Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Đại Cương Học Thuyết Nhà Phật

10 Tháng Hai 201611:06(Xem: 7259)
Đại Cương Học Thuyết Nhà Phật

ĐẠI CƯƠNG HỌC THUYẾT NHÀ PHẬT

HT Thích Phổ Tuệ

Đai Cuong


Phật Pháp được chia ra làm bốn thể loại là Giáo, Lý, Hành và Quả.


1. Về Giáo

Giáo là Pháp do đức Phật hiện thân nói ra ở thế gian, để giáo hoá cho giới hữu tình đời sau. Thời ấy chỉ có lời nói mà chưa có văn tự, cho nên chưa có sách vở. Lấy âm thanh làm thể nói bàn. Dựa vào âm thanh cao, thấp, ngắn, dài mà thành tên (danh). Gom góp tên lại thành ra câu (cú). Danh cú dựa vào nhau thành văn. Thời Phật, bấy giờ cũng lấy âm thanh làm thể chủ, tất nhiên khôngvăn tự, người nghe dựa vào lời Phật nói mà tu chứng.

Cho đến khi Phật thuyết Pháp độ người đã xong và diệt độ rồi, chúng đệ tử nhân thời Phật đã đi xa, sợ sau không dựa vào đâu được mới đem giáo pháp mà Phật đã giảng mà họ đã nghe được, ai là người nghe được nhớ nhiều thì đọc truyền khẩu lại, được đại chúng chứng minh, chép thành kinh sách. Đó là lời của Phật di giáo.

Lời Phật di giáo này không giống như những học thuyết, học lý thông thường. Vì những học thuyết thông thường dựa vào thường thức suy xét nửa tối, nửa sáng mà thành, lấy việc đã biết xét việc chưa biết. Giống như khoa học trong thời còn đang nghiên cứu, đó là tri thức mới một tầng kinh nghiệm. Như lúc trước nói “trời tròn đất vuông”, sau mới biết trái đất vốn hình quả cầu. Ở đó, lời nói không xác định, nghĩa theo thời mà biến động.

Giáo pháp của Phật có nguồn gốc không giống với nguồn gốc các học thuyết khác, đó là chí giáo từ trong thánh trí lưu thông ra. Vì vậy, đến với giáo pháp của Phật phải dùng sức tin mà lãnh nhận. Điểm này cũng như tin tôn giáo, không có khác. Phật pháp không phải là tôn giáo mà cũng lại là tôn giáo, cho nên muốn giảng Phật Pháp trước hết phải tin là có Phật.

Phật là tiếng gọi tắt, gọi đủ là Phật Đà. Vì nghĩa từ Phật là giác giả, là trỏ vào người đã được giác ngộ một cách cao cả, đúng đắn, chính xác và rộng khắp nhất. Trong cõi này, người đã được chính biến giác cao cả nhất chỉ có Phật Thích Ca Mâu Ni, hiện thân thuyết pháp độ người, có giáo pháp  lưu truyền, để lại cõi đời. Nhưng ở đây lại không giống như các tôn giáo khác vì Ngài nói: Nếu người đời ai thực hành, thực chứng tới vô thượng chính biến giác thì người ấy cũng thành Phật. Vì vậy, người ta cuối cùng quyết bình đẳng.

2. Về Lý

Khi người ta chưa thành Phật mà muốn cầu thành Phật thì  trước hết phải tin nhân giáo pháp của Phật. Nhưng tin cũng không phải là tin một cách mù quáng. Bởi vì, người ta nếu tin có lý chân thật của các pháp trong pháp giới, thì phải giác ngộ chân lý ấy đến viên mãn, đó là chính giác cao cả nhất.

Phật ở trong chính giác cao cả nhất ấy, không một sát - na nào không phóng ra sự sáng suốt hiểu biết hoàn toàn trên, dưới, trong, ngoài. Không phải là trước hiểu biết thế nào mà sau  vẫn lại hiểu biết như thế ấy.

Tự giác của Phật đã đến địa vị viên mãn, thì không còn phải học thuyết, học lý, học tập, học tác gì nữa. Cho nên gọi là “vô học”.

Nhưng, Phật thì đã chứng vào cảnh giới giác ngộ như hư không, như gương Đại Viên (tròn lớn) soi khắp bao la, mà tất cả chúng sinh chưa chứng được vào tướng chân thật của vạn hữu trong pháp giới, bởi vì còn mê muội, điên đảo nên sinh ra rất nhiều phiền não đau khổ.

Phật rất thương xót cho nên phải đặt ra giáo pháp danh, cú, văn, thân để khiến cho chúng sinh giác ngộ.

Giáo pháp của Phật có hai phương diện:

Thứ nhất, hợp với chân lý, trong nhất niệm của Phật soi rõ khắp lý chân thật của vạn hữu trong pháp giới, luôn luôn hợp nhau, không hề có một mảy may sai lầm. Vì vậy nói các pháp đều hợp chân lý.

Thứ hai, hợp với căn cơ, người nghe phápcăn khí bậc nào, cơ cảm loại nào thì giải thuyết theo phương tiện ấy.

Hai phương diện tựa hồ như xung đột nhau, bởi vì tâm trí chúng sinh không bằng Phật, tuỳ thuận chúng sinh thì không hợp lý, nhưng tuỳ cơ thuyết pháp là lối khéo léo làm việc giáo hoá của Phật, lần lượt đều khiến thông đạt tới cảnh giới Phật, đều khiến tới cảnh giới Phật. Đó là giáo pháp đặt bày từ trong vô thượng chính biến giác, vô thượng lưu thông ra. Chỉ có loại thi thiết này là phải hệ thuộc cơ cảm mà có. Còn Phật với Phật thì không phải thế.

Giáo pháp được thi thiết lưu thông này, dựa vào vạn pháp duy thức mà nói, cũng có hai phương diện:

Thứ nhất, Danh, cú, văn, thân vô lậu thanh tịnh từ trong tâm Phật chính biến giác vô thượng lưu thông ra. Đó là cơ cảm từ chúng sinh trong tâm Phật mới lưu thông ra được, gọi là giáo lý bản chất hay nguyên chất.

Thứ hai, Danh, cú, văn, thân từ nơi tha tâm Phật lưu xuất, người ta không đích thân duyên trực tiếp được, chỉ dùng được tâm hữu lậu làm duyên tăng thượng, ở trong tâm mình sinh ra một loại ảnh tượng (bóng dáng), thế là giáo ảnh tượng. Đẩy giáo ảnh tượng này về với giáo bản chất thì trong Phật giáo được gọi là thánh giáo hay trí giáo. Pháp thường nghìn đời vẫn không biến đổi, khắp bốn bể cũng đều chuẩn cả, không có gì gọi là học cả.

Sở dĩ có sự học là vì ở Pháp lý thứ hai (Danh, cú, văn, thân từ nơi tha tâm Phật lưu xuất), về giáo lý có thể bàn được, nhưng phải dùng lời Phật làm duyên tăng thượng. Người nghe pháp đối với giáo pháp được nghe, ngẫm nghĩ, suy xét hiểu được rõ ràng thì có học lý về Phật pháp.

Phàm gọi là Kinh đều là Pháp Phật thuyết ra. Đời sau lại có người dựa vào giáo pháp của Phật mà bàn giải kỹ lưỡng mở rộng, thì được gọi là Luận. Học lý về Luận đã thành tinh vi, rõ ràng, chính xác, như các luận Đại Tỳ Ba Xa, Du Già Sư Địa,  v. v.  Xét về căn nguyên, những luận này đều có được từ giáo Pháp của Phật để lại.

3. Về Hành

Giáo Pháp của Phật vốn được xuất ra từ chính biến giác vô thượng. Vì vậy nên người ta muốn biết giáo lý Phật cũng cần phải biết được vô thượng chính biến giác. Nhưng làm thế nào mới chứng được thì lại phải cần phải giảng về phương pháp tu hành. Vậy nên việc tu hành là việc thứ ba cần giảng rõ. Trong việc tu hành có 3 tu học tăng thượng đó là Giới. Định, Tuệ. Tu Giới thế nào? Thiền định thế nào? Thế nào để đạt được Đại trí tuệ? (Tác giả đã trình bày trong tiểu luận “Phật học là Tuệ học”). Tu hành như thế thì mới có thể được vô thượng chính biến giác, tức là Quả Đại Bồ Đề, chứng nhậphiểu rõ ràng thật tướng các Pháp trong Pháp giới.

4. Về Quả

Thể loại thứ Tư gọi là quả. Đã được quả rồi  thì cũng có thể lấy đấy để khai thị, giác ngộ cho người sau.

Giáo lý “Hành Quả” cũng không phải cách biệt hẳn với nhau. Bởi vì, tư duy quan sát tức là hành, nhân tu hành mà lý càng rõ. Lý giải và tu hành cùng tiến như người đi đường, mặt và đế chân đồng thời cùng phát sinh tác dụng. Vả chăng, tuy ít rõ lý giải, chưa đạt quả vị cứu kính nhưng cũng đã thành hiệu quả. Tuy ít có hiệu quả, mà không cho là tự túc (tự mãn) thì cuối cùng vẫn có thể đạt tới chính biến giác.

Tư tưởng, trí thức của người thường đều không xa lìa Ngã chấp, Pháp chấp, nên họ bảo các loại học lý không tránh khỏi vọng tình, suy lường, phỏng đoán. Do vậy họ không thể nhận được chân lý rốt ráo.

Muốn cầu chân lý không thể không dựa vào Giáo pháp của Phật và Học lý của Cổ đức để làm căn cứ nghiên cứu.

Như vậy, học lý của Phật mà người tu học có được là nhờ học lý của thánh quả Tam thừa hữu học, vừa y vào thánh giáo, vừa y vào tự chứng để thành. Hơn nữa là vì học lý nội ngoại điển, phàm mới học đều phải dựa vào văn tự thánh giáo mà nên.

Phật học đại lược là như thế./.

Viên Minh Pháp tự, mạnh xuân Đinh Hợi, 2007 (Phật Tử Việt Nam)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14756)
Con đường giác ngộ không phân biệt giới tính, giai cấp, màu da, chủng tộc, tu sĩ hay cư sĩ... Thích Nhật Từ
(Xem: 17790)
Theo triết lý nhà Phật, Tâm là chủ thể tạo tác ra mọi thứ (Vạn pháp do tâm tạo), trong đó có tướng. Tâm là nhân mà pháp là quả.
(Xem: 15466)
Tiếng Nói Của Phật Pháp và Tương Lai Phật Giáo - Jack Petranker - Nguyên Hiệp dịch
(Xem: 38458)
"Heartwood of the Bodhi tree" (Cốt lõi của cội Bồ-đề) - Buddhadasa Bhikkhu, Hoang Phong chuyển ngữ
(Xem: 26556)
Qua bài viết này, người viết mong rằng sẽ góp một phần nhỏ kiến thức về ý nghĩa chân thật về Phật giáo đối với Phật tử đi chùa.
(Xem: 39495)
Tập sách nhỏ này là tài liệu hướng dẫn tu tập minh sát, đối tượng tứ oai nghi của thiền sư Achaan Naeb, được thiền viện Boonkanjanaram biên soạn...
(Xem: 50607)
Sự giải thoát tinh thần, theo lời dạy của Ðức Phật, được thành tựu bằng việc đoạn trừ các lậu hoặc (ô nhiễm trong tâm). Thực vậy, bậc A-la-hán thường được nói đến như bậc lậu tận...
(Xem: 38589)
Phước thiện thuộc về danh pháp (nāmadhamma) hay thuộc về thiện tâm, không phải vật chất, nên khó thấy, khó biết, chỉ có bậc có trí tuệ, có thần thông mới có thể biết người nào có phước thiện.
(Xem: 34870)
Tùy thuộc vào thiền quán đều đặn trên tri kiến được thâu nhận xuyên qua an lập rằng không TÔI cũng không là của tôi hiện hữutự tính, các sự tượng trưng, tên là, ngã...
(Xem: 18182)
Với Đức Phật, vì tình thương vô hạn đối với chúng sanh nên Ngài đã hy sinh tất cả để tìm cầu Thánh đạo. Sau khi đã ngộ đạo, Ngài lại chuyển vận bánh xe pháp...
(Xem: 16333)
Tam vô lậu học - Giới, Ðịnh, Tuệ là phương tiện duy nhất để vượt thoát bến mê sinh tử... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 42224)
Trí tuệ Phật giáo là một khả năng, một phẩm tính của tâm thức, tượng trưng cho một sự hiểu biết, nhưng là một sự hiểu biết chuyên biệt, được định hướng rõ rệt...
(Xem: 39053)
Cõi Cực Lạc hay cõi Tịnh Độ mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni muốn giới thiệu cho chúng sanhthế giới Ta Bà nầy là cõi: Phàm Thánh Đồng Cư Tịnh Độ... HT Thích Như Điển
(Xem: 35418)
Đạo Bụt có một nền tảng nhân bản vững chắc, giúp ta biết sống có trách nhiệm, có từ bi với chính mình và mọi loài chung quanh. Người Phật tử con của Bụt là người biết bảo vệ môi sinh.
(Xem: 17385)
Con đường đến giải thoát luôn gắn liền với tuệ giác. Thân này bất tịnh, vô thườngphi thực là một tuệ giác quan trọng, không thể thiếu trong chiêm nghiệm...
(Xem: 46358)
Nếu muốn đạt được sự giải thoát, trước hết chúng ta phải quán xét thật cẩn thận những gì chung quanh ta, hầu quán nhận được bản chất đích thật của chúng...
(Xem: 17040)
Chư Phật Như Lai đã lìa mọi cái thấy, mọi tưởng, nên tâm không chỗ nào không hiện diện. Tâm chân thật ấy là tánh của tất cả các pháp.
(Xem: 28392)
Những người Phật tử chúng ta phải là những người Phật tử của thế kỷ 21, có nghĩa là Phật tử với kiến thức đầy đủ về Phật Pháp, điều này rất căn bản.
(Xem: 18902)
Trong kinh điển Phật giáo, danh và thực là hai phạm trù được đề cập, phân tích cặn kẽ. Danh là tên gọi, hình thức bên ngoài. Thực là phẩm chất, nội dung bên trong.
(Xem: 17489)
Bồ đề tâm là vua các phép lành. Phát Bồ đề tâm là điều tối cần thiết của một đệ tử Phật. Có nhiều bản văn của chư Tổ viết để khuyên người phát tâm vô thượng ấy.
(Xem: 17015)
Thời Thế Tôn tại thế, Ngài rất chú trọng đến phận sự an cư mùa mưa của chư Tăng. Đặc biệt nhất là trong ba tháng mùa mưa ở rừng Icchànangala, Ngài đã nhập thất...
(Xem: 17446)
Trong kinh điển Phật giáo, có nhiều trường hợp mô tả Đức Phật đã giữ thái độ im lặng trước một số câu hỏi của các du sĩ ngoại đạo mang tính huyền hoặc...
(Xem: 16430)
Vì mọi hiện tượng tâm lý tinh thầnvật lý vật chất không có cái gì có một chủ thể độc lập hay thường còn cả, nên nó là “vô thường”, nó là “vô ngã”, không có ta.
(Xem: 16774)
Tình yêu thươngnăng lực vô song, giúp bạn không còn cảm xúc sợ hãi. Một khi bạn phát triển được tình yêu thương (tâm Đại từ) thì sẽ không còn chỗ cho sự sợ hãi.
(Xem: 30667)
Phật giác ngộ nhờ con đường Bồ Tát, con đường mà ngài đã trải qua từ đầu đến cuối. Ngài nói rằng với ngài điểm khởi đầu của con đường bồ đề tâm là trong cõi địa ngục.
(Xem: 16853)
Chúng ta cũng nên biết: “Vô thường thì vô ngã”, tại sao? Vì thân tâm con người gồm có sắc và tâm, Sắc là thân do Bốn Đại “Đất, Nước, Gió, Lửa” hợp lại mà thành...
(Xem: 18390)
Áo nghĩa thư (Upaniṣad) còn được biết với một tên gọi khác nữa, đó là Vedānta, vì nó được xem là phần tột cùng của Phệ-đà... Thích Nhuận Châu dịch
(Xem: 18331)
Chính Đức Phật đã quy chuẩn cách dùng ngôn ngữ hay tiếng nói địa phương trong việc truyền đạt giáo lý... Thích Nhuận Châu dịch
(Xem: 17283)
Thực ra luân hồi sanh tử không chỉ vậy! Luân hồi sanh tử còn là tiến trình tâm trong mỗi sát-na... Đỗ Hồng Ngọc
(Xem: 18030)
Một thời đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc, nước Xá Vệ. Một hôm vào buổi sáng, Tỳ Kheo Nan Đà mặc áo sặc sỡ, đi giày viền vàng, lại vẽ mặt, trông rất kỳ quặc...
(Xem: 16981)
Đại Vương nên biết thân người như tuyết đọng, rồi sẽ tan rã, cũng như ngói đất sẽ tan hoại không thể giữ lâu mãi mãi...
(Xem: 23306)
Vì luôn khế hợp với chân lý của cuộc đời, nên giáo pháp của Đức Phật cũng như một bánh xe có thể chuyển vận hướng về phía trước, di chuyển, lan tỏa đến nhiều xứ sở...
(Xem: 16872)
Phật giáo cho rằng tất cả những mâu thuẫn, nội kết, xung đột trong phạm vi cá nhân hay xã hội đều được phát sinh từ ba độc tố trong tâm thức, đó là tham, sân, và si.
(Xem: 17367)
Căn cứ trên khái niệm về Tính không nghĩa là Quang Minh khách thể, và cũng căn cứ khái niệm về Quang Minh chủ thể, chúng ta cố gắng phát triển một sự lí hội thông hiểu...
(Xem: 17536)
Vô ngãhình thức đối nghịch với cái ngã. Cái ngã thì sanh lão bệnh tử, biến dị, khổ ưu, vô thường. Trái lại vô ngã được quan niệm như là bất sanh bất diệt...
(Xem: 16947)
Con đường tìm đạo, tự tu tự chứng đến khi đắc đạo của đức Phậthành trình lắm chông gai với lòng kiên trì quyết thắng là một nỗ lực phi thường.
(Xem: 15636)
Một thời Đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc, nước Xá Vệ, lúc ấyTỳ Kheo Cù Ba Ly (có sách dịch là Cù Ca Lê) đến chỗ đức Phật cúi đầu lễ Phật rồi thưa...
(Xem: 17923)
Một hành động có ba phần: Động lực (ý nghiệp) thúc đẩy chúng ta nói (khẩu nghiệp) và hành động (thân nghiệp).
(Xem: 17289)
Đạo đức kinh tế theo quan điểm của Phật giáo, tác giả: Peter Harvey, Đỗ Kim Thêm dịch
(Xem: 17101)
Tâm vô lượng là tâm rộng lớn không thể tính lường được. Tâm vô lượng không những làm lợi ích cho vô lượng chúng sanh, dẫn sinh vô lượng phúc đức...
(Xem: 29357)
Kim Cương thừa có nhiều phương cách thực hành khác nhau, hàng trăm hàng ngàn bản tôn khác nhau để đấu tranh với sự ô nhiễm nhiều vô kể, thông qua thiền định...
(Xem: 27558)
Bài giảng này để giúp chúng ta tin tưởng vào cảm giác của mình và tránh bị lạc lối. Bốn điều nhắc nhở ở đây vừa được áp dụng với Pháp cũng như các khía cạnh của cuộc sống...
(Xem: 18074)
Đối với Đức Phật thì tất cả mọi hiện tượng đều không ngừng hình thành, không có một ngoại lệ nào cả, vì thế chúng không hàm chứa bất cứ một thực thể cố định hay bất biến nào.
(Xem: 16033)
Hai từ Bụt và Phật đã để lại dấu ấn sâu đậm trong ngôn ngữ lịch sử Việt Nam, vết tích còn thấy trong ca dao tục ngữ của văn hóa dân gian như thành ngữ ăn chay niệm Phật...
(Xem: 15275)
Cố vận động một phong trào dùng lại từ Bụt thay từ Phật đã không thăng tiến được một phương diện nào, không làm cho Phật Giáo Việt Nam phát triển mạnh hơn, cao hơn...
(Xem: 22893)
Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold - Trần Phương Lan dịchchú giải
(Xem: 14712)
Thật ra, danh từ Bụt không phải là một danh từ mới, mà vốn đã được tổ tiên nhiều đời người Việt sử dụng từ lúc lập quốc đến nay, gần cả hai ngàn năm...
(Xem: 54947)
Trong thế giới đầy bóng tối này, bóng tối của đe dọa chiến tranh, và nếp sống phi đạo đức, chúng ta hãy thắp lên ngọn đèn của trí tuệ, của hiểu biếtthông cảm.
(Xem: 14057)
Phật giáo là “chân lý thực tại”, mà cốt lõi chính là đạo đứcgiới luật làm nền tảng. Khi Phật còn tại thế, ngài chế giới là để ngăn ngừa sự bại hoại của tăng đoàn.
(Xem: 13174)
Chân Như vừa huân tậphai mặt ‘bên trong’ và ‘bên ngoài’. ‘Bên trong’ là huân tập trong tâm hành giả. ‘Bên ngoài’ là huân tập từ bên ngoài, tức là từ chư Phật, Bồ-tát...
(Xem: 14064)
Rõ ràng, trong các mối quan hệ của con người thiết lập, thì mối quan hệ thầy đối với trò có một vai trò quan trọng trong đời sống thăng tiến tri thứcchuyển hóa tâm linh...
(Xem: 15398)
Đối với vũ trụ học Phật Giáo, vòng lưu chuyển của đời sống của một vũ trụtuần hoàn. Có một thời điểm hình thành (thành), một thời điểm trải qua (trụ), một thời điểm suy tàn...
(Xem: 13088)
Với trí tuệ của bậc toàn giác, Đức Phật đã chỉ ra chân lí của sự sống, rằng mọi loài sống trên trái đất này đều có quan hệ hữu cơ, gắn bó khăng khít với nhau...
(Xem: 19234)
Nghiệp là một trong các giáo lý căn bản của Phật giáo. Mọi việc khổ vui, ngọt bùi trong hiện tại của chúng ta đều do nghiệp của quá khứhiện tại chi phối.
(Xem: 24427)
Làm sao cái Biết nhận thức được tự tính không của đối tượng? Đối tượng mà ta nhận thấy (nhận biết của tâm) thật ra chỉ là thấy hình ảnh không của đối tượng mà thôi.
(Xem: 15632)
Chú Đại bi còn có những tên gọi sau: Thiên thủ thiên nhãn quảng đại viên mãn vô ngại đại bi tâm đà-la-ni, Quảng đại viên mãn đà-la-ni...
(Xem: 37659)
Có thể nói nguyên nhân sâu xathen chốt nhất của sự biến mất truyền thống Tăng bảo trong Phật giáo Nhật Bản hiện tạibản thể giới luật của Tăng không được coi trọng.
(Xem: 13373)
Theo truyền thuyết, không lâu trước khi nhập niết bàn, Đức Phật đã trả lời Ananda, thị giả theo hầu cận Phật nhiều năm, khi vị này xin Phật chỉ dẫn cách đối xử cho các vị tỳ kheo...
(Xem: 13006)
Tu hành Duy thứcđạt đến hai vô ngã bằng cách biết ngã và pháp không là gì ngoài sự biến hiện của tâm thức. Nói cách khác, ngã và pháp chỉvọng tưởng không thật.
(Xem: 17052)
Ý thức là cái hoạt động mạnh nhất ở nơi con người; cho nên, cái gì tốt đẹp nhất cũng như cái gì xấu xa nhất của con người đều do ý thức tạo ra. Cũng ý thức là cái thức biến đổi...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant