Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Suy Nghĩ Về Mười Hai Nhân Duyên

11 Tháng Hai 201607:33(Xem: 11601)
Suy Nghĩ Về Mười Hai Nhân Duyên
Suy Nghĩ Về Mười Hai Nhân Duyên

Trần Tuấn Mẫn

Suy nghĩ về Mười Hai Nhân Duyên

 

Nguyên văn đoạn kinh trong phẩm Phật-đà, Tương ưng bộ, như sau: “Này các Tỳ-kheo, thế nào là lý duyên khởi? Này các Tỳ-kheo, vô minh duyên hành; hành duyên thức; thức duyên danh sắc; danh sắc duyên sáu xứ; sáu xứ duyên xúc; xúc duyên thọ; thọ duyên ái; ái duyên thủ; thủ duyên hữu; hữu duyên sanh; sanh duyên già chết, sầu, bi, khổ, ưu, não được khởi lên. Như vậy là toàn bộ khổ uẩn này tập khởi”.

 

Đoạn kinh trên giảng về lý duyên khởi, áp dụng trong việc nêu lên nguyên nhân, trạng thái và sự vận hành nội tại của khổ. Truyền thuyết kể, Thái tử Tất-đạt-đa cùng đoàn tùy tùng qua bốn cổng thành. Tại hai cổng cuối, Ngài trông thấy một xác chết, rồi một vị Sa-môn; từ đó Ngài suy nghĩquyết tâm xuất gia để sau cùng thành Phật, bậc Giải thoát. Vậy động cơ trước nhất khiến Ngài xuất gia là để giải quyết cái chết. Sau khi nói lên truyền thống chứng ngộ của sáu vị Cổ Phật, đến phần Đức Phật Thích-ca, Ngài dạy, “Thế giới này… không biết sự xuất ly già chết, thoát khỏi già chết”. Và Ngài dạy tiếp, “Rồi này các Tỳ-kheo, ta lại suy nghĩ như sau: ‘Cái gì có mặt thì già chết có mặt?... Do sanh có mặt nên già chết có mặt, do duyên sanh nên già chết sanh khởi’.”. Và Ngài tiếp tục quán sát cho đến “do duyên vô minh có mặt nên hành có mặt”. Có lẽ để dễ hiểu hơn, ta hãy xét sự quán sát này, tức từ già chết mà đi ngược lên.

 

Tại sao già chết có mặt? Hiển nhiên là do sự sanh ra; nếu ta không sanh ra thì ta không già chết. Tại sao có sự sanh? Vì có một cảnh giới, một môi trường có sự sống (hữu, tam giới) thì mới có sự sanh. Tại sao có thế giới, có các cảnh giới (hữu)? Do vì ta chấp thủ, ta nắm giữ (thủ), cho là hay, là thật dù thế giới này là ảo, là không thật. Tại sao có sự chấp thủ? Do vì ta ưa thích, ham muốn (ái) nên mới giữ gìn, chấp nắm thứ ta ưa thích; ngay cả sự ghét bỏ cũng là thể hiện sự ưa thích của ta đối với đối tượng trái ngược. Do đâu có ái? Do vì ta thọ nhận, cảm nhận (thọ) những thứ ta cho là đáng yêu (và quên, bỏ qua những gì ta không ưa thích). Tại sao có sự cảm nhận, thọ nhận? Do vì ta tiếp xúc (xúc) với ngoại cảnh. Tại sao có sự tiếp xúc? Vì ta có các quan năng tiếp xúc với ngoại cảnh là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, và ý (lục nhập, sáu xứ) tiếp xúc với các môi trường (xứ) liên hệ với sáu quan năng ấy. Tại sao có sáu xứ? Là do thành phần của toàn bộ con người của ta đang sống (vật chấttâm lýdanh sắc). Tại sao có các thành phần tâm lý, vật lý (danh sắc) gồm trong con người? Đó là do cái biết (thức). Cái biết, hay thức, ở đây là vọng thức, là đương thể, nó tạo ra đối tượng để làm nội dung cho chính nó. Nói như vậy thì cũng chính danh sắc tạo nên thức. Danh sắc và thức là một (xem phần sau). Do đâu mà có thức? Đấy là do sự vận hành, hành động của thân, khẩu, ý, của ngũ uẩn tạo nên nghiệp (hành). Do đâu mà có hành? Đấy là do vô minh, u tối, mê muội từ vô thủy, như một sức mạnh tạo ra sự vận động, hành động, hành. Từ đó, mười hai nhân duyên được sắp xếp theo thứ tự “Vô minh duyên hành, hành duyên thức, … sanh duyên già chết, sầu, bi, khổ, ưu, não”.  Ta cũng dễ dàng theo dõi lời dạy tiếp theo của Đức Phật: “Do vô minh diệt, hành diệt; do hành diệt, thức diệt; … do sanh diệt, già chết, sầu, bi khổ, ưu, não diệt”, hay “Do sanh diệt, già chết diệt; do hữu diệt, sanh diệt; …; do vô minh diệt, hành diệt”.

 

Thực ra, cả mười hai nhân duyên đều gồm một khối, khối khổ; là con người đang khổ, đang sống trong vòng luân hồi. Mười hai nhân duyên không rời nhau, hiện hữu, vận hành cùng lúc. Một chi phần xuất hiện thì mười một chi phần kia đồng thời xuất hiện; một chi phần tiêu diệt thì mười một chi phần kia đồng thời tiêu diệt. Mười hai nhân duyên là khổ, tức mười hai nhân duyên cũng là Tập đế của Tứ đế, tức là Ái. Ái lại là chi phần thứ tám của mười hai nhân duyên. Để dứt khổ, người ta khó tu tập để đoạn diệt vô minh, hành, thức…,vì đấy là trạng thái đã rồi, đang vận hành trong mỗi con người (khó diệt vô minh vì đang vô minh; khó diệt già chết vì đã sanh ra). Ái cũng vậy, nhưng người ta có thể giảm trừ ái dần dần cho đến khi diệt hẳn ái.

 

Cũng trong phẩm Phật-đà của Tương ưng bộ, Đức Phật dạy: “Do ly thamđoạn diệt vô minh một cách hoàn toàn nên hành diệt. Do hành diệt nên thức diệt;…; do sanh diệt nên già chết, sầu, bi khổ, ưu, não diệt”. Vậy, ái cũng là nguyên nhân của vô minh nên ly tham (ái diệt) thì vô minh diệt. Vô minh diệt thì hành diệt, v.v. Và mười hai chi phần thực ra cũng chỉ là một như đã nói.

 

Ta cũng biết rằng mọi sự vật, sự kiện, hiện tượng là do nhiều, do vô số nguyên nhân (gọi là nhân, duyên, nhân duyên; và nhân cũng chính là duyên, hay ngược lại, duyên là nhân, tùy quan điểm của chủ thể nhận định). Do đó, con số 12 chi phần trên cũng không nhất thiết là mười hai; và việc phân chia số lượng, thứ tự… còn mang tính cách của biện pháp, hay phương pháp sư phạm, dù đây là biện pháp, phương pháp siêu việt của bậc Toàn Trí.

 

Thật vậy, không phải lúc nào Đức Phật cũng nêu đúng 12 chi phần trên; có khi ít hơn, có khi nhiều hơn; và thứ tự các chi phần cũng có thay đổi. Trong Tương ưng bộ, Đại phẩm thứ bảy, Đức Phật dạy, “Do duyên danh sắc, thức sanh khởi. Do duyên thức, danh sắc sanh khởi”, và “Do danh sắc không có mặt, thức không hiện hữu. Do danh sắc diệt nên thức diệt”. Trong kinh Đại duyên của Trường bộ, Đức Phật dạy, “Này A-nan, nếu có ai hỏi thức do duyên gì thì hãy đáp thức do duyên danh sắc”. Vậy thức và danh sắc có thể hoán đổi vị trí. Đức Phật còn dạy “Sanh y (sanh) lấy ái làm nhân, lấy ái làm tập khởi, lấy ái làm hiện hữu”. Tức là áinguyên nhân của sanh chứ không phải chỉ có hữu mới là nguyên nhân của sanh. Ngài dạy tiếp, “…; do duyên sanh, lão tử sanh; do duyên lão tử, sầu, bi, khổ, ưu, não sanh”. Ở đây, sầu, bi, khổ, ưu, não vốn cùng với lão tử là một chi phần lại trở thành hai chi phần riêng. Trong kinh Đại duyên, Ngài còn dạy, “Này A-nan, do duyên thọ, ái sanh; do duyên ái, cầu tìm sanh; do duyên cầu tìm, lợi sanh; do duyên lợi, quyết định sanh; do duyên quyết định, tham dục sanh; v.v.”, và “Do duyên ý và các pháp, thức khởi lên; do ba cái tụ hội nên có xúc; do duyên xúc nên có thọ; do duyên thọ nên có ái. Này các Tỳ-kheo, đây là khổ tập khởi”. Lại nữa, “Vô minh duyên hành;…; hữu duyên sanh; sanh duyên khổ; khổ duyên tín; …”; trong đoạn này, chi phần lão tử được thay bằng chi phần mới là khổ.

 

Tiếc rằng kinh không ghi lời Phật dạy tại sao vô minh sinh hành, tại sao hành sinh thức, v.v. Ta chỉ hiểu tại sao sanh sinh lão tử; vì có sanh ắt có chết! Ta cũng có thể giải thích tại sao như đã nói trên; và cũng có thể hiểu rằng chi phần đứng trước là thể, là tính, là năng lực tạo ra chi phần kế tiếp như là tướng, là dụng, là kết quả của chi phần đứng trước.

 

Đức Phật không hề chia 12 chi phần ra từng nhóm thuộc hiện tại, quá khứ, vị lai. Thế mà về sau, các luận gia lại chia ra như thế để giải thích về nghiệp, nhân quả, luân hồi (Ví dụ, quan điểm Tam thế lưỡng trùng nhân quả của Nhất thiết hữu bộ). Rõ ràng, theo văn mạch của kinh, với lý duyên khởi, Đức Phật chỉ giải thích nguyên nhân và sự vận hành nội tại của khổ, của sinh tửcon người đang sống, ngay đây và bây giờ. Có nhiều người còn lập luận rằng đến chi phần lão tử thì chuỗi nhân duyên lại nối tiếp để trở về chi phần đầu tiên là vô minh theo kiểu lập luận vòng tròn (mà do cảm tính nên bảo rằng đấy là cách giải thích về luân hồi). Như vậy là đi xa văn mạch của kinh.

 

Đức Phật đã áp dụng nguyên lý căn bản của Duyên khởi do Ngài phát hiện, “Do cái này có mặt, cái kia có mặt; do cái này sanh, cái kia sanh. Do cái này không có mặt, cái kia không có mặt; do cái này diệt, cái kia diệt”. (Kinh Phật tự thuyết). Ngài khởi quán từ nguyên nhân của già chết (là động cơ khiến Ngài xuất gia), từ đó Ngài quán tiếp, dần đến vô minh. Theo chiều xuôi, Ngài lại quán từ vô minh đến già chết. Vậy là xong. Ngài không dạy thêm gì khác trong văn mạch này./. 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 57)
Cuộc đời và công việc của Bồ tát được nói trong phần cuối đoạn Đồng tử Thiện Tài gặp đức Di Lặc.
(Xem: 141)
Trong khi các tín ngưỡng về nghiệp và tái sinh là phổ biến vào thời của Đức Phật,
(Xem: 166)
Đây là ba phạm trù nghĩa lý đặc trưng để bảo chứng nhận diện ra những lời dạy của đức Đạo sư một cách chính xác mà không
(Xem: 221)
Đi vào Pháp giới Hoa nghiêm là đi vào bằng bồ đề tâm thanh tịnh và được cụ thể hóa bằng nguyện và hạnh.
(Xem: 150)
Nhị đế là từ được qui kết từ các Thánh đế (āryasatayā) qua nhân quả Khổ-Tập gọi là Tục đế
(Xem: 203)
Quí vị không giữ giới luật có thể không làm hại người khác, nhưng thương tổn tự tánh cuả chính mình.
(Xem: 182)
Lầu các của Đức Di Lặc tượng trưng cho toàn bộ pháp giới của Phật Tỳ Lô Giá Na; lầu các ấy có tên là Tỳ Lô Giá Na Đại Trang Nghiêm.
(Xem: 221)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(Xem: 236)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 316)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 557)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 422)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 434)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 529)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 717)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 766)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 794)
Tóm tắt: Phật giáotôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 798)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 693)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 680)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 683)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 791)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 813)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 907)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 675)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 582)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 680)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 802)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 685)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 690)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 787)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 810)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 793)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 837)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 864)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 853)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 1041)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 916)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1578)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 1023)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1172)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 920)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1173)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 1086)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 1081)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1229)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1507)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 1938)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1053)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1315)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 1061)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 915)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 1040)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 1076)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1495)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1236)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1253)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 991)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1147)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant