Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Hiện Hữu

17 Tháng Hai 201612:41(Xem: 8515)
Hiện Hữu

HIỆN HỮU

Lê Huy Trứ (2-17-2016)

Hiện Hữu

Trong cuốn giáo thuyết về linh hồn của Phật Giáo, Soul theory of the Buddhist, Giáo Sư Stcherbatsky, ghi nhận rằng, "Khi Đức Phật gọi chủ thuyết về một cái ngã thường hằng là một "chủ thuyết cuồng si," rõ ràng là Ngài đang chống lại một chủ thuyết đã được thành lập.  Bất cứ khi nào trong các bài giảng của Ngài, Ngài đều nói về vô ngã hoặc thân kiến - chấp vào xác thân hiện hữu - (Satkàyadrsti)" (When Buddha calls the doctrine of an eternal self "a doctrine of fools" it is clear that he is fighting against an established doctrine. Whenever in his sermons he comes to speak about Soullessness or Wrong personalism).

Trong tác phẩm Quan điểm cơ bản của Phật Giáo, The Basic Conception of Buddhism, Giáo Sư V. Bhattacharya, sau quá trình nghiên cứu về học thuyết Vô Ngã (Non-self,) đã kết luận rằng, "... Qua nhiều cách khác nhau, sự hiện hữu về một cái ngã vĩnh hằng (hay àtman,) như được công nhận bởi những hệ thống triết học khác, đã bị Đức Phật khước từ một cách hoàn toàn bằng cách đoạn trừ chính cái căn rễ của tham ái, nơi mà cái ngã vĩnh hằng ngự trị" (Thus and in various other ways, the existence of a permanent Self or àtman, as accepted in other systems, was utterly denied by The Buddha, thereby pulling down the very foundation of desire where it can rest.)

Descartes chủ trương trong vũ trụ chỉ có hai bản chất: một là hình tướng (étendues, form) hai là ý thức tư duy (pensentes, thinking) là giữa vũ trụ quan có hai miền duy lý; hình tướng thuộc về không gianthời gian, và miền thứ hai là ý thức thuộc tinh thần và vật thể. Giữa hai miền này không thể gặp nhau.  Do đó, phát sinh tư duy hoài nghi chìm vào tư duy hiện hữu.  Hiện hữu của chỉ định ‘tôi’ chắc chắn khi tư duy đến ‘pensé/think’ giữa hữu thể và vật thể. Vậy tôi là một hiện vật có ý thức (consciousness) rõ ràng thời đó là chân lý minh bạch, nhà Triết Gia Pháp Descartes, “Tôi tư duy nên tôi hiện hữu!” (French philosopher Descartes: Je pense donc je suis’ (I think, therefore I am. From the original Latin phrase "Cogito ergo sum!")  Vì sao? Do từ hiện hữu đi đôi với ý thức

Jean-Paul Sartre lại nhìn khác hơn về hiện hữu tư duy; ông cho rằng thực thể hữu hạn không thể là một vật thể duy nhất vừa là khác nhau theo cùng một quan điểm. Theo những triết gia đi trước thì hữu thể là bắt nguồn từ hai nguyên lý ‘bất khả phân ly’ mà tạo nên hữu thể hiện hữu/ être, be, existence là yếu tính, là một xác định cho nó là cái này mà không phải cái kia.

Sartre thường hay xử dụng ngôn ngữ 'nhận thức' như một lý trí riêng tư "non-positionelle (de) soi"; chữ 'de' được nằm trong dấu ngoặc đơn, để chứng tỏ rằng không có sự phân chia đẳng cấp hay ngôi vị, không phân biệt vị trí của bản ngã như một đối tượng của ý thức.  Sartre đề cập đến một thứ ý thức trong sáng  (néant/nothingness) một trạng từ chưa tỏ rõ bằng một sự nhấn mạnh rõ ràng trong cái không, cõi không trống rỗng, không dính dáng vào cái không của không (emptiness of emptiness.)  Sartre đưa cái ý thức trong sáng của hiện hữu cũng như hư không; có thể là một luận ántính cách võ đoán (non-thetic) cho tự-thức (self-consciousness) hoặc đưa vào một vị trí của tự-thức cái đó là tâm-thức  của 'soi' tức là 'tự' cái tự-có  (soi-même/one-self) trong ý thứcý thức đó như một ý thức suy xét phản ảnh được sự nhìn nhận về hành động và trạng thái của ý thức trong sáng đó và hầu như dành cho một vị trí ‘tự-nó.’ Cùng một trạng huống đó Sartre đặc ra hai nền tảng chính yếu cho vấn đề ý thức như quan tâm tới sự phản ảnh của ý thức.

Có hai vị trí khác biệt của khoa tâm lý học; đối với Sartre là một tiếp nối quan trọng qua lăng kính của ông đó là ‘Cho-tự-nó’ (For-itself) chính vị trí đó là mạch liên đới với con người.  Đấy là ý tưởng của Sartre nói về như nhiên của thân tâm, của dục tính xác thịt.  Lẽ đương nhiên cảm giác đó là thể chất đứng ra như một sự kiện của con người.

Chúng ta suy xét về một phần của ý thứcý thức đó chính là Cho-tự-nó được coi như Hư Khôngmãi mãi mâu thuẩn nội tại.  Thực tế sự ấy nằm trong lãnh vực của Cái-trong-tự-nó (In-itself) như đã được tồn lưu (existed) bởi cái gọi là Cho-tự-nó (For-itself) thì đó là vấn đề tâm lý. Trên thực tế chúng ta phải có nhiều xác quyết cụ thể về cái Cho-tự-nó là chính thân tâm của mình. Vì Cho-tự-nó là ý thức của vật thể như đã thấy. Cho-tự-nó không có ý thức phán đoán mà chỉ hiện diện để xuyên qua cảm thức của Trong-tự-nó.

Chúng ta đã thấy điều quan trọng ấy trong " La transcendence de l'Ego " Sartre tin là Ego chỉ một phần tâm lý và từ đó được xem như vật thể của thế giới quan. Sartre bắt bẻ sự sai lệch đó về Hiện HữuHư Không mà Sartre đã bày tỏ trước đây và ông rất vững tâm và lạc quan về điều đó. Sartre đã phân tích kỷ năng về thể xác của con người mà ông đã chia ra làm hai phần : -Thể-xác-cho-một-cõi-khác (Body-for-the-Other) và Thể-xác-thấy-bởi-một-cõi-khác (Body-seen-by-the-Other).  Đó là dây chuyền kết nối của tâm-thân. Mỗi khi Hiện Hữu với tâm-thân trong cùng một tiến trình của thành quả thì đó  là Thân-xác-thuộc-về-tôi (Body-for-me) thuộc về Hiện Hữuhiện diện trong cõi Hư-Không để ý thức về những điều 'tự-nó' như hiện thể với thế giới quan.  

Tóm lại, Hiện Hữuđiều kiện giản đơn như vạch trần hết thảy. Hiện-Hữu-vạch-trần (Being-for-revealing / Être-pour-dévoiler) thì cũng như lột-trần-hiện-hữu (revealed-being / être dévoilé) giữa hai dạng thức đó không có gì khác biệt giữa Hiện Hữu; nói cách khác  giữa CÓ và KHÔNG là RỖNG, tất cả đều nằm trong qui trình vũ trụ giới với con người. Sartre giải phóng toàn bộ tính không trong ý thức Hiện HữuHư Không như một gạch nối cho lý thuyết hiện sinh mà Sartre đã bày tỏ  và hết lòng nâng cao giá trị nhân bản một cách trọng yếu trong triết thuyết của Sartre đề ra. Cụ thể hơn hết từ khi xuất bản tiểu luận  Hiện HữuHư Không Sartre luôn luôn quan tâm hạnh phúc hay bất hạnh của con người, đó là vấn đề luân thường đạo lý (Ethical) mà mục đíchtính nết đã được biểu lộ một cách sâu đậm trong những tác phẩm của ông để lại; nhất là những tác phẩm triết học phong phúhiệu năng, một luận án đầy đủ , là phạm trù triết học mang tính triết thuyết hơn là triết học.

(L'Être et le Néant / Being and Nothingness, Jean-Paul Sartre, Hiện hữuHư không, Võ Công Liêm)

Jaspers định nghĩa tạm,“Hiện hữu là cái không bao giờ trở thành một khách thể, cái bắt nguồn từ tư tưởng và hành động của tôi, cái mà tôi nói đến bằng những chữ không có nghĩa gì cả. Hiện hữu là cái nó tương quan với chính nó tức là siêu việt thể của nó.”

Trong bài Ý niệm về Hiện hữu, Thích Tâm Thiện viết, “Sự hữu (bhàva) hay hiện hữu (process of becoming) chỉ có thể được cảm nhận khi nào nó xuất hiện như là một đối tượng (object) trước một chủ thể (subject;) nghĩa là nó xuất hiện trong sự phân biệt và tương quan giữa chủ thể nhận thức (pudgala) và đối tượng được nhận thức (dharma.)  Nếu không như thế, sẽ không có bất kỳ một sự hữu nào hình thành và tồn tại bởi một tên gọi hay làm đối cho nhận thức.  Dẫu rằng, trong thế giới của sự vật hiện tượng, tâm (lý) không phải là vật (lý;) bởi lẽ, tâm vốn thoát ly mọi ảnh tượng của vật, nhưng đối với sự vật hiện tượng hay mỗi hiện hữu, nó không thể hiện hành mà không có tâm; vật và tâm thực chấthai mặt của một sự hữu. Và đây là tiến trình hiện hữu mà các hệ thống triết học thường gọi là mối quan hệ giữa tổng thể phổ quát (universal) và đơn vị đặc thù (particular,) hay giữa thực thể và thuộc tính của nó (substance - attribute) v.v... Từ những chi tiết trên, cho thấy rằng sẽ không có một sự hữu nào, dù là ý niệm hay vật chất, có thể hiện hành một cách độc lập phân ly; mà trái lại, chân lý của nó (sự hữu) là bất khả phân ly; nếu không như thế, mọi cơ cấu triết họctôn giáo của nhân loại sẽ như lâu đài xây trên bãi cát. Tất cả các danh từ như duy vật, duy tâm, duy linh, duy thực v.v... sẽ không có ý nghĩa nếu nó chỉ được hiểu như là chính nó - tức là duy vật thì không duy tâm và ngược lại.”

May mắn cho chúng ta là những triết gia vô dụng này đã chết và ta không còn thấy những triết gia như vậy hiện hữu chạy đầy đường trên thế giới hiện tại trừ trong bệnh viện tâm thần, không thì sẽ có nhiều người điên vì lây bệnh triết lý gàn của họ.

Tương tự, những câu hỏi như: "Thế giới có vĩnh hằng hay không, hoặc vừa vĩnh hằng và vừa không vĩnh hằng? ... Đức Như Laitồn tại sau khi nhập diệt hay không, hoặc vừa tồn tại hoặc vừa không tồn tại ?" (Whether the world is eternal, or not, or both, or neither ?... Whether The Tathagàta exists after death, or does not, or both, or neither ?...) đều là vấn nạn của luận lý, thuộc hệ tư tưởng nhị nguyên (dualism,) và cố nhiên, sẽ không bao giờ kết thúc, đó những câu hỏi lơ lửng.

Trong kinh Tương Ưng (Samyutta - Nikàya) ghi lại một giai thoại rằng: Một thời vua Pasenadi (Ba-tư-nặc) yết kiến Tỳ Kheo Ni Khemà tại Teranavathu, giữa thành Sàvatthi và Sàketa, ông đã đặt bốn câu hỏi như sau :

1- Như Laitồn tại sau khi chết?
2- Như Lai không tồn tại sau khi chết?
3- Như Laitồn tạikhông tồn tại sau khi chết?
4- Như Lai không tồn tạikhông không tồn tại sau khi chết?

Tỳ Kheo Ni Khemà trả lời, "Thế Tôn không trả lời bốn câu hỏi trên." Sau đó, đích thân vua Pasenadi yết kiến Đức Thế Tôn và đặt lại bốn câu hỏi trên, Thế Tôn im lặng.

Trong một dịp khác, Tôn Giả Mahàkotthika (Đại-kiều-thi-na) lại hỏi Trưởng lão Sàriputta (Xá Lợi Phất) và Trưởng lão trả lời rằng, Thế Tôn không trả lời bốn câu hỏi trên là vì nếu trả lời là rơi vào chấp thủ sắc, thọ, tưởng, hành và thức. Do đó, Thế Tôn đã im lặng.

Rồi lại một dịp khác, Trưởng Lão Sàriputta đặt lại bốn câu hỏi trên với tôn giả Mahakotthika, và Tôn Giả trả lời rằng, Thế Tôn không trả lời và việc đó được giải thích như sau:

- Những vấn nạn như thế chỉ có đối với người chưa đoạn trừ tham áichấp thủ đối với sắc, thọ, tưởng, hành và thức.

 - Những vấn nạn như thế chỉ có đối với người chưa đoạn trừ ái lạc Hữu, ái lạc Thủ, ái lạc Ái.

Cùng với trường hợp trên, một dịp khác, Ngoại Đạo Sĩ Vacchagotta (Bà-sa-cù-đa) đã đặt mười vấn nạn siêu hình với Thế Tôn rằng: Thế giới là thường? Vô thường? Là hữu biên? Là vô biên? Sinh mạng thân thể là một hay là khác? Vừa là một vừa là khác? Như Laitồn tại sau khi chết? Như Laitồn tạikhông tồn tại sau khi chết? Như Lai không tồn tạikhông không tồn tại sau khi chết?

Thế Tôn đã không trả lời mười vấn nạn này và cắt nghĩa rằng, “Vì Như Lai quán sắc không phải là tự ngã, hay tự ngã không phải có sắc, hay có sắc không ở trong tự ngã, hay tự ngã không ở trong sắc.”  Tương tự như vậy đối với thọ, tưởng, hành và thức.

Từ đây, rõ ràng là khi con người đặt vấn nạn về các vấn đề siêu hình, thực chất không phải họ muốn vươn lên một tầm cao của thực tại, mà là do bị kẹt vào thân kiến hay ngã kiến của chính cái xác thân của họ đang đầy ắp dục vọng, [một lo lắng trong tâm khảm, THL] muốn tìm kiếm một sự thường hằng, một linh hồn bất tử.  Sự khát vọng thống thiết đó một mặt muốn tìm kiếm chân lýhạnh phúc vĩnh hằng; mặt khác do bị thiêu đốt bởi dục vọng, [tâm bất an, THL] và bởi chính sự lang thang đi tìm cái chân lý hão huyền nên không thể đi vào thực tại - một thực tại đang vận hành bất tuyệt ngay trong đương niệm hiện tiền. Điều trớ trêu đó xuất hiện và vây bủa con người chỉ vì họ đang đuổi bắt cái bóng mờ ảo ảnh của một cái ngã - linh hồn không thật.  Nó chính là "hồn ma ái dục" lúc ẩn, lúc hiện trong bóng đêm của trần thế mông lung, ảo vọng.” (Trích Vấn đề cơ bản của triết học, Thích Tâm Thiện)

Trong kinh Majjhima Nikàya (Trung Bộ,) Đức Phật dạy, "Tùy thuộc vào dầu và tim đèn mà ngọn lửa của đèn bùng cháy; nó không phải sinh ra từ trong cái này cũng không phải từ trong cái khác, và cũng không có một (nguyên động lực) nào trong chính nó; hiện tượng giới cũng vậy, nó không hề có cái gì (thường tại) trong chính nó. Tất cả hiện hữu là không thực có; chúng là giả danh; chỉ có Niết Bànchân lý tuyệt đối. (Depending on the oil and wick does the light of the lamp burn; it is neither in the one, nor in the other, nor anything in itself; phenomena are, likewise, nothing in themselves. All-things are unreal; they are deceptions; Nibhàna is the only truth)." (Majjh. N. III, P. 145 Dialogue, 140)

Duyên khởi hiện hữu là tiền đề để đi vào Tánh Không. Dưới đôi mắt tuệ giác của Đức Phật, mọi hiện hữu không thể được xem là có hay không; mà hiện hữuhiện hữu của Duyên khởi (pacticcasamuppàda hay original dependence.)  Đây cũng chính là ý nghĩa Duyên khởi được triển khai trong Trung Quán Luận bởi ngài Nàgàrjuna:

"Bất sanh diệc bất diệt
Bất nhất diệc bất dị
Bất thường diệc bất đoạn
Bất khứ diệc bất lai."

Nghĩa :

"Không phải sinh cũng không phải diệt
Không phải một cũng không phải khác
Không phải thường cũng không phải đoạn
Không phải đi cũng không phải đến."

Luận chứng về Duyên khởi hiện hữu của ngài Nàgàrjuna dựa vào bốn luận cứ - có, không, cũng có cũng không và chẳng phải có, cũng chẳng phải không. Luận cứ này được diễn đạt như sau:

Chúng nhân duyên sinh pháp
Ngã thuyết tức thị không
Diệc vi thị giả danh
Diệc thị Trung đạo nghĩa.

Nghĩa:

Các pháp do nhân duyên sinh khởi
Nên tôi nói là không thật
Có, cũng chỉ là giả danh thôi
Đó cũng là ý nghĩa Trung đạo.

Đồng thời, bên cạnh bốn luận cứ này, ngài Nàgàrjuna, qua Trung Quán (Madhyamika) đã đặc biệt nhấn mạnh đến con đường truyền giáo pháp của Đức Phật, đó là con đường dung hòa giữa Tục Đế (Samuriti-satya) và Chân Đế (Paramartha-satya) hay còn gọi là Trung Đạo (Majjhimà-patipadà.)

Sắc quá khứ đã diệt hay sắc vị lai chưa sinh ra?  Nếu chấp nhận sự hiện hữu thì đã phủ nhận sự không hiện hữu. Chấp nhận sự hiện hữuvô thường (impermanent) sẽ là không hiện hữu thì thực tại là không hiện hữu (non-being) thì sẽ không có quá khứ hiện hữu (past-being) hoặc tương lai hiện hữu (future-being.)

Không gian hiện hữu tương quan mật thiết với thời gian thực tại, không thể tách lập riêng biệt. Khi hiểu được thực tính của thực tại thì quán triệt được thực tính của hiện hữu. Tư duy con người đã gắn kết thực tại với sự sống hiện hữu. Thực tại được nhìn nhận qua sự tồn tạihoại diệt của hiện hữu. Thực tại là sự hiện hữu từ đó cái Ngã và vạn vật được tạo ra.  Thực tại là dòng chảy cuốn tôi đi, nhưng tôi là dòng chảy đó; thực tại là ngọn lửa tam muội thiêu đốt tôi, nhưng tôi chính là tạng quang minh ấy."  Vấn đề mấu chốt là khái niệm triết học bất khả phân giữa thực tại của thời gianbản chất tồn tại của không gian.  Thương Tình Ca của Phạm Duy: “Đưa nhau vào cõi vô biên.  Đừng cho không gian đụng thời gian.” đã diễn tả gần đúng với ý thực tại đừng ‘để thời gian cuộn (đụng) thời gian’ này.

Hiển nhiên, theo Phật Giáo bản chất của hiện hữu là lý duyên khởi (dependent originations.)  Hiện hữu vốn là giáo lý đặc thù của Phật Giáo và đã xuyên thông qua cả hai hệ thống Nam Tông và Bắc Tạng; được xem như là tiền đề để tìm hiểu mối tương quan thực tại giữa Tứ Diệu Đế và 12 Nhân DuyênHiện hữu không khác thực tại; Thực tại không khác hiện hữuHiện hữu trong không gian, vô thường trong thời gian.  Đó là vô ngã tướng và là một mặt khác của vô thường.

Thích Tâm Thiện viết: “Thông qua các vấn nạn trên và lời dạy của Đức Thế Tôn, rõ ràng sự im lặng của Ngài đã biểu thị một thế giới tâm xả ly và vô niệm, tức là không còn chấp thủ về sự hiện hữu của các pháp (năm uẩn) hay hiện tượng giới là hữu hay phi hữu, là thường hay đoạn, là sinh hay diệt, là một hay khác.  Những vấn nạn về hữu, vô, sinh, diệt, thường, đoạn, khứ, lai - thực chất chúng là hiện thân của tư duy hữu ngã; và như thế, lấy cái hữu hay vô để hỏi về cái đã siêu việt hữu, vô - tức thế giới nhị nguyên (the world of dualism) thì không thể được.  Điều đó như cá dưới nước lại đặt vấn nạn hồ nghi về sự sống trên đất liền.”

Tất cả những công án ở trên thật ra Đức Thế Tôn đã giảng giải rất ràng rọt cho những thiện trí thức và các môn đệtrình độ trí tuệ của Ngài trong 45 năm rồi chỉ có những kẻ ngoại đạo, chưa học Phật, mới u mê chất vấn Ngài với những câu hỏi vô minh về hiện hữuĐức Thế Tôn im lặng (noble silence) không trã lời họ cũng vì lẽ đó.  Ngài đã chứng minh cái Không của Vô Ngã qua thái độ im lặngIm lặng cũng là một cách trả lời.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 7410)
Kinh Hoa Nghiêm tiếng Sanskrit là Avatamsaka, tiếng Nhật là Kégon Kyo. Kinh nầy bằng tiếng Sanskrit do Bồ Tát Long Tho (Nagarjuna) soạn vào khoảng thế kỷ thứ 2 Tây Lịch.
(Xem: 6336)
Con người muốn có cuộc sống an lạchạnh phúc, cần phải tu nhơn tạo phước, chứ không phải chỉ cầu nguyện...
(Xem: 5943)
Phát huy sự chú tâm đúng đắn hướng vào một điểm nhằm mục đích gì? Việc luyện tập đó không nhất thiết là chỉ để giúp tâm thức đạt được một mức độ tập trung thật cao...
(Xem: 4727)
Đức Đạt Lai Lạt Ma Nói Về Phật Giáo Ứng Dụng - Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 5649)
A Dục, Asoka (Sanskrit). Khi đức Phật Thích ra đời, Vua A Dục là một đứa trẻ, trong lúc đang chơi đức Phật đi ngang qua, đứa trẻ đem cát mà coi như cơm cúng dường đức Phật...
(Xem: 5822)
Hàng ngày các Phật tử có thể “Xưng danh hiệu” hay “Niệm danh hiệu” của chư Phật, tức là đọc tên của chư Phật và tưởng nhớ đến các ngài.
(Xem: 6101)
Trong Phật giáo, giải thoát hay thoát khỏi luân hồi là một đề tài vô cùng lớn lao. Ngay cả những người Phật tử đã học qua giáo lý, cũng mường tượng sự giải thoát như ...
(Xem: 6578)
Như Lai có thể diễn tả những gì Ngài muốn bằng bất kỳ ngôn ngữ nào
(Xem: 5917)
Thuật Ngữ nầy có liên hệ đến rất nhiều Thuật Ngữ khác trong Kinh Điển Phật Giáo như: Thủy Giác, Chân Như, Như Lai Tạng, Pháp Tánh, Pháp Giới, Niết Bàn, Pháp Thân, Phật Tánh, Giải Thoát Thực Chất, Toàn Giác v.v…
(Xem: 7016)
Chánh pháp của Đức Phật hay Đạo Phật được tồn tại lâu dài, đem lại hạnh phúc an lạc cho chúng sanh, chư thiênloài người.
(Xem: 6624)
“Đạo Phật nhấn mạnhtu tập giúp chúng ta loại bỏ những tà kiến, chứ không phải là nơi tập hợp các hí luận”.
(Xem: 4743)
Kinh Niệm Xứ (satipaṭṭhānasutta) là kinh thu gọn của Kinh Đại Niệm Xứ (Mahāsatipaṭṭhānasutta). Kinh này là một kinh rất quan trọng trong việc giải thích cách thực hành bốn phép quán
(Xem: 4900)
Bài viết này sẽ phân tích Bát Nhã Tâm Kinh dưới cái nhìn bất nhị, hy vọng sẽ làm sáng tỏ bài kinh cốt tủy này như một lối đi của Thiền Tông
(Xem: 7661)
Đọc “Chú Lăng Nghiêm-Kệ và giảng giải“ Của Hòa Thượng Tuyên Hóa, do TT Thích Minh Định dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ
(Xem: 9773)
Đa số Phật Tử cầu được cứu độ, giải thoát khỏi khổ đau, và giác ngộ nhưng vẫn mâu thuẫn, chấp luân hồi, luyến tiếc cõi trần nên nghiệp thức luôn luôn muốn trở lại cái cõi đời, chấp khổ đau rồi tính sau.
(Xem: 7487)
Đạo Phật khai sinh ở Ấn Độ mà cũng hoàn toàn biến mất ở Ấn Độ; nhưng nhiệt tâm hoằng pháptruyền bá của thế hệ các tăng sĩ tiền bối...
(Xem: 5292)
Bài viết này để nói thêm một số ý trong Bát Nhã Tâm Kinh, cũng có thể xem như nối tiếp bài “Suy Nghĩ Từ Bát Nhã Tâm Kinh”
(Xem: 6398)
Nhân duyên là thực lý chi phối thế gian này. Không có một pháp nào hiện khởi hay mất đi mà không theo qui luật “Có nhân đủ duyên mới có quả”.
(Xem: 5391)
Việc dịch lại Tâm Kinh của Thiền sư Nhất Hạnh tuy theo ý thầy là dành riêng cho các đệ tử của thầy trong Làng Mai khi thầy nói với “các con” của thầy...
(Xem: 5804)
Sau khi Đức Phật tịch diệt được khoảng 150 năm thì giáo pháp của Ngài tách ra hai đường hướng:
(Xem: 6372)
Giúp đỡ người nghèo khó là một phẩm tính cố hữu của con ngườixã hội loài người. Phẩm tính này vốn tồn tại từ thời xa xưa và vẫn được duy trì trong xã hội hiện đại.
(Xem: 5680)
Làm Thế Nào Có Được Trí Tuệ Lớn Để Đạt Đến Bờ Giải Thoát - Đó phải là quán chiếu, thực hành, tu tập theo giáo lý bát nhã
(Xem: 6386)
Nhiều người trong chúng ta đã theo dõi sự phát triển về di truyền học mới đã tỉnh thức về sự băn khoăn lo lắng sâu xa của công luận đang tập họp chung quanh đề tài này.
(Xem: 7042)
Trong các nước thuộc truyền thống Phật giáo Bắc truyền, có một vị Bồ-tát thường được gọi là Quan Âm hay Quán Âm.
(Xem: 6257)
Theo kinh, luật quy định, chư Tăng thời Đức Phật không được nhận kim ngân bảo vật. Nói rõ hơn là không được nhận tiền bạc hoặc quý kim tương đương.
(Xem: 10612)
Bấy giờ bỗng nhiên đức Thế Tôn yên lặng. Một lát sau, Ngài lại nói: “Thôi đủ rồi, Xá-lợi-phất, không cần nói nữa. Vì sao ?
(Xem: 6646)
Trong Phật giáo cũng có giới luật do Đức Phật chế định. Nhưng những luật này không bắt buộc mọi người phải tuân theo mà nó ...
(Xem: 6136)
Trong kinh Tăng nhất A-hàm Đức Phật nhận định: “Ta không thấy một pháp nào tối thắng, tối diệu, nó huyền hoặc người đời khiến không đi đến nơi vĩnh viễn tịch tĩnh
(Xem: 6690)
Nguyên lý làm tư tưởng nền tảng cho lập trường Pháp hoa chính là cở sở lý tính duyên khởigiáo nghĩa Phật tính thường trú, được biểu hiện qua...
(Xem: 6086)
Trong sự trổi dậy của khoa học về thức và sự khảo sát về tâm cùng những thể thức đa dạng của nó, Phật giáo và khoa học nhận thức có những sự tiếp cận khác nhau.
(Xem: 6463)
Đối với mọi người nói chung thì lúc chết là khoảng thời gian quan trọng nhất.
(Xem: 5490)
Nếu nói về việc học, việc tu của chư Tăng Ni Phật Giáo thì tự ngàn xưa Đức Phật đã là một bậc Thầy vĩ đại đảm trách làm một Hướng đạo sư cho mọi người quy về.
(Xem: 8216)
Bài viết này ghi lại một số suy nghĩ về Bát Nhã Tâm Kinh, một bản kinh phổ biến trong Phật giáo nhiều nước Châu Á, trong đó có Việt Nam.
(Xem: 5706)
Dharma tức Giáo Huấn của Đức Phật cho chúng ta biết rằng tất cả mọi thứ đều tương liên và tương tác với nhau
(Xem: 7530)
Kinh Pháp Hoa nói: “Pháp hy hữu khó hiểu đệ nhất mà Phật thành tựu, chỉ Phật cùng Phật mới có thể thấu suốt thật tướng của các pháp.
(Xem: 6222)
Tất cả những điều này rất kỳ diệu không những đối với người Phật Tử mà còn cho những người của các tôn giáo khác nữa.
(Xem: 9635)
Là người sống ở thế gian, có ai tránh khỏi một đôi lần gặp bất trắc, tai ương lớn hay nhỏ.
(Xem: 4046)
Nguyên tác: Toward a Science of Consciousness, Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 6368)
Con đường thực nghiệm tâm linh dẫn đến đời sống giải thoátgiác ngộ đã được đức Phật giảng dạy ở trong các kinh điển...
(Xem: 4151)
Vấn đề [tâm] thức đã hấp dẫn nhiều sự chú ý tuyệt mỹ trong lịch sử dài lâu của tư tưởng triết lý Phật giáo.
(Xem: 4288)
Đối nghịch với khoa học, trong Phật giáo không có sự thảo luận triết lý trọng yếu về vấn đề những sinh vật sống xuất hiện từ vật chất vô tri giác...
(Xem: 4734)
Nguyên tác: The Big Bang and The Buddhist Beginningless Universe; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma; Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 5291)
Âm nhạc fanbei (việc tụng niệm các bài kinh dịch âm từ tiếng Phạn) đã ảnh hưởng và góp phần tạo ra gia tài văn hóa của Trung Quốc qua nhiều đế quốc và triều đại
(Xem: 5248)
Trong vô lượng pháp môn tu theo đạo Phật, không pháp môn nào không nhằm “mục đích ban vui cứu khổ cho hết thảy chúng sanh”.
(Xem: 5793)
Trong lịch sử nhân loại, tùy theo ảnh hưởng của tư tưởng, văn hóa… mà các thể thức tang nghi cũng như phương cách xứ lý xác thân sau khi chết, được thực hiện với nhiều phương cách đặc thù.
(Xem: 6740)
Người xuất gia đích thực thì không khác gì người cày ruộng, gieo trồng, bón phân để thu hoạch thốc lúa.
(Xem: 5524)
Quan Âm Truyền Thuyết (Tuyển Tập) Diệu Hạnh Giao Trinh Chuyển Ngữ
(Xem: 4482)
Một trong những thứ gây cảm hứng nhất về khoa học là việc thay đổi sự thấu hiểu của chúng ta về thế giới dưới ánh sáng của những khám phá mới.
(Xem: 5318)
Y hệt một thành trì, canh gác trong và ngoài, hãy tự canh gác chính bản thân mình. Chớ để một khoảnh khắc nào trôi qua sơ suất…
(Xem: 4952)
Một khi tâm thức chúng ta trở thành thành kiến, thì chúng ta không thể thấy mọi thứ một cách khách quan.
(Xem: 4343)
“Đạo đức quan trọng hơn tôn giáo. Chúng ta khi tới với thế gian này không hề là tín đồ của tôn giáo nào. Nhưng đạo đức là nằm sẵn trong bản tâm.”
(Xem: 6846)
Kinh Lăng Già nói rằng sáu trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn sẽ có Bồ tát Long Thọ xuất hiện trùng tuyên lại giáo pháp của người.
(Xem: 4579)
Xã hội tương lai của họ hoàn toàn khác với xã hội chúng ta đã trưởng thành tại VN, và cả khác với thế hệ đầu tiên gốc Việt trưởng thành tại Hoa Kỳ.
(Xem: 8381)
Quyển sách nói về Hoàng Đế A Dục tương đối đầy đủ nhất và những cứ liệu của tác giả Lê Tự Hỷ có tính thuyết phục và độ chính xác rất nhiều...
(Xem: 7187)
Năm uẩn tức là sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩnthức uẩn. Thuật ngữ Uẩn 蘊, nguyên ngữ Sanskrit là skandha, Pāli là khandha,
(Xem: 8344)
Đọc “Chú Đại Bi giảng giải” do cố HT Tuyên Hóa giảng - Thượng Tọa Thích Minh Định (Pháp Quốc) dịch sang Việt ngữ từ Hán Văn
(Xem: 7457)
Này các tì kheo, người thường tục, không có kiến thức tinh tế, quy phục thế giới hàng ngày của danh, và thấy các sự vật với con mắt, trung thành với các sự vật mà ...
(Xem: 7546)
Thưa đồng bào Tây Tạng của tôi, cả ở trong và ngoài Tây Tạng, cùng tất cả những người thực hành theo truyền thống Phật giáo Tây Tạng, và hết thảy những ai có...
(Xem: 6086)
Một thời Thế Tôn ngự tại tịnh xá Kỳ Viên. Bấy giờ Thiên tử Rohitassa, biệt danh Xích Mã, dung sắc tuyệt diệu, vào lúc cuối đêm, đến chỗ Đức Phật, đảnh lễ dưới chân Ngài rồi kể rằng:
(Xem: 9955)
Khi nói một tâm thức trống không, thì nó trống không về cái gì? Tánh Không (Emptiness /Vacuité/sự Trống Không) phải chăng có nghĩa là...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant