Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Những Người Qua Đời, Đi Về Đâu? (song Ngữ)

08 Tháng Ba 201607:20(Xem: 7873)
Những Người Qua Đời, Đi Về Đâu? (song Ngữ)
NHỮNG NGƯỜI QUA ĐỜI, ĐI VỀ ĐÂU?
Câu Chuyện Về Hòa Thượng Tissa, Kệ 126 -
Kho Báu Sự Thật, Kinh Pháp Cú Minh Họa -
Weragoda Sarada Maha Thero - Chuyển Ngữ: Nguyễn Văn Tiến -
Hình Vẽ: P. Wickramanayaka  - Source-Nguồn: www.buddhanet.net
(Those Who Pass Away - The Story Of Venerable Tissa, Verse 126 -Treasury Of Truth, Illustrated
Dhammapada- Weragoda Sarada Maha Thero - Illustrations by Mr. P. Wickramanayaka) 

Những Người Qua Đời, Đi Về Đâu


BÀI KỆ 126:

126. Gabbhaṃ eke uppajjanti
nirayaṃ pāpakammino
saggaṃ sugatino yanti
parinibbanti anāsavā. (9:11)

Một số người tái-sinh lên làm người (sinh từ bào thai trong bụng mẹ),
người độc-ác tái-sinh xuống địa ngục,
người hiền-lành tái-sinh lên cõi trời,
và người không-còn ô-nhiễm, sống hoàn-toàn an-lạc nơi cõi Niết Bàn.

Trong khi cư trú tại Tu Viện Kỳ Viên (Jetavana), Đức Phật đã nói bài kệ nầy, về Hòa Thượng Tissa.

Trước kia, có một ông thợ đánh bóng những viên ngọc quý và vợ của ông sống ở vùng Xá Vệ (Sāvatthi); và ở đó cũng có một vị Hòa Thượng (là một nhà sư tu hành lâu năm, có địa vị cao) là một vị A La Hán. Mỗi ngày, vợ chồng cúng dường thức ăn cho vị Hòa Thượng nầy. Một ngày kia, trong khi ông thợ đánh-bóng-ngọc tay đang cầm miếng thịt, tiếp một vị sứ giả của vua Ba Tư Nặc (Pasenadi) xứ Kosala mang tới một viên hồng ngọc, mà cần được mài dũa và đánh bóng, rồi gửi trả lại cho nhà vua. Tay ông thợ đánh-bóng-ngọc lúc đó dính đầy máu (của miếng thịt), nên ông đặt viên hồng ngọc trên bàn, rồi ông đi vào nhà để rửa tay. Một con ngỗng ông nuôi để giữ nhà, trông thấy viên hồng ngọc dính máu, và nó tưởng nhầm là một miếng thịt, nên nó há mỏ gắp lấy, và nuốt trọn viên hồng ngọc trước mắt của Hòa Thượng. Khi ông thợ đánh-bóng-ngọc trở lại, ông ta thấy viên hồng ngọc đã biến mất. Ông ta hỏi bà vợ và người con trai, và họ nói rằng họ không lấy viên hồng ngọc. Rồi, ông ta lại hỏi Hòa Thượng và ngài trả lời là ngài đã không lấy viên hồng ngọc. Ông thợ đánh-bóng-ngọc không vui, vì bực mình. Bởi vì ở nhà không còn ai, nên ông thợ đánh-bóng-ngọc kết luận rằng chính Hòa Thượng là người đã lấy đi viên hồng ngọc quý giá: cho nên, ông ta bảo vợ là ông phải tra tấn Hòa Thượng, để ngài phải thú nhận hành vi ăn trộm của ngài.

Nhưng bà vợ ông trả lời rằng, "Vị Hòa Thượng nầy là vị Thầy và cũng là người hướng dẫn chúng ta trong vòng mười-hai năm qua, và chúng ta chưa bao giờ trông thấy ngài làm điều gì ác độc; nên anh hãy làm ơn đừng vu oan cho ngài. Tốt hơn hết, là chúng ta chịu nhận lấy hình phạt của nhà vua, còn hơn là vu oan cho một nhà sư cao quý." Tuy nhiên, ông chồng bà đã không để ý đến lời nói của bà; ông ta cầm lấy sợi dây thừng, trói lấy Hòa Thượng, rồi ông cầm cây đánh Hòa Thượng túi bụi. Kết quả của việc làm nầy, là Hòa Thượng bị chảy máu đầm đìa ở đầu, ở tai và ở mũi, rồi ngài quỵ xuống sàn nhà. Con ngỗng lúc nầy trông thấy máu, và nó muốn đến ăn, nên nó chạy đến gần Hòa Thượng. Ông thợ đánh-bóng-ngọc lúc nầy trong cơn thịnh nộ, nên ông đã dùng hết sức mình đá trúng con ngỗng, và con ngỗng chết ngay lập tức. Sau đó, Hòa Thượng mới nói rằng, "Con hãy làm ơn nhìn cho kỹ, xem con ngỗng đã chết, hay là nó vẫn còn sống," và ông thợ đánh-bóng-ngọc liền trả lời rằng, "Ngài cũng sẽ chết, giống như con ngỗng nầy." Ngay lúc đó, Hòa Thượng chắc chắn là con ngỗng đã chết rồi, nên ngài nói, với giọng ôn tồn, "Con ơi, con ngỗng đã nuốt lấy viên hồng ngọc rồi."

Nghe xong điều nầy, ông thợ đánh-bóng-ngọc liền mổ bụng con ngỗng, và ông ta tìm thấy viên hồng ngọc trong bụng con ngỗng. Rồi, ông thợ đánh-bóng-ngọc nhận ra lỗi lầm của mình, nên ông ta run lên vì sợ hãi. Ông ta xin Hòa Thượng tha thứ cho ông, và xin Hòa Thượng tiếp tục đến nhà ông để khất thực. Hòa Thượng trả lời, "Con ơi, đây không phải là lỗi của con, và đây cũng không phải là lỗi của ta. Chuyện nầy xảy ra, bởi vì những gì chúng ta đã tạo ra trong các tiền kiếp; đấy là nghiệp của chúng ta trong cõi sinh-tử luân-hồi nầy; vì thế, Thầy không có bất kỳ ý-xấu nào đối với con. Chuyện nầy chỉ xảy ra, bởi vì Thầy đã nhầm lẫn bước chân đi vào trong căn nhà nầy. Để tránh cho chuyện nầy xảy ra trong tương lai, Thầy sẽ không bước chân vào trong nhà của ai nữa; Thầy sẽ chỉ đứng chờ ngoài cửa." Hòa Thượng nói xong điều nầy, và không lâu sau đó ngài đã qua đời, bởi vì ngài có nhiều vết thương quá nặng trên người.

Khi nghe xong, các nhà sư hỏi Đức Phật về các nhân vật trong truyện nầy, họ đã tái sinh về đâu, và Đức Phật đã trả lời rằng, "Con ngỗng đã tái sinh thành người con trai của ông thợ đánh-bóng-ngọc; ông thợ đánh-bóng-ngọc tái sinh vào cõi Địa Ngục (Niraya); bà vợ của ông thợ tái sinh vào cõi chư thiên; còn vị Hòa Thượng, vì ông đã là vị A La Hán khi còn sống, nên ông an lạc nơi cõi Niết Bàn."

BÀI KỆ 126, GIẢI THÍCH TỪ TIẾNG PALI:

eke gabbhaṃ uppajjanti pāpakammino nirayaṃ
sugatino saggaṃ yanti anāsavā parinibbanti

eke: một số người; gabbhaṃ: trong bụng mẹ; uppajjanti: thụ thai, được hình thành; pāpakammino: những người ác; nirayaṃ: trong địa ngục (được sinh ra) sugatino: những người có cuộc sống thiện lành; saggaṃ: trên trời; yanti: đạt; anāsavā: những người không-còn tì-vết, và trong-sạch; parinibbanti: đạt quả Niết Bàn, sống hoàn toàn an lạc.

Một số người sau khi chết tái sinh lên làm người (sinh từ bào thai trong bụng mẹ). Những người làm điều ác, tái-sinh xuống địa ngục. Những người lúc còn sống làm điều thiện-lành, khi chết đi tái-sinh lên cõi trời. Những người không-còn ô-nhiễm, hoàn-toàn không-còn tì-vết, và trong-sạch, khi chết đi sẽ hoàn-toàn sống an-lạc nơi cõi Niết Bàn.

Bài kệ 126 trong Kinh Pháp Cú nầy, đã được anh Tâm Minh Ngô Tằng Giao chuyển dịch thành thơ như sau:

(126) Con người sinh tự bào thai. Và từ nơi đó ra đời. Lành thay! Thế nhưng kẻ ác sinh ngay. Vào miền địa ngục đọa đầy triền miên, Những người chính trực lành hiền. Sau này sẽ được sinh lên cõi trời, Nhiễm ô ai diệt hết rồi. Mới lên được cõi thảnh thơi Niết Bàn.

BÌNH LUẬN:

sagga: cõi trời. Trong các lời chú thích thông thường, cõi trời (sagga) được định nghĩa như sau:

rūpādihi pañca kāma gunehi sutthu aggoti - saggo. Điều này có nghĩa là: nơi chốn mà năm-giác-quan dục lạc ở mức độ cao nhất. Những người sống ở trên cõi trời được gọi là chư thiên (thiên thần hoặc là các vị thần).

gabbhaṃ eke uppajjanti: Theo Đạo Phật có bốn loại tái sinh - đó là, sinh ra từ trứng (aṇdaja), sinh ra từ bào thai trong bụng mẹ (jalābuja), sinh ra từ độ ẩm (saṃsedaja), và sinh ra từ hóa-sinh (opapātika).

nirayaṃ pāpakammino: Niraya (ni + aya) = đau khổ, không có hạnh phúc. Có bốn loại địa ngục (niraya) - đó là, cõi đau khổ (apāya), cõi súc sinh (tiracchānayoni), cõi Ngạ Quỷ (petayoni), và cõi A-Tu-La (asurayoni). Chúng sinh ở trong các cõi nầy thì không-vĩnh-viễn. Tùy thuộc vào nghiệp ác, mà họ bị tái sinh vào cõi đau khổ. Khi họ rời các cõi nầy, họ có thể được tái sinh vào cõi tốt đẹp hơn, nếu họ đã làm các nghiệp tốt trong quá khứ.

parinibbanti anāsavā: những vị A La Hán, sau khi chết, không còn bị sinh ra nữa, vì đã đạt quả vị Niết Bàn.

Source-Nguồn: http://www.buddhanet.net/pdf_file/dhammapadatxt1.pdf

 

SHORT TITLE:

The Story Of Venerable Tissa, Verse 126, Treasury Of Truth

FULL TITLE:

Those Who Pass Away - The Story Of Venerable Tissa, Verse 126 - Treasury Of Truth, Illustrated Dhammapada - Weragoda Sarada Maha Thero - Illustrations by Mr. P. Wickramanayaka - Source-Nguồn: www.buddhanet.net

VERSE 126:

126. Gabbhaṃ eke uppajjanti
nirayaṃ pāpakammino
saggaṃ sugatino yanti
parinibbanti anāsavā. (9:11)

Some find birth within a womb,
evil-doers quicken in hell,
good-farers to the heavens go,
the Unpolluted wholly cool.

While residing at the Jetavana Monastery, the Buddha spoke this verse, with reference to Venerable Tissa.

Once, there was a gem polisher and his wife in Sāvatthi; there was also a Venerable (senior monk), who was an arahat. Every day, the couple offered alms-food to the Venerable. One day, while the gem polisher was handling meat, a messenger of King Pasenadi of Kosala arrived with a ruby, which was to be cut and polished and sent back to the king. The gem polisher took the ruby with his hand which was covered with blood, put it on a table and went into the house to wash his hands. The pet crane of the family, seeing the blood stained ruby and mistaking it for a piece of meat, picked it up and swallowed it in the presence of the Venerable. When the gem polisher returned, he found that the ruby was missing. He asked his wife and his son and they answered that they had not taken it. Then, he asked the Venerable who said that he did not take it. The gem polisher was not satisfied. As there was no one else in the house, the gem polisher concluded that it must be the Venerable who had taken the precious ruby: so he told his wife that he must torture the Venerable to get admission of theft.

But his wife replied, “This Venerable had been our guide and teacher for the last twelve years, and we have never seen him doing anything evil; please do not accuse the Venerable. It would be better to take the king’s punishment than to accuse a noble one.” But her husband paid no heed to her words; he took a rope and tied up the Venerable and beat him many times with a stick. As a result of this, the Venerable bled profusely from the head, ears and nose, and dropped on the floor. The crane, seeing blood and wishing to take it, came close to the Venerable. The gem polisher, who was by then in a great rage, kicked the crane with all his might and the bird died instantaneously. Then, the Venerable said, “Please see whether the crane is dead or not,” and the gem polisher replied, “You too shall die like this crane.” When the Venerable was sure the crane had died, he said, softly, “My disciple, the crane swallowed the ruby.”

Hearing this, the gem polisher cut up the crane and found the ruby in the stomach. Then, the gem polisher realized his mistake and trembled with fear. He pleaded with the Venerable to pardon him and also to continue to come to his door for alms. The Venerable replied, “My disciple, it is not your fault, nor is it mine. This has happened on account of what has been done in our previous existences; it is just our debt in saṃsāra; I feel no ill will towards you. As a matter of fact, this has happened because I have entered a house. From today, I would not enter any house; I would only stand at the door.” Soon after saying this, the Venerable expired as a result of his injuries.

Later, the monks asked the Buddha where the various characters in the above episode were reborn, and the Buddha answered, “The crane was reborn as the son of the gem polisher; the gem polisher was reborn in Niraya (Hell); the wife of the gem polisher was reborn in one of the deva worlds; and the Venerable, who was already an arahat when he was living, attained Parinibbāna.”

EXPLANATORY TRANSLATION (VERSE 126)

eke gabbhaṃ uppajjanti pāpakammino nirayaṃ

sugatino saggaṃ yanti anāsavā parinibbanti

eke: some; gabbhaṃ: in a womb; uppajjanti: get conceived; pāpakammino: evil doers; nirayaṃ: in hell (are born) sugatino: those who have good ways; saggaṃ: heaven; yanti: reach; anāsavā: those who are free of taints and corruptions; parinibbanti: achieve total Nibbāna

Some, after their death, receive conception in wombs. Those who have committed sins in their life-time are born in hell. Those whose ways have been virtuous when they were alive go to heaven when they die. These blemishless ones who are totally free of taints and corruptions, achieve total Nibbàna, on giving up their mortal lives.

COMMENTARY

sagga: heaven. In the traditional commentaries, sagga is defined as follows:

rūpādihi pañca kāma gunehi sutthu aggoti - saggo. This means: the place where the five-fold sensualities are at the highest possible level. Those who live in heaven are called devas (angels or gods).

gabbhaṃ eke uppajjanti: According to Buddhism there are four kinds of birth - namely, egg-born (aṇdaja), womb-born (jalābuja), moisture-born (saṃsedaja), and spontaneous birth (opapātika).

nirayaṃ pāpakammino: Niraya = ni + aya = devoid of happiness. There are four kinds of niraya - namely, woeful state (apāya), the animal kingdom (tiracchānayoni), the plane of Petas (petayoni), and the plane of Asura-demons (asurayoni). None of these states is eternal. According to their evil kamma beings may be born in such woeful states. Departing from those states, they may be born in blissful states according to their past good kamma.

parinibbanti anāsavā: Arahants, after death, are not born any more, but attain Parinibbāna.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19666)
Từ bi là một phản ứng của tâm thức khi nó không thể chịu đựng nổi trước những cảnh khổ đau của người khác và phát lộ những ước nguyện mãnh liệt...
(Xem: 15454)
Qua tinh thần kinh Hiền Nhân, chúng ta nhận ra một cái nhìn về đạo đức Phật giáo trong việc ứng xử giữa người với người, là một bài học quý giá...
(Xem: 23089)
Số đông quần chúng cần một thời gian dài mới quen thuộc với ý niệm về tái sinh. Tôi cũng đã trải qua nhiều giai đoạn trong tiến trình đưa đến sự xác tín vào tái sinh.
(Xem: 23368)
Con đường tâm linhchúng ta đang cùng nhau tiến bước có vô số chướng ngại, đầy sỏi đá chông gai, chúng ta cần nắm chắc tay nhau...
(Xem: 17392)
Năm uẩn của chúng ta -- thân thể, cảm giác, nhận thức, thúc đẩy, thức: chúng là đất sét mà chúng ta nhào nặn và tạo hình qua sự thực tập thành một vị bồ tát...
(Xem: 15586)
Giải thoát sanh tử không phải là hiện đời không chết, không phải là sống mãi ở vị lai, mà là những khổ sanh tửvị lai không còn sanh khởi nữa...
(Xem: 21705)
Bàn về các pháp thế gian, Phật Pháp không bao giờ được dùng để thực hành với động cơ đem ra buôn bán nhằm mang lại danh tiếng hay tài bảo cho một cá nhân nào đó.
(Xem: 37785)
Bộ Mật Tông - Gồm có 4 tập - Soạn giả: Thích Viên Đức
(Xem: 21891)
Các khoa học gia ngày nay trên thế giới đang có khuynh hướng chú trọng vào chế độ dinh dưỡng lành mạnh lấy chất bổ dưỡng từ nguồn thức ăn do thực vật đem lại...
(Xem: 23075)
Đối tượng nghiên cứu của xã hội học là con người, trong khi đó, xã hội học Phật giáo có những bước nghiên cứu xa hơn không chỉ nói về con người mà còn đề cập đến các loài hữu tình khác...
(Xem: 21168)
Giác ngộ là sự hiểu biết đúng như thật; giải thoát là sự chấm dứt mọi phiền não khổ đau. Chỉ có sự hiểu đúng, biết đúng mới có sự an lạchạnh phúc...
(Xem: 28282)
Mục đích giáo dục của đức Phật là làm thế nào để đoạn trừ, hay tối thiểu làm giảm bớt những khổ đau của con người, đưa con người đến một đời sống an lạchạnh phúc...
(Xem: 32384)
Cho đến nay Phật giáo đã tồn tại hơn 2.500 năm, và trong suốt thời kỳ này, Phật giáo đã trải qua những thay đổi sâu xa và cơ bản. Để thuận tiện trong việc xem xét, lịch sử Phật giáo có thể được tạm chia thành bốn thời kỳ.
(Xem: 25015)
Với đạo Phật qua thời giankhông gian giáo thuyết của Phật vẫn không mai một mà còn được truyền bá ngày càng sâu rộng. Bởi lời Phật dạy là một chân lý muôn đời...
(Xem: 34546)
Trong suốt cuộc đời hóa độ, số người qui hướng về đức Thế Tôn nhiều đến nỗi không đếm hết được; riêng chúng đệ tử xuất gia, cả tăng lẫn ni, cũng phải hàng vạn.
(Xem: 22780)
ĐẠO PHẬT VỚI CON NGƯỜI, cống hiến con người một phương châm giải thoát chân thật, đem lại sự ích lợi cho mình, cho người và kiến tạo một nền tảng hòa bình vĩnh viễn...
(Xem: 27539)
Khi đối diện với việc cầu nguyện, chúng ta thường có nhiều nghi vấn. Nghi vấn đầu tiên là cầu nguyện có kết quả không?
(Xem: 31146)
Ít người muốn đối diện với sự thật là các ý nghĩ và cảm nhận của họ đều vô thường. Tuy nhiên, một khi đã biết được như thế rồi thì ít ai có thể phủ nhận sức mạnh của sự thật này...
(Xem: 13502)
Người ta luôn hỏi câu này, Phật đã đi đâu và hiện nay ngài đang ở đâu? Đây là một câu hỏi rất khó trả lời cho những ai không có một sự tu tập về đời sống tâm linh.
(Xem: 24943)
Cư sĩ sống trong lòng dân tộc và luôn luôn mang hai trọng trách, trách nhiệm tinh thần đối với Phật Giáo và bổn phận đối với cộng đồng xã hội, với quốc gia dân tộc.
(Xem: 27630)
Chúng tôi viết quyển sách này cho những người mới bắt đầu học Phật. Bước đầu tuy tầm thường song không kém phần quan trọng, nếu bước đầu đi sai, những bước sau khó mà đúng được.
(Xem: 21939)
Người cư sĩ tại gia, ngoài trách nhiệm và bổn phận đối với gia đình, xã hội còn có nhiệm vụ hộ trì Tam Bảo. Cho nên trọng trách của người Phật Tử tại gia rất là quan trọng...
(Xem: 20643)
Trước khi vào nội dung đề tài lần này thì có một nghi vấn đã được đặt ra như sau: "Mục tiêu của đạo Phật vốn là để giải thoát hành giảchúng sinh khỏi đau khổ luân hồi...
(Xem: 22132)
Đạo Phật đã hình thành và phát triển hơn 2500 năm, cho đến nay, tôn giáo này đã đang được sự chú ý nghiên cứu ứng dụng của các nhà khoa học.
(Xem: 26941)
Trong Đường Xưa Mây Trắng chúng ta khám phá ra Bụt là một con người chứ không phải là một vị thần linh. Đó là chủ tâm của tác giả...
(Xem: 23986)
Để hỗ trợ cho việc phát triển và thực thi tâm hạnh từ bi, việc chủ yếu là phải vượt qua những chướng ngại. Nơi đó, hạnh nhẫn nhục đóng vai trò quan trọng...
(Xem: 21749)
Sự hiểu biết về sự vật hiện tượng thông thường đơn thuần chỉ là trí tuệ thế gian. Liệu loại trí tuệ này có thực sự giúp ta tiến bước trên con đường giác ngộ hay không...
(Xem: 14631)
Đức Phật là vị A-la-hán đầu tiên. Các vị A-la-hán đệ tử của ngài đều giống ngài và các vị Bồ-tát ở chỗ sau khi chứng đạt giải thoát, tiếp tục cứu độ nhân loại...
(Xem: 22984)
Chết là một phần tự nhiên của sự sống, mà tất cả chúng ta chắc chắn sẽ phải đương đầu không sớm thì muộn. Theo tôi thì có hai cách để xử với cái chết trong khi ta còn sống.
(Xem: 23872)
Ðức Phật là một chúng sanh duy nhất, đặc biệt Ngài là nhà tư tưởng uyên thâm nhất trong các tư tưởng gia, là người phát ngôn thuyết phục nhất trong các phát ngôn viên...
(Xem: 20943)
Tâm giác ngộ còn được gọi là Bồ đề tâm (Bodhicitta). Trong tiếng Phạn, “citta” là tâm và “Bodhi” là giác ngộ. Bodhicitta có thể được dịch là tâm hiểu biết hoặc tâm chứa đầy hiểu biết.
(Xem: 14084)
Nghiệp một phần được biểu hiện qua quy luật nhân quả. Những gì chúng ta đang trải qua là kết quả của các nghiệp nhân do chính ta đã tạo trước kia.
(Xem: 19804)
Có rất nhiều loại cảm xúc khác nhau, và chúng đều là sự phóng chiếu của tâm. Các cảm xúc vốn không tách rời khỏi tâm, nhưng vì chúng ta chưa nhận được bản chất tâm...
(Xem: 22354)
Nền tảng những lời dạy của Đức Phậtphật tính. Và cũng do phật tínhĐức Phật đã ban cho những lời giảng. Mọi chúng sinh đều có khả năng để hoàn thiệnđạt được giác ngộ.
(Xem: 13968)
Trong tâm của chúng ta, nước là do ái mà hiện tướng. Nước là thứ đi xuống, chảy xuống, chứ không bao giờ chảy lên. Hễ có sân, ghét, bực bội thì có lửa, phực lửa bật ra...
(Xem: 27897)
Để hiểu Đạo Phật là gì? Ta hãy gạt mọi thiên kiến chỉ cần tìm sâu vào nguồn giáo lý cao đẹp ấy, một nền giáo lý xây dựng trên sự thật để tìm hiểu sự thật, do đức giáo chủ Thích Ca Mâu Ni sáng lập... HT Thích Đức Nhuận
(Xem: 22671)
Tái sinh và nghiệp là những vấn đề liên quan đến nhau gắn liền với mỗi cuộc đời. Mỗi khoảnh khắc là sự nối tiếp của khoảnh khắc trước đó...
(Xem: 28048)
Bởi vì niềm hạnh phúc và chính sự tồn tại của chúng ta là kết quả của sự giúp đỡ bảo bọc của mọi người, chúng ta phải phát huy thái độ cư xử tốt đẹp của mình đối với mọi người xung quanh.
(Xem: 10903)
Nếu chúng ta sống với tâm hồn vô tư, biết vận dụng thời gian vào những việc làm có ích, quảng kết thiện duyên, tất nhiên thời gian đó là thời gian hữu ích phú quý.
(Xem: 28364)
Hai mươi bốn bài pháp thoại trong quyển sách này được giảng theo tinh thần của Kinh Đại Bát Niết Bàn, chú trọng vào sự thực hành nơi bản thân, 'xem Pháp là nơi nương trú, là hải đảo của chính mình".
(Xem: 31415)
Trong khi Đức Phật tạo mọi nỗ lực để dẫn dắt hàng đệ tử xuất gia của Ngài đến những tiến bộ tâm linh cao cả nhất, Ngài cũng nỗ lực để hướng dẫn hàng đệ tử cư sĩ tiến đến sự thành công...
(Xem: 26000)
Tu họchành trì giáo pháp của Phật dạy là dấn bước vào một cuộc chiến đối kháng giữa hai lực lượng tiêu cực của nội tâm. Hành giả cần truy cầu để khai trừ mặt tiêu cực...
(Xem: 14810)
"Người ta không bao giờ tắm hai lần trên một con sông" triết gia Hy Lạp cổ đại Hêraclitôxơ đã nói như vậy cách đây 2.500 năm.
(Xem: 27941)
Trong phần thứ nhất, Đức Đạt-Lai Lạt-Ma giảng về Bồ-đề tâm và cách tu tập của những người Bồ-tát. Trong phần thứ hai, Ngài giảng về Triết lý của Trung Đạo.
(Xem: 7314)
Phật GiáoTâm Lý Học Hiện Đại do ban biên tập của Bồ Đề Học Xã biên soạn, là một tài liệu giá trị cho những ai muốn tìm hiểu sự khác và giống giữa Phật PhápTâm lý Học Trị Liệu Tây phương.
(Xem: 25204)
Phật Pháp là một hệ thống triết họcluân lý truyền dạy con đường duy nhất dẫn đến Giác Ngộ, và như vậy, không phải là một đề tài để học hỏi hay nghiên cứu suông...
(Xem: 20624)
Hễ nói đến Giáo pháp của đức Phật, chúng ta không thể không nói đến pháp Duyên khởi hay nguyên lý Duyên khởi (Pratìtyasamutpàsa).
(Xem: 21024)
Sách này có hai phần: Đạt-lại Lạt-ma tại Harvard, bao gồm các khóa trình được thực hiện tại đại học Harvard, được giáo sư Jeffrey Hopkins dịch từ Tạng sang Anh ngữ...
(Xem: 12159)
Thực tế, Đức Phật xác nhận rằng cả nữ và nam có một cơ hội bình đẳng và khả năng để thực hành giáo pháp và để thành đạt mục tiêu tu tập.
(Xem: 11819)
Mục đích của Ðạo Phật là giải thoátgiác ngộ, và chỉ có trí tuệ mới là phương tiện duy nhất đưa loài người đến bờ giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 12707)
Bồ Tát Đại Thế Chí tay cầm cành hoa sen màu xanh. Hoa sen tượng trưng cho sự thanh khiết trong sạch, không dính danh lợi thế gian, có sức mạnh tự tại...
(Xem: 26478)
Nếu Đạo đức Phật giáo là một nếp sống đem lại hạnh phúc an lạc, nếp sống ấy cũng là một nếp sống đề cao cho con người vào một vị trí tối thượng...
(Xem: 12974)
Theo Luận Ðại thừa khởi tín, Nhứt Tâm có hai tướng: (1) tướng Chân như, chỉ riêng về phần thể tánh chơn tâm thanh tịnh; dụ như "tánh trong sạch" của nước...
(Xem: 26869)
Qua sự huân tậpảnh hưởng của tam độc tham, sân, si, ác nghiệp đã hình thành, thiết lập những mối liên kết với tâm thức qua những khuynh hướng có mục tiêu.
(Xem: 32663)
Acarya Nagarjuna (A Xà Lê Long Thọ) giữ một địa vị hầu như vô song trong hàng các bậc Thánh Phật giáo trình bày xiển dương lời dạy của Phật Thích Ca Mâu Ni cho lợi lạc của thế giới.
(Xem: 31462)
Bố thí là hạnh đầu tiên trong sáu hạnh của Bồ Tát. Nguyên âm chữ Phạn là Dàna có nghĩa là sự cho, dịch sang tiếng Hán Việt là Bố thí.
(Xem: 32400)
Bát Chánh Đạo rất dễ nhớ, nhưng ý nghĩa của chúng thâm sâu và đòi hỏi một sự hiểu biết về nhiều lãnh vực liên quan trong giáo lý của Đức Phật.
(Xem: 12912)
Có nhiều loại giác ngộ, nhưng bản chất của giác ngộ thì chỉ có một, đó là phá vỡ bức tường ngăn ngại của vô minh để ánh sáng của tự tánh, Phật tánh được dịp bùng lên.
(Xem: 12057)
Lời dạy của đức Phậtpháp môn phương tiện, chứ không phải là chân lý. Vì vậy, học Phật là học pháp môn để tu tập, để chuyển hóa tâm thức, lời nói...
(Xem: 17364)
Không gian nhận thức bị giới hạn, vì thế nó hữu hạn. Khi bạn ngồi trong lớp học, không gian nhận thức bị bao bọc bởi các bức vách, nền nhà và trần nhà.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant