Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tái SinhĐầu Thai

30 Tháng Giêng 201619:02(Xem: 9871)
Tái Sinh Và Đầu Thai

TÁI SINH VÀ ĐU THAI

Chan Khoon San
Lê Kim Kha

Tái Sinh Và Đầu Thai

1. Sự Khác Nhau Giữa Tái Sinh & Đầu Thai

Mọi tôn giáo đều tin rằng có sự sống sau khi chết, tức có kiếp sau của một ‘linh hồn’ thật sự. Học thuyết Phật giáo nên được phân biệt trong ý nghĩa ‘chuyển kiếp’ hay ‘đầu thai kiếp sau’ theo ý nghĩa có ‘linh hồn’ thường hằng dịch chuyển từ đời này qua đời khác, như là do Thượng Đế sắp đặt hoặc như là một linh hồn tối thượng hay một linh hồn phổ quát – đại ngã (Param-atma).

Phật giáo không tin vào bất kỳ dạng chuyển kiếp hay chuyển linh hồn nào. Không có gì thoát ra khỏi một thể xác và chui vào một thể xác khác. Mọi sự vật, hiện tượng đều diễn ra theo quy luật thuyết Duyên Khởi (Paticca Samuppada). Mọi sự vật xảy ra, xuất hiện hay tồn tại đều do những sự vật khác trước đó tạo điều kiện mà có, rồi đến khi chúng xuất hiện chúng lại là điều kiện để sinh ra những sự vật khác.

Trong học thuyết Duyên Khởi (Paticca Samuppada), Đức Phật đã giảng giải rằng Dục Vọng làm khởi sinhDính Chấp, rồi do có Dính Chấp nên dẫn đến sự Trở Thành, hiện thành (hay là sự liên tục của quá trình sự sống bị tác động bởi Nghiệp) và cuối cùng dẫn đến sự Sinh ra. Dục Vọng của một người sắp chết hay đang chết cũng làm khởi sinh sự Dính Chấp và dẫn đến sự liên tục của quá trình sự sống là Trở Thành, Hiện Thành thông qua Nghiệp hay Nghiệp Hữu (Kammabhava), và cuối cùng tạo nên sự Sinh, mà ta hay gọi là Tái Sinh. Điều này tương đồng và trùng khớp với cách diễn tả của Diệu Đế Thứ Hai (Nguồn Gốc của sự Khổ) cho rằng chính Dục Vọng đã dẫn đến tạo thành một ‘thực thể’ sống hay một ‘con người’ mới được cấu tạo bằng năm Uẩn dính chấp chính là “Khổ”.

2. Sự Tái Sinh Diễn ra Như Thế nào

Bắt đầu từ khái niệm một ‘con người’, Đức Phật đã dạy rằng “mầm” móng của cuộc sống được “gieo trồng” chỉ khi nào có đủ 3 điều kiện: Mẹ và Cha hợp duyên, đây là giai đoạn có mẹ (trứng chín) và một ‘Thực Thể’ hay “một con người chuẩn bị được sinh ra” đã có mặt, đã ‘hiện thành’, đã chết ở đâu đó, hay vừa kết thúc sự sống ở đâu đó. Chứ không nên hiểu theo nghĩa là ‘một con người hay một linh hồn đang chờ trứng và tinh trùng giao phối và rồi ‘chui’ vào đó để đầu thai”. Yếu tố người Cha chỉ cung cấp cho chúng ta vật chất vệ tinh trong quá trình tái sinh. Nhưng điều này không có nghĩa mọi loài chúng sinh đều cần phảiyếu tố cha mới sinh ra được, bởi vì có nhiều loài được sinh ra một cách tự nhiên, tùy theo Nghiệp (Kamma).

“Chết”, theo đạo Phật, là một sự ngưng lại, sự chấm dứt của một đời sống “sinh-vật-lý” của một ‘cá thể’ chúng sinh. Sự chết diễn ra bằng việc chấm dứt giác quan sự sống (jivitindriya) hay còn gọi là mạng căn (HV), nhiệt và thức. Cái chết không phải là một sự hủy diệt hoàn toàn của một sự sống, mặc dù thời gian sống hay ‘mạng sống’ đã đến lúc chết, tuy nhiên nguồn lực đã “chạy” hay “duy trì” sự sống đó vẫn còn chứ không bị hủy diệt hay chấm dứt.

Khi cái “chết” đang xảy ra, một tiến trình Tâm mới được gọi là (tâm) Thức Tái Sinh (patisandhi citta, tiếng Anh: Rebirth Consciousness) được xúc tiến (duyên) bởi Nghiệp Tái Sinh (tiếng Anh: ReproductiveKamma) hay là Nghiệp Hữu (kamma-bhava), tức quá trình “Trở Thành”, cùng khởi sinh với 3 nhóm vật chất (sắc) do nghiệp tạo ra, cấu thành thân, giống và cơ sở tiếp xúc (chỗ dựa của Thức). Tất cả chúng làm điều kiện (duyên) làm khởi sinh những quá trình vật chấttinh thần (danh và sắc) trong noãn trứng, bây giờ theo nghĩa truyền thống hay gọi là một ‘con người’ đã hiện diện trong bào thai. Thức Tái Sinh và 3 nhóm vật chất (sắc) do nghiệp tạo ra đó được gọi chung.

là: “Con người sắp được sinh ra”. Danh từ này chỉ được dùng để diễn tả trong ngữ cảnh này khi không còn biết mượn danh từ khác xuất thế gian để giải thích tiến trình tâm và vật chất cấu tạo nên ‘thực thể’ sống này. Không nên hiểu lầm đó là một linh hồn thường hằng nào đó đang đợi chui vào bào thai hay tử cung để được tái sinh.

3. Thức Kết Nối Lại hay Thức Tái Sinh

Theo giáo lý về Duyên Khởi của Đức Phật, “thông qua tiến trình Trở Thành hay Nghiệp hữu (kamma-bhava), mà khởi sinh (duyên) cho Tái Sinh”. Để hiểu được vấn đề này một cách rõ ràng, chúng ta cần phải hiểu được rằng trong thực tại tuyệt đối, không có cái gọi là một ‘con người’ hay một ‘thực thể’ thường hằng nào đó, mà chỉ có tiến trình sinh lý vật lý hay danh sắc (nama-rupa). Ngay cả trong cuộc sống từ lúc khởi đầu cho đến khi chết, những quá trình danh sắc (nama-rupas) luôn khởi sinh và mất đi, sinh diệt liên tụcliên tục.

Cái chết là sự diệt Thức cuối cùng cùng lúc với sự tàn hoại của danh sắc (nama-rupa). Tái sinh lập tức xảy ra, khởi sinh một Thức mới, được gọi là Thức Kết Nối hay Thức Tái Sinh, cùng với (chỗ dựa) danh sắc (nama-rupa) mới. Nó được gọi là Thức kết nối lại bởi vì nó nối liền sự sống mới và cũ. Sự khởi sinh Thức Tái Sinh do duyên hay sự xúc tiến của Nghiệp cuối cùng trước khi chết. Nói cách khác, chính Nghiệp cuối cùng trước khi chết là nhân duyên làm khởi sinh Thức tái sinh.

Nếu Nghiệp (kamma) là nghiệp lành, thiện, thì sự tái sinh sẽ diễn ra ở cuộc sống hạnh phúc. Nếu Nghiệp là dữ, bất thiện, thì sự tái sinh sẽ diễn ra ở một cuộc sống đau khổ. Điều này chính là ý nghĩa khi Đức Phật nói: “Tất cả chúng sinh được sinh ra từ chính nghiệp của mình (Kammayoni)”.

 Một điều rất quan trọng để chúng ta lưu tâm rằng:

Không có một linh hồn nào rời khỏi thể xác và chui vào thể (a) xác mới.

Nếu không hiểu được điều này thì rất khó chấp nhận nó và thường bị dẫn đến một kiểu tin là có sự di chuyển linh hồn hay hồn đi đầu thai vào thân xác khác, mà trong nhiều phần khác chúng ta gọi là: Quan điểm sai lầm về một linh hồn bất tử.

Khi những Hành Động Tạo Nghiệp hay Nghiệp ((b) Kamma), (Xin nhắc lại, trong khái niệm này, hành động cố ý, hành động ý chí, hành động tạo nghiệp, Hành hay Nghiệp… đều diễn tả một nghĩa như nhau –ND), thì tùy thuộc vào & do Vô MinhDục vọng, chúng sinh chưa diệt sạch những ô nhiễm này sẽ tiếp tục tích lũy Nghiệp (Kamma) hay mang nghiệp (nghiệp hữu) và tiếp tục chịu tái sinh sau khi chết.

Nếu không hiểu điều này, thì khó mà tin nó và thường bị dẫn đến kiểu tin là sự sống bị hủy diệt hoàn toàn sau khi chết. Đó là quan điểm sai lạc về sự tự hủy diệt, không còn/là gì sau khi chết, mà những nhà duy vật hiện đại còn đang chấp thủ.

4. Những Kiểu Chết

Sự chết có thể xảy ra vì một trong 4 nguyên nhân sau đây:

Sự kiệt quệ hay hết cạn nguồn lực của (1) Nghiệp Tái Sinh ban đầu của kiếp sống hiện tại. (Nghiệp Tái Sinh này có từ lúc sinh, làm

khởi sinh sự sống hay tái sinh ra kiếp sống hiện tại. Không phải Nghiệp Tái Sinh cho sự sống tiếp theo sau khi cái chết của kiếp này -ND).

Sự (2) chấm hết chu kỳ sự sống, sự chấm dứt ‘mạng sống’, mạng chung.

Sự xảy ra đồng thời của 2 nguyên nhân trên, vừa hết nguồn lực (3) Nghiệp Tái Sinh và cũng vừa đến lúc kết thúc chu kỳ hay ‘vòng đời’ sự sống.

Tác động của một Nghiệp ((4) Kamma) mạnh hơn, bất ngờ cắt đứt nguồn lực của Thức Tái Sinh trước khi đến thời hạn kết thúc chu kỳ vay ‘vòng đời’ sự sống. Dân gian hay gọi là chết “bất đắc kỳ tử”, tức chưa đến chu kỳ hay mạng chung đã chết, thường là do nghiệp nặng hội đủ duyên.

Ba kiểu chết đầu tiên gọi là Chết đúng lúc hay Chết đúng mạng. Kiểu chết cuối cùng là Chết không đúng lúc, không đúng thời mạng.

Ví dụ như có một ngọn đèn, ngọn lửa bị tắt là do một trong 4 trường hợp sau đây:

Tim hết, (1)

Dầu cạn hết, (2)

Vừa dầu cạn vừa tim hết, và (3)

Lý do hay tác nhân khác hay không liên quan, như một ngọn gió (4) mạnh thổi tắt.

Tương tự vậy, cái chết của chúng sinh cũng có thể do một trong những lý do miêu tả ở trên.

5. Những Đối Tượng Hiện Diện Trong Tâm trước lúc Chết

Một người sắp chết thì sẽ đối diện với một Nghiệp (Kamma), một Biểu hiện Nghiệp hay Nghiệp tướng(Kamma Nimittahoặc Biểu hiện cảnh giới tái sinh (Gati Nimitta).

Nghiệp ở đây là hành động, nghiệp của người chết, dù nghiệp tốt hay xấu.

─ Nghiệp mạnh nhất như định nghĩa trước đây chính là Nghiệp Nặng. Nếu Nghiệp Nặng này không có, thì người sắp chết có thể hồi tưởng hay khởi ‘niệm’ hành động ngay trước ‘cổng’ chết, đó được gọi là Nghiệp Cận Tử hay Cận Tử Nghiệp.

─ Nếu những Cận Tử Nghiệp này cũng không có, thì Nghiệp Thói Quen hay nghiệp quán tính sẽ hiện diện đến người sắp chết, đó là những hành động hay làm, thường xuyên làm trong cuộc sống của người đó, chẳng hạn như nghiệp (thói quen) ăn cắp, đối với người sắp chết là một kẻ trộm, hay nghiệp (thói quen) chăm sóc người bệnh yếu trong trường hợp người sắp chết là một người nghành y tế…

Nhưng nếu cũng không có những loại Nghiệp Thói Quen cũng như các Nghiệp nặng, nhẹ khác kia, thì những Nghiệp dự trữ, còn mang từ nhiều (hay vô số) kiếp sống trước, được gọi là Nghiệp Tích Lũy sẽ trở thành đối tượng của suy nghĩ hay tâm Thức ngay lúc chết. Trong số những hành động (Hành) cần làm, thì những Phật tử tại gia thường được dạy phải nên làm trước lúc chết, đó là: Thực Hiện 10 Việc Làm (Hành) Công Đức, bao gồm:

─ Tụng niệm về Tam Bảo và về Ngũ Giới một cách thành tâm;

─ Hồi tưởng lại một chuyến hành hương về xứ Phật, đã đến những Phật tích, thánh tích để tăng trưởng lòng tinlòng thành kính đối với Đức Phật, Pháp, Tăng;

─ Mở băng đĩa lắng nghe lại những bài giáo Pháp hoặc nghe Tăng Ni tụng niệm;

─ Hồi tưởng, niệm Công Đức của Tam Bảo, hồi tưởng, niệm lại những Công Đức hay lòng Độ Lượng, thiền quán về lòng Từ Bi hay Tứ Niệm Xứ (Satipatthana)…

Những hành động tốt lành như vậy sẽ tạo điều kiện làm khởi sinh những trạng thái Tâm lành, thiện để quyết định cái (tiến trình) Nghiệp cuối cùng trước khi chết và dẫn dắt tái sinh đến cảnh giới nhiều phúc lành, hiền nhiều, dữ ít.

Cái chết đến bất kỳ lúc nào, mỗi người nên làm những nghiệp tốt, chuẩn bị tinh thần lành, thiện, để lúc đi xa, hành trang vẫn gồm nhiều Thức tốt đẹp để vượt qua những cuộc hành trình dài, vô định trong những kiếp tương lai.

 Kamma NimittaBiểu Hiện Nghiệp, là tâm cảnh, âm thanh, mùi hương, mùi vị, xúc chạm hay ý tưởng một người thu nhận được vào lúc “kết” nghiệp (Kamma). Chẳng hạn đó là những con dao trong trường hợp người sắp chết là một người hàng thịt; là những bệnh nhân trong trường hợp người sắp chết là bác sĩ; là một biểu hiện hay biểu tượng để thành kính như hình, tượng PhậtCây Bồ-Đề, hay là một ký ức hạnh phúc trong một chuyến đi hành hươngẤn Độ của người sắp chết…trong những trường hợp người sắp chết là một Phật tử kính đạo; ….

 Gati NimittaBiểu Hiện Cảnh giới Tái sinh, là những dấu hiệu, biểu hiện về một nơi nào đó mà sự tái sinh đang có khuynh hướng xảy ra ở đó; hoặc là biểu hiện một sự kiện xảy ra có một không hai, chấn động, không bao giờ quên được trong đời của một người sắp chết điều đó sẽ chi phối và dẫn đến cõi tái sinh nào đó.

Nếu những dấu hiệu chỉ dẫn về sự tái sinh, như nói trên, là xấu, là dữ, nhưng người sắp chết có thể chuyển thành lành, tốt bằng (cách thay thế) những suy nghĩ trước lúc chết, như vậy những suy nghĩ lành, tốt bây giờ sẽ đóng vai trò như nghiệp Cận Tử Nghiệp ảnh hưởng, tác động ra loại Nghiệp Tái Sinh để làm duyên lành (điều kiện tốt) cho Tái Sinh.

Những biểu hiện, biểu tượng về nơi đến hay ‘vận mệnh’ của một người lúc sắp chết có thể là những ngọn lửa địa ngục, những vùng núi non, dạ con trong bụng mẹ, thiên cung trên cõi trời…

6. Năm Viễn Cảnh Của Một Người Sắp Chết

Theo Đại trưởng lão tiến Sĩ Rastrapal Mahathera, viễn cảnh của một người đang chết thường là:

1) Lửa địa ngục, thường đối với những người thường bị sinh về cảnh giới địa ngục.

2) Thú vật và rừng núi, thường đối với những người bị tái sinh thành súc sanh.

3) Màn tối, thường đối với những người tái sinh thành ngạ quỷ (hay ‘hồn’ ma).

4) Những cha, mẹ và người thân quyến thuộc đã qua đời, thường đối với những người được tái sinh làm người.

5) Thiên cung, nhà cửa hay xe ngựa trên cõi trời, thường đối với những người được sinh về cõi trời để hưởng phúc.

Chuyện kể bên Tàu về người sắp chết nói rằng người nghe được tiếng dây xích hoặc thấy viễn cảnh những hộ vệ của Vua Yama (Diêm Ma Vương) với đầu trâu mặt ngựa gớm ghiếc mang xiềng xích đến để lôi người ấy về địa ngục để phân xử.

Gati-nimitta (Biểu hiện về nơi tái sinh) luôn luôn là những biểu hiện, dấu hiệu vật lý được hiện lên ở “cửa-Tâm” như là một giấc mơ vậy.

Về mặt tâm lý học, những giai đoạn hay viễn cảnh này của Tâm có thể được gọi là ảo ảnh (illusion), ảo tưởng (hallucination) hay ảo giác đánh lừa (delusion). Vì vậy, những người có Tâm minh mẫn và không bị hoang mang vào lúc sắp chết có thể không hiện trong tâm hay thấy gì về một viễn cảnh của nơi sắp tái sinh về.

Những bạn đọc muốn tìm hiểu thêm về những viễn cảnh trên giường chết, nên tìm đọc quyển sách của Đại trưởng lão Tiến Sĩ Rastrapal Mahathera (Sách &Tài Liệu Tham Khảo, Số 3.) trong đó tác giả đã kể lại kinh nghiệm cá nhân của một cư sĩ trong lúc hấp hối thấy được nhiều viễn cảnh trên và những cách thức trưởng lão đã giúp làm dịu những nỗi sợ của người hấp hối để dẫn đến trạng thái tâm có thể dẫn đến tái sinh vào một cõi tốt lành.

7. Thức Hấp Hối, Thức Lúc Đang Chết

Thử lấy đối tượng là một hành động, một nghiệp (kamma) hoặc là một Biểu Hiện của Nghiệp (kamma nimitta) hoặc là Biểu Hiện, dấu hiệu của Nơi sẽ Tái Sinh đến (gati nimitta), thì Thức chạy dọc theo một tiến trình (course) của nó, thậm chí ngay cả khi cái chết xảy ra trong một tức thì, trong một cái ‘tích’-chưa-đến-‘tắc’.

Theo “Vi Diệu Pháp” (Abhidhamma), một tiến trình tư duy, ý nghĩ bình thường chạy trong 17 khoảng-khắc-nghĩ hay còn gọi là 17 sát-na Tâm (citta), trong đó tiến trình Javana3 kéo dài 7 sát-na tâm. Giai đoạn Javananày là quan trọng nhất, đứng về mặt đạo đức, cho việc tái sinh của một người. Đến giai đoạn tâm lý này những gì xấu hay tốt, lành hay dữ, thì thật sự đã làm xong rồi: Nghiệp (kamma) đã được thi hành!.

Những luận sư nói rằng trong một giai đoạn, khoảng khắc ngắn ngủi này, giống như ánh chớp của một tia chớp bằng tốc độ ánh sáng, vẫn có hàng tỷ sát-na Tâm (cittas)Trong tiến trình tư duy trước khi chết, thì tiến trình Javana là rất yếu ớt và chỉ chạy trong vòng 5 sát-na Tâm. Nhưng tiến trình Javana này lại là quan trọng nhất vì nó quyết định Nghiệp Tái Sinh (reproductive kamma) cho kiếp sống tiếp theo. Sau đó thì Thức đăng nhập hay đăng ký (registering consciousness) nhận diện đối tượng có thể theo hoặc không theo. Cuối cùng, Thức Lâm Chung hay Thức Tử Mạng (cuti-citta), là tâm thức cuối cùng được biết đến của kiếp sống hiện tại (trước khi tái sinh qua kiếp sống tiếp theo).

“Ngay khi chết, Thức cuối cùng (Thức tử mạng) biến mất, làm điều kiện, làm khởi sinh cho một Thức mới xuất hiện, đó là Thức Tái Sinh (Patisandhi) trong một thể xác hay một dạng sinh hài mới. Rồi

3 Từ này đã từng được dịch là “khoảnh khắc thúc đẩy” hoặc “khoảnh khắc tốc hành” (theo dịch giảNguyễn Văn Ngân dịch “Đạo Vô Ngại Giải” từ tiếng Anh sang tiếng Việt).

Cũng như C. A. F. Rhys Davids, Bhikkhu Bodhi đề nghị để nguyên chữ javana không dịch. Đây là một thuật ngữ thuộc “Vi Diệu Pháp” cao học. Xin bạn đọc tìm đọc về đề tài này theo bản dịch từ tiếng Pali qua tiếng Anh của Ngài Bhikkhu Bodhi (“A Comprehensive Manual of Abhidhamma”, BPS, [Kandy 1993] đoạn (12) trang 124, chú thích 8, 9 trang 372, trang 389. Chữ ‘tiến trình’ (vīthi: nđ ‘lộ trình’) được dịch theo Bhikkhu Bodhi, sđd, đ. 4 trang 151). Dịch giả Nguyễn Văn Ngân dịch từ tiếng Anh sang tiếng Việt “Đạo Vô Ngại Giải”).

đến lượt Thức mới (Thức Tái Sinh) cũng lập tức biến mất, liên tục, liên tục, như một dòng chảy không gián đoạn, như dòng sông vậy, (liên tục chảy, nhưng đó là những giọt nước mới (Thức mới) liên tục đến rồi chảy qua, chứ không có một giọt nước nào đến rồi đứng yên không chảy đi –ND). Dòng chảy mới của sự sống này mang theo tất cả kinh nghiệm của quá khứ. Dòng chảy mới hay sự sống mới này không phải tuyệt đối giống hệt trong quá khứ, vì sự sống trong quá khứ bao gồm những thành phần cấu tạo khác, mà cũng không hoàn toàn khác nhau, mà chỉ có chung một dòng Nghiệp lực.

Sự biến điệu, sự gián đoạn hay chuyển đổi giữa các Thức trong dòng chảy này là cực kỳ ‘chớp nhoáng’ nhanh hơn điện chớp mà ta thường gọi là một sát-na Tâm hay sát-na Thức, một khoảng khắc thời gian cực nhỏ, không có chỗ cho bất cứ cái gì xen vào giữa.

(Bạn có thể hình dung thời gian giữa khi 2 điểm sát nhau trên một bánh xe đang quay nhanh tiếp xúc mặt đất vậy, theo lý thuyết vật lý học. Mặc dù điều đó là cực kỳ ‘dài’ hơn cái khoảng cách của tiến trình tâm của 2 Thức sinh diệt, nhưng chúng ta còn không hình dung ra được có bất cứ đơn vị thời gian hay hiện tượng nào có thể xảy ra giữa 2 điểm tiếp xúc đó – ND).

Đó được gọi là trạng thái chuyển tiếp hay trung gian hay còn gọi là trung hữu (antara-bhava). Theo bộ “Những Điểm Dị Biệt” (Kathavatthu) của Vi Diệu Pháp Tạng, có một số trường phái Phật giáo, như Pubbaseliya (Đông Sơn Trụ Bộ) và Sammatiya (Chánh Lượng Bộ) cho rằng có một giai đoạn tạm thời để chờ thọ thai (đầu thai lại, re-conception) mất một tuần hay nhiều hơn. Lập luận ngược lại dựa vào lời tuyên thuyết của Đức Phật là chỉ có 3 giai đoạn “Trở Thành” (tức là giai đoạn Trở thành, hiện thành hay còn gọi là Hữu (bhava) trong vòng duyên khởi) – đó là Dục giới, Sắc giớiVô sắc giới. Cho nên, những người theo Phật giáo không tin rằng có ‘linh hồn’ của một người chết chiếm chỗ trong giai đoạn chuyển tiếp nào đó đến khi tìm thấy được một nơi thích hợp hay tử cung để đầu thai vào. Sự Tái Sinh diễn ra ngay lập tức và không có sự khác biệt nhau về mặt thời gian dù ‘người đó’ tái sinh về cảnh giới phúc lành trên trời hay người. Cái thật sự thúc đẩy, duyên sinh cho sự Tái Sinh không phải là Thức Tử Mạng (cuti-citta), nhưng chính là tiến trình tâm thức Javana như đã diễn tả ở trên. Nếu tiến trình Javana tốt lành, thì tái sinh sẽ diễn ra ở một cảnh giới phúc lành; nếu nó không tốt không lành, thì tái sinh sẽ diễn ra ở một cảnh giới đau khổ, đày đọa.

Sau khi hiểu được điều này và hiểu được sự thật là cái chết có thể đến bất cứ lúc nào trong đời, thì chúng ta luôn luôn chú tâmthực hành nhiều điều tốt lành và khéo léo để có thể đối diện với lúc lâm chung trước khi quá muộn màng

8. Những Kiểu Sinh

Có 4 kiểu sinh (tái sinh), đó là:

Sinh từ trứng (a) (noãn sinh), như loài chim, bò sát và cá.

Sinh từ dạ con (b) (thai sinh), như người, động vật có vú và một số địa thân trên trái đất.

Sinh từ độ ẩm, nơi ẩm ướt (c) (thấp sinh), như một số loài côn trùng lấy độ ẩm, nơi ẩm ướt làm sinh sôi.

Sinh do tự phát (d) (tự nhiên sinh), đó là những chúng sinh ‘khuất mắt’, mắt thường của người không thể nhìn thấy được. Do duyên từ nghiệp trong quá khứ, họ xuất hiện bất ngờ, không tùy thuộc vào cha, mẹ gì cả. Trời Phạm Thiên (Brahmas)thiên thần (devas), ngạ quỷ (petas), quỷ thần hay A-tu-la (asuras) và những chúng sinh trong địa ngục đều thuộc nhóm này.

Có 9 nhóm vật chất (sắc) được tạo ra bởi Nghiệp (Kamma), đó là: Căn hay chỗ dựa của Thức, nguồn gốc căn bản của sự sống, giống đực, giống cái và 5 cơ sở vật chất là mắt, tai, mũi, lưỡi và thân. 9 nhóm vật chất này phát triển đầy đủ trong những loài chúng sinh thuộc nhóm tự nhiên sinh. Vì thế, loài chúng sinh tự nhiên hay sinh tự phát không cần có cha mẹ để dễ cung cấp nhanh lớp vật chất hay những tế bào cho sự tái sinh của chúng sinh đó.

9. Bốn Cảnh Giới

Có 4 cảnh giới hay 4 cõi sống:

a) Cảnh Dục Giới nhiều Đau Khổ (apaya/ kamaduggati bhumi)

b) Cảnh Dục Giới nhiều Phúc Lành (kamasugati bhumi).

c) Cảnh Sắc Giới (rupa bhumi).

d) Cảnh Vô Sắc Giới (arupa bhumi).

a) Trong Cảnh Dục Giới nhiều đau khổ, có cảnh giới, đó là:

Địa ngục (niraya),

Súc sinh hay thú giới,

Ngạ quỷ hay ‘ma’ giới (peta), và

Quỷ thần hay A-tu-la (asuras).

Sự tái sinh vào những cảnh giới này là do nghiệp tái sinh không lành, dữ, bất thiện, đóng vai trò quyết định ngay lúc chết.

b) Trong 7 cảnh giới nhiều phúc lành bao gồm cõi người và 6 cõi trời, thì sự tái sinh vào cõi người hay thiên thần là do tác động của nghiệp tái sinh thiện (cao hơn). Tuy nhiên nếu cùng tái sinh làm người mà bị câm, điếc, đui, què, tật nguyền, hoặc tái sinh thành quỷ thần A-tu-la thuộc cõi hạ giới của Tứ Đại Thiên Vương, thì những sự tái sinh đó là do tác động thúc đẩy của Nghiệp tái sinh tiểu thiện (thấp hơn).

(Xem thêm Chương XI, Những loại Nghiệp Thiện).

c) Trong cảnh Sắc Giới (rupa bhumi), sự tái sinh vào 1 trong 16 cảnh giới của những vị trời Phạm Thiên (Brahma) là nhờ vào sự chứng đạt Tầng Thiền Sắc Giới (rupa jhana) của một người.

d) Trong cảnh Vô Sắc Giới (arupa bhumi), sự tái sinh vào trong 4 cảnh Vô Sắc Giới của những vị trời Phạm Thiên là nhờ vào sự chứng đạt Tầng Thiền Vô Sắc Giới (arupa jhana) của một người.

Trích từ Giáo trình Phật học (Chan Khoon San – Lê Kim Kha dịch Việt)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 48)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(Xem: 163)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 216)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 410)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 311)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 338)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 386)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 623)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 680)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 641)
Tóm tắt: Phật giáo là tôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 687)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 601)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 546)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 594)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 686)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 702)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 800)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 598)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 494)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 575)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 670)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 590)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 591)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 695)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 711)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 704)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 769)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 795)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 770)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 962)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 829)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1391)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 914)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1080)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 832)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1063)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 994)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 981)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1122)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1400)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 1752)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 972)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1161)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 972)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 827)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 950)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 973)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1395)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1145)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1175)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 925)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1070)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1523)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1399)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1393)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 981)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1376)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1290)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1213)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant