Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Chân Lí Trong Thế Giới Của Nguyên NhânHiệu Quả

16 Tháng Hai 201612:58(Xem: 8443)
Chân Lí Trong Thế Giới Của Nguyên Nhân Và Hiệu Quả

Nguyệt Xứng
CHÂN LÍ TRONG THẾ GIỚI CỦA NGUYÊN NHÂNHIỆU QUẢ 

Bản dịch Việt: Đặng Hữu Phúc

Bản dịch Anh: Candrakirti. Lucid Exposition of the Middle Way. The Essential Chapters from
the Prasannapada of Candrakirti. Translated from the Sanskrit by Mervyn Sprung
in collaboration with T.R.V. Murti and U.S. Vyas. Routledge, 1979. ( pp184 - 185)

Chân Lí Trong Thế Giới Của Nguyên Nhân Và Hiệu Quả

Quy chiếu về sự tướng trạng hoá của thật tướng của các sự vật trong thế giới hàng ngày ngài Long Thọ nói:

XVIII.10  Cái gì bắt đầu hiện hữu do tùy thuộc vào một sự vật khác thì nó không thể là chính sự vật đó; cũng không thể là một sự vật hoàn toàn khác với sự vật đó; thế nên các sự vật không thể đoạn diệt một cách hoàn toàn, chúng cũng không thể thường hằng.

Bất kì một sự vật gì tùy thuộc vào một nguyên nhân thì duyên hội thành một hiệu quả. Một mầm lúa, tỉ dụ, bắt đầu hiện hữu trong sự tùy thuộc vào một hạt giống và một phức hợp các duyên tỉ dụ đất, v.v... Nhưng không thể nói mầm thì rõ ràng chính xác đồng nhất với hạt giống, cũng không thể nói hạt giống thì rõ ràng chính xác đồng nhất với mầm vì tạo hệ quả vô lí rằng cái được sinh ra (sở sinh) và cái tạo ra sinh (năng sinh) sẽ là một và đồng nhất: rằng người bố và người con sẽ là đồng nhất. Nếu không có sự khác biệt thì một kẻ sẽ xem hạt giống hiện hữu trong giai đoạn mầm, chính là mầm, và một kẻ sẽ xem mầm là hạt giống. Hạt giống như vậy sẽ là thường hằng bởi vì không thể đoạn diệt. Bởi vì điều này sẽ đưa đến một học thuyết về thường hằng nó sẽ tạo kết quả quy mô với các lỗi lầm trầm trọng; nó sẽ đưa đến kết luận có tính luận lí rằng tác hành và các hệ quả của nó là không thật. Do thế, nói rằng hạt giống thì đồng nhất với mầm là không hợp lí. Cũng không hợp lí khi nói hạt giống này thì hoàn toàn khác với mầm; mầm không thể hoàn toàn là một cái khác và hệ quả (or) tiếp theo là mầm có thể nảy mầm cho dù không có hạt giống. Như ngài Long Thọ nói: ‘Nếu cái là ‘cái khác’ là hoàn toàn khác biệt với ‘cái khác’ nó sẽ là một cái khác nếu nó không có bất kì một sự khác biệt’. Nó sẽ đưa đến kết quả nếu một hạt giống tiếp tục tồn tại trong mầm rằng hạt giống sẽ không thể hoại diệt. Nó sẽ đưa đến lỗi lầm luận lí do chủ trương rằng hiệu quả đã hiện hữu từ trước trong nguyên nhân. Và do thế, khi nói ‘Bất kì một sự vật gì tùy thuộc vào một nguyên nhân sẽ bắt đầu là một hiệu quả’ thì không có nghĩa là ‘nguyên nhân trở thành hiệu quả’. Nó lại cũng không có nghĩa là hiệu quả thì hoàn toàn khác hẳn nguyên nhân. Thế nên, có thể kết luận ‘nguyên nhân thì không thể đoạn diệt cũng không thường hằng’.

Như ngài Thánh Thiên (Aryadeva) nói: ‘Từ sự kiện rằng các sự vật sinh khởi vận hành chúng không là sự vật bị đoạn diệt; từ sự kiện rằng các sự vật chấm dứt vận hành chúng không là thường hằng’ (Catuhsataka , X, 25). Kinh Phổ Diệu (Lalitavistara) có nói: ‘Nếu có một hạt giống thì có một mầm, mặc dù hạt giống không là mầm, mà hạt giống cũng không hoàn toàn là một cái khác với mầm. Đây là lí do tại sao bản chất của các sự vật là không thể đoạn diệt cũng không là thường hằng’.

__________________

Candrakirti. Prasannapada.
Self and the way things really are
The truth in the world of cause and effect

Concerning the characterization of the way things are in the world of everyday Nagarjuna says:   

XVIII.10  What comes into existence dependent on something else cannot be that very thing; nor can it be wholly other either; therefore things neither perish completely nor are they everlasting.

Anything dependent on a cause comes to be as an effect. A rice sprout, for example, comes into existence in dependence on a rice seed and a complex of conditions like the soil, etc. But it cannot be said that the sprout is precisely the same thing as the seed, nor that the seed is precisely the same thing as the sprout because of the absurd consequence that what is born and what gives birth would be one and the same: that father and son would be identical. If there is no difference one would take the seed to exist in the sprout phase, i.e. as sprout, and one would take the sprout as the seed. The seed would thus be eternal because imperishable. Because this entails the doctrine of eternalism it would result in a mass of grievous faults; it would follow that action and its consequences were not real. Therefore it does not make sense to say that the seed is identical with the sprout. Nor is the one entirely other than the other; the sprout cannot be entirely other than the seed or it would follow that the sprout could sprout even apart from the seed. As Nagarjuna says: ‘If what is ‘other’ is entirely other than ‘the other’ it would be other without anything other’. It would follow if the seed persists in the sprout that the seed would be imperishable. This would entail the logical fault of holding that the effect pre-exists in the cause. And so, to say ‘Anything dependent on a cause comes to be an effect’ does not mean ‘the cause becomes the effect’. Nor again is the effect wholly other than the cause. Therefore, it is possible to conclude ‘the cause is neither perishable nor eternal’.

As Aryadeva says ‘From the fact that things function they are not nothing; from the fact that things cease functioning they are not eternal’. It is said in the Lalitavistara ‘If there is a seed there is a sprout, though the seed is not the sprout, nor is it wholly other. This is why the nature of things is neither perishable nor eternal’.  

______________

Phụ bản - Kinh Phổ Diệu (Lalitavistata Sutra)

*

Tất cả các pháp hữu vi hiện hữu 
thành lập từ các nguyên nhân và các duyên ;
các nguyên nhân tạo thành các duyên, các duyên tạo thành các nguyên nhân:
chúng tương trợ lẫn nhau. 
Những kẻ ngu không hiểu điều này.

*
"All composites exist 
proceeding from causes and conditions;
causes make conditions , and conditions, causes:
they support each other.
The ignorant do not understand this. "
(The Lalitavistara. The Voice of the Buddha. The Beauty of Compassion .Kinh Phổ Diệu . Vol 1, p. 263)

________________
Khi có một hạt giống, có một mầm 
nhưng hạt giống không là mầm. 
Nó không phải là một cái khác,
tuy nó cũng không là cái đồng nhất. 
Và do thế không có thường hằng hoặc đoạn diệt

*

When there is a seed, there is a sprout,
but the seed is not the sprout.
It is not something else, 
though it is not the same thing either. 
And so there is no permanence or ending.
(Lalitavistara. The Voice of the Buddha . The Beauty of Compassion- p.264 Kinh Phổ Diệu)
__________________
Nguyệt Xứng. Minh Cú Luận (p.185)

Kinh Phổ Diệu (Lalitavistara) có nói: ‘Nếu có một hạt giống thì có một mầm, mặc dù hạt giống không là mầm, mà hạt giống cũng không hoàn toàn là một cái khác với mầm. Đây là lí do tại sao bản chất của các sự vật là không thể đoạn diệt cũng không là thường hằng’.

*

Candrakirti. Prasannapada. Lucid Expostion of the Middle Way. p.185 . Nguyệt Xứng . Minh Cú Luận .

It is said in the Lalitavistara:
'If there is a seed, there is a sprout, though the seed is not the sprout, nor is it wholly other. This is why the nature of things is neither perishable nor eternal’ . 

________________

Phụ Bản - Giữa lòng cuộc đờiChân lí trong thế giới của nguyên nhânhiệu quả

Chan Li

Chúng ta có thể quán chiếu hạt giống và mầm trong thế giới của nguyên nhânhiệu quả trong 4 hình ảnh Lễ Tưởng Niệm Hai Bà Trưng để lí hội thông hiểu về giáo pháp của Phật trình bày trong Kinh Phổ Diệu , và Trung luận của  ngài Long ThọMinh cú luận của ngài Nguyệt Xứng.

“Do thế, nói rằng hạt giống thì đồng nhất với mầm là không hợp lí. Cũng không hợp lí khi nói hạt giống này thì hoàn toàn khác với mầm; mầm không thể hoàn toàn là một cái khác và hệ quả (or) tiếp theo là mầm có thể nảy mầm cho dù không có hạt giống”. (Nguyệt Xứng. Minh cú luận

Therefore it does not make sense to say that the seed is identical with the sprout. Nor is the one entirely other than the other; the sprout cannot be entirely other than the seed or it would follow that the sprout could sprout even apart from the seed.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 163)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 215)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 409)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 308)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 338)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 386)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 622)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 679)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 638)
Tóm tắt: Phật giáo là tôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 685)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 600)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 541)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 594)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 686)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 702)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 800)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 598)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 492)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 574)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 669)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 588)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 591)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 695)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 710)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 703)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 769)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 794)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 769)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 961)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 828)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1388)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 913)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1078)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 832)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1061)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 993)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 980)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1122)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1400)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 1745)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 971)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1160)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 970)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 818)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 949)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 972)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1395)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1143)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1174)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 924)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1068)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1518)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1398)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1391)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 980)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1375)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1289)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1213)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 1253)
Khi học sinh từng người, từng người tốt nghiệp rời khỏi Phật học viện rồi, tôi bắt đầu xây dựng Biệt phân viện[1]khắp nơi, để ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant