phật khác nữa: "Hãy là kẻ thừa tự Chánh pháp của Như lai...
(Xem: 27437)
Tôn giả A Nan (Ananda) là một trong mười vị đệ tử lớn của đức Phật, người được mệnh danh là rất uyên thâm trong nhiều lĩnh vực và có trí nhớ siêu phàm (đa văn đệ nhất).
(Xem: 13231)
Muốn thành một vị Bồ Tát, Hành giả phải trải qua 50 ngôi vị tu tập và đạt đạo gọi là Bồ Tát Giai Vị. Bồ Tát Giai Vị nghĩa là ngôi vị thứ bậc của Bồ Tát.
(Xem: 16731)
Kinh Phạm Võng Trường Bộ tập I, Đức Phật dạy rằng: “Này các Tỳ-kheo, thân của Như-Lai còn tồn tại, nhưng cái khiến đưa đến một đời sống khác đã bị chặt đứt.
(Xem: 21391)
Tiếng Phạn sthùpa, tiếng Pàli thùpa, dịch âm là tốt đổ ba, tô thâu bà; lược dịch là tháp bà, Phật đồ, phù đồ; dịch ý là chỗ cao ráo, nơi hội tụ công đức, ngôi mộ lớn...
(Xem: 18814)
Bồ Tát Quan Thế Âmhiện thân của Từ Bi, Ngài phát đại nguyện thực hiện từ bi cùng tận trong đời vị lai, nếu chúng sinh còn đau khổ. Vì chỉ có từ bi mới giải trừ đau khổ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant