Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Những Người Qua Đời, Đi Về Đâu? (song Ngữ)

08 Tháng Ba 201607:20(Xem: 7869)
Những Người Qua Đời, Đi Về Đâu? (song Ngữ)
NHỮNG NGƯỜI QUA ĐỜI, ĐI VỀ ĐÂU?
Câu Chuyện Về Hòa Thượng Tissa, Kệ 126 -
Kho Báu Sự Thật, Kinh Pháp Cú Minh Họa -
Weragoda Sarada Maha Thero - Chuyển Ngữ: Nguyễn Văn Tiến -
Hình Vẽ: P. Wickramanayaka  - Source-Nguồn: www.buddhanet.net
(Those Who Pass Away - The Story Of Venerable Tissa, Verse 126 -Treasury Of Truth, Illustrated
Dhammapada- Weragoda Sarada Maha Thero - Illustrations by Mr. P. Wickramanayaka) 

Những Người Qua Đời, Đi Về Đâu


BÀI KỆ 126:

126. Gabbhaṃ eke uppajjanti
nirayaṃ pāpakammino
saggaṃ sugatino yanti
parinibbanti anāsavā. (9:11)

Một số người tái-sinh lên làm người (sinh từ bào thai trong bụng mẹ),
người độc-ác tái-sinh xuống địa ngục,
người hiền-lành tái-sinh lên cõi trời,
và người không-còn ô-nhiễm, sống hoàn-toàn an-lạc nơi cõi Niết Bàn.

Trong khi cư trú tại Tu Viện Kỳ Viên (Jetavana), Đức Phật đã nói bài kệ nầy, về Hòa Thượng Tissa.

Trước kia, có một ông thợ đánh bóng những viên ngọc quý và vợ của ông sống ở vùng Xá Vệ (Sāvatthi); và ở đó cũng có một vị Hòa Thượng (là một nhà sư tu hành lâu năm, có địa vị cao) là một vị A La Hán. Mỗi ngày, vợ chồng cúng dường thức ăn cho vị Hòa Thượng nầy. Một ngày kia, trong khi ông thợ đánh-bóng-ngọc tay đang cầm miếng thịt, tiếp một vị sứ giả của vua Ba Tư Nặc (Pasenadi) xứ Kosala mang tới một viên hồng ngọc, mà cần được mài dũa và đánh bóng, rồi gửi trả lại cho nhà vua. Tay ông thợ đánh-bóng-ngọc lúc đó dính đầy máu (của miếng thịt), nên ông đặt viên hồng ngọc trên bàn, rồi ông đi vào nhà để rửa tay. Một con ngỗng ông nuôi để giữ nhà, trông thấy viên hồng ngọc dính máu, và nó tưởng nhầm là một miếng thịt, nên nó há mỏ gắp lấy, và nuốt trọn viên hồng ngọc trước mắt của Hòa Thượng. Khi ông thợ đánh-bóng-ngọc trở lại, ông ta thấy viên hồng ngọc đã biến mất. Ông ta hỏi bà vợ và người con trai, và họ nói rằng họ không lấy viên hồng ngọc. Rồi, ông ta lại hỏi Hòa Thượng và ngài trả lời là ngài đã không lấy viên hồng ngọc. Ông thợ đánh-bóng-ngọc không vui, vì bực mình. Bởi vì ở nhà không còn ai, nên ông thợ đánh-bóng-ngọc kết luận rằng chính Hòa Thượng là người đã lấy đi viên hồng ngọc quý giá: cho nên, ông ta bảo vợ là ông phải tra tấn Hòa Thượng, để ngài phải thú nhận hành vi ăn trộm của ngài.

Nhưng bà vợ ông trả lời rằng, "Vị Hòa Thượng nầy là vị Thầy và cũng là người hướng dẫn chúng ta trong vòng mười-hai năm qua, và chúng ta chưa bao giờ trông thấy ngài làm điều gì ác độc; nên anh hãy làm ơn đừng vu oan cho ngài. Tốt hơn hết, là chúng ta chịu nhận lấy hình phạt của nhà vua, còn hơn là vu oan cho một nhà sư cao quý." Tuy nhiên, ông chồng bà đã không để ý đến lời nói của bà; ông ta cầm lấy sợi dây thừng, trói lấy Hòa Thượng, rồi ông cầm cây đánh Hòa Thượng túi bụi. Kết quả của việc làm nầy, là Hòa Thượng bị chảy máu đầm đìa ở đầu, ở tai và ở mũi, rồi ngài quỵ xuống sàn nhà. Con ngỗng lúc nầy trông thấy máu, và nó muốn đến ăn, nên nó chạy đến gần Hòa Thượng. Ông thợ đánh-bóng-ngọc lúc nầy trong cơn thịnh nộ, nên ông đã dùng hết sức mình đá trúng con ngỗng, và con ngỗng chết ngay lập tức. Sau đó, Hòa Thượng mới nói rằng, "Con hãy làm ơn nhìn cho kỹ, xem con ngỗng đã chết, hay là nó vẫn còn sống," và ông thợ đánh-bóng-ngọc liền trả lời rằng, "Ngài cũng sẽ chết, giống như con ngỗng nầy." Ngay lúc đó, Hòa Thượng chắc chắn là con ngỗng đã chết rồi, nên ngài nói, với giọng ôn tồn, "Con ơi, con ngỗng đã nuốt lấy viên hồng ngọc rồi."

Nghe xong điều nầy, ông thợ đánh-bóng-ngọc liền mổ bụng con ngỗng, và ông ta tìm thấy viên hồng ngọc trong bụng con ngỗng. Rồi, ông thợ đánh-bóng-ngọc nhận ra lỗi lầm của mình, nên ông ta run lên vì sợ hãi. Ông ta xin Hòa Thượng tha thứ cho ông, và xin Hòa Thượng tiếp tục đến nhà ông để khất thực. Hòa Thượng trả lời, "Con ơi, đây không phải là lỗi của con, và đây cũng không phải là lỗi của ta. Chuyện nầy xảy ra, bởi vì những gì chúng ta đã tạo ra trong các tiền kiếp; đấy là nghiệp của chúng ta trong cõi sinh-tử luân-hồi nầy; vì thế, Thầy không có bất kỳ ý-xấu nào đối với con. Chuyện nầy chỉ xảy ra, bởi vì Thầy đã nhầm lẫn bước chân đi vào trong căn nhà nầy. Để tránh cho chuyện nầy xảy ra trong tương lai, Thầy sẽ không bước chân vào trong nhà của ai nữa; Thầy sẽ chỉ đứng chờ ngoài cửa." Hòa Thượng nói xong điều nầy, và không lâu sau đó ngài đã qua đời, bởi vì ngài có nhiều vết thương quá nặng trên người.

Khi nghe xong, các nhà sư hỏi Đức Phật về các nhân vật trong truyện nầy, họ đã tái sinh về đâu, và Đức Phật đã trả lời rằng, "Con ngỗng đã tái sinh thành người con trai của ông thợ đánh-bóng-ngọc; ông thợ đánh-bóng-ngọc tái sinh vào cõi Địa Ngục (Niraya); bà vợ của ông thợ tái sinh vào cõi chư thiên; còn vị Hòa Thượng, vì ông đã là vị A La Hán khi còn sống, nên ông an lạc nơi cõi Niết Bàn."

BÀI KỆ 126, GIẢI THÍCH TỪ TIẾNG PALI:

eke gabbhaṃ uppajjanti pāpakammino nirayaṃ
sugatino saggaṃ yanti anāsavā parinibbanti

eke: một số người; gabbhaṃ: trong bụng mẹ; uppajjanti: thụ thai, được hình thành; pāpakammino: những người ác; nirayaṃ: trong địa ngục (được sinh ra) sugatino: những người có cuộc sống thiện lành; saggaṃ: trên trời; yanti: đạt; anāsavā: những người không-còn tì-vết, và trong-sạch; parinibbanti: đạt quả Niết Bàn, sống hoàn toàn an lạc.

Một số người sau khi chết tái sinh lên làm người (sinh từ bào thai trong bụng mẹ). Những người làm điều ác, tái-sinh xuống địa ngục. Những người lúc còn sống làm điều thiện-lành, khi chết đi tái-sinh lên cõi trời. Những người không-còn ô-nhiễm, hoàn-toàn không-còn tì-vết, và trong-sạch, khi chết đi sẽ hoàn-toàn sống an-lạc nơi cõi Niết Bàn.

Bài kệ 126 trong Kinh Pháp Cú nầy, đã được anh Tâm Minh Ngô Tằng Giao chuyển dịch thành thơ như sau:

(126) Con người sinh tự bào thai. Và từ nơi đó ra đời. Lành thay! Thế nhưng kẻ ác sinh ngay. Vào miền địa ngục đọa đầy triền miên, Những người chính trực lành hiền. Sau này sẽ được sinh lên cõi trời, Nhiễm ô ai diệt hết rồi. Mới lên được cõi thảnh thơi Niết Bàn.

BÌNH LUẬN:

sagga: cõi trời. Trong các lời chú thích thông thường, cõi trời (sagga) được định nghĩa như sau:

rūpādihi pañca kāma gunehi sutthu aggoti - saggo. Điều này có nghĩa là: nơi chốn mà năm-giác-quan dục lạc ở mức độ cao nhất. Những người sống ở trên cõi trời được gọi là chư thiên (thiên thần hoặc là các vị thần).

gabbhaṃ eke uppajjanti: Theo Đạo Phật có bốn loại tái sinh - đó là, sinh ra từ trứng (aṇdaja), sinh ra từ bào thai trong bụng mẹ (jalābuja), sinh ra từ độ ẩm (saṃsedaja), và sinh ra từ hóa-sinh (opapātika).

nirayaṃ pāpakammino: Niraya (ni + aya) = đau khổ, không có hạnh phúc. Có bốn loại địa ngục (niraya) - đó là, cõi đau khổ (apāya), cõi súc sinh (tiracchānayoni), cõi Ngạ Quỷ (petayoni), và cõi A-Tu-La (asurayoni). Chúng sinh ở trong các cõi nầy thì không-vĩnh-viễn. Tùy thuộc vào nghiệp ác, mà họ bị tái sinh vào cõi đau khổ. Khi họ rời các cõi nầy, họ có thể được tái sinh vào cõi tốt đẹp hơn, nếu họ đã làm các nghiệp tốt trong quá khứ.

parinibbanti anāsavā: những vị A La Hán, sau khi chết, không còn bị sinh ra nữa, vì đã đạt quả vị Niết Bàn.

Source-Nguồn: http://www.buddhanet.net/pdf_file/dhammapadatxt1.pdf

 

SHORT TITLE:

The Story Of Venerable Tissa, Verse 126, Treasury Of Truth

FULL TITLE:

Those Who Pass Away - The Story Of Venerable Tissa, Verse 126 - Treasury Of Truth, Illustrated Dhammapada - Weragoda Sarada Maha Thero - Illustrations by Mr. P. Wickramanayaka - Source-Nguồn: www.buddhanet.net

VERSE 126:

126. Gabbhaṃ eke uppajjanti
nirayaṃ pāpakammino
saggaṃ sugatino yanti
parinibbanti anāsavā. (9:11)

Some find birth within a womb,
evil-doers quicken in hell,
good-farers to the heavens go,
the Unpolluted wholly cool.

While residing at the Jetavana Monastery, the Buddha spoke this verse, with reference to Venerable Tissa.

Once, there was a gem polisher and his wife in Sāvatthi; there was also a Venerable (senior monk), who was an arahat. Every day, the couple offered alms-food to the Venerable. One day, while the gem polisher was handling meat, a messenger of King Pasenadi of Kosala arrived with a ruby, which was to be cut and polished and sent back to the king. The gem polisher took the ruby with his hand which was covered with blood, put it on a table and went into the house to wash his hands. The pet crane of the family, seeing the blood stained ruby and mistaking it for a piece of meat, picked it up and swallowed it in the presence of the Venerable. When the gem polisher returned, he found that the ruby was missing. He asked his wife and his son and they answered that they had not taken it. Then, he asked the Venerable who said that he did not take it. The gem polisher was not satisfied. As there was no one else in the house, the gem polisher concluded that it must be the Venerable who had taken the precious ruby: so he told his wife that he must torture the Venerable to get admission of theft.

But his wife replied, “This Venerable had been our guide and teacher for the last twelve years, and we have never seen him doing anything evil; please do not accuse the Venerable. It would be better to take the king’s punishment than to accuse a noble one.” But her husband paid no heed to her words; he took a rope and tied up the Venerable and beat him many times with a stick. As a result of this, the Venerable bled profusely from the head, ears and nose, and dropped on the floor. The crane, seeing blood and wishing to take it, came close to the Venerable. The gem polisher, who was by then in a great rage, kicked the crane with all his might and the bird died instantaneously. Then, the Venerable said, “Please see whether the crane is dead or not,” and the gem polisher replied, “You too shall die like this crane.” When the Venerable was sure the crane had died, he said, softly, “My disciple, the crane swallowed the ruby.”

Hearing this, the gem polisher cut up the crane and found the ruby in the stomach. Then, the gem polisher realized his mistake and trembled with fear. He pleaded with the Venerable to pardon him and also to continue to come to his door for alms. The Venerable replied, “My disciple, it is not your fault, nor is it mine. This has happened on account of what has been done in our previous existences; it is just our debt in saṃsāra; I feel no ill will towards you. As a matter of fact, this has happened because I have entered a house. From today, I would not enter any house; I would only stand at the door.” Soon after saying this, the Venerable expired as a result of his injuries.

Later, the monks asked the Buddha where the various characters in the above episode were reborn, and the Buddha answered, “The crane was reborn as the son of the gem polisher; the gem polisher was reborn in Niraya (Hell); the wife of the gem polisher was reborn in one of the deva worlds; and the Venerable, who was already an arahat when he was living, attained Parinibbāna.”

EXPLANATORY TRANSLATION (VERSE 126)

eke gabbhaṃ uppajjanti pāpakammino nirayaṃ

sugatino saggaṃ yanti anāsavā parinibbanti

eke: some; gabbhaṃ: in a womb; uppajjanti: get conceived; pāpakammino: evil doers; nirayaṃ: in hell (are born) sugatino: those who have good ways; saggaṃ: heaven; yanti: reach; anāsavā: those who are free of taints and corruptions; parinibbanti: achieve total Nibbāna

Some, after their death, receive conception in wombs. Those who have committed sins in their life-time are born in hell. Those whose ways have been virtuous when they were alive go to heaven when they die. These blemishless ones who are totally free of taints and corruptions, achieve total Nibbàna, on giving up their mortal lives.

COMMENTARY

sagga: heaven. In the traditional commentaries, sagga is defined as follows:

rūpādihi pañca kāma gunehi sutthu aggoti - saggo. This means: the place where the five-fold sensualities are at the highest possible level. Those who live in heaven are called devas (angels or gods).

gabbhaṃ eke uppajjanti: According to Buddhism there are four kinds of birth - namely, egg-born (aṇdaja), womb-born (jalābuja), moisture-born (saṃsedaja), and spontaneous birth (opapātika).

nirayaṃ pāpakammino: Niraya = ni + aya = devoid of happiness. There are four kinds of niraya - namely, woeful state (apāya), the animal kingdom (tiracchānayoni), the plane of Petas (petayoni), and the plane of Asura-demons (asurayoni). None of these states is eternal. According to their evil kamma beings may be born in such woeful states. Departing from those states, they may be born in blissful states according to their past good kamma.

parinibbanti anāsavā: Arahants, after death, are not born any more, but attain Parinibbāna.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 4481)
Hạnh phúc là khát vọng của nhân loại muôn đời, một trong “tiêu chí” có tính phổ quát nhất vượt hết thảy các gián cách về văn hóa, dân tộc và biên giới không gianthời gian.
(Xem: 2677)
Phân hóa là một hiện tượng tất yếu trong cuộc sống. Phân hóa để tăng trưởng, phân hóa để phát triển, phân hóa để hủy diệt, phân hóa để biến thái…
(Xem: 5092)
Theo truyền thống sách vở, hình như gắn liền với Thiền là trà, chớ không phải cà phê.
(Xem: 3733)
Cuộc sống trôi nhanh về phía cái chết, như điệu nhảy của vũ công, tia chớp trên bầu trời, hay dòng thác đổ
(Xem: 3785)
Bốn chân líchân lí về khổ, về nguồn gốc, về diệt tận và về đạo lộ.
(Xem: 3145)
Bài này trích dịch từ Quý San năm 2019 có chủ đề “Buddhadharma: The Practitioner’s Quarterly,” đăng ngày 14 tháng 5 năm 2019 trên trang mạng Lion’s Roar.
(Xem: 4018)
Ngày xưa Đức Phật trong suốt 45 năm giáo hóa tại khu vực rộng lớn dọc theo hai bên bờ Sông Hằng ngài chỉ sử dụng mỗi một phương tiện duy nhất là đi bộ.
(Xem: 4948)
Thế giớichúng ta đang sống là thế giới của dục vọng. Mọi chúng sanh được sinh ra và tồn tại như là một sự kết hợp của những dục vọng.
(Xem: 3451)
Tất nhiên đã làm người thì phải chịu khổ đau nhiều hay ít tùy thuộc vào trạng thái tâm lý, sự cảm thọnhận thức của mỗi người.
(Xem: 6597)
Trong cuộc đời mỗi người ai cũng có một dòng tộc huyết thống, người đời thì có huyết thống gia đình, người xuất gia thì có huyết thống tâm linh.
(Xem: 3908)
Trong kinh Phật dạy, “cái khổ lớn nhất của con người không phải do thiếu ăn, thiếu mặc, làm con trâu, con bò, kéo cày, kéo xe, chưa chắc là khổ;
(Xem: 3143)
Nói “thời chiến” nơi đây là nói về thời Đệ Nhị Thế Chiến. Có một phần chưa được khảo sát tận tường, chưa được biết rộng rãi trong lịch sử Đạo Phật tại Hoa Kỳ: đó là một thời chiến tranh trong thế kỷ 20
(Xem: 3056)
Con người luôn luôn bị cái tôi và cái của tôi thống trị, do đó đời sống của nó bị giới hạnđè nặng bởi cái tôi và cái của tôi.
(Xem: 2889)
Bà La Môn Giáo là một Đạo giáoxuất xứ từ Ấn Độ và Đạo nầy đã tồn tại ở đó cho đến ngày nay cũng đã trên dưới 5.000 năm lịch sử.
(Xem: 5768)
Tưởng tri, thức tri và tuệ tri được đức Phật chỉ ra nhằm mục đích phân biệt rõ các cấp độ nhận thức về sự vật hiện tượng.
(Xem: 4528)
Đức Phật không phải là một nhà chính trị theo nghĩa cổ điển, càng không phải là một nhà cách mạng hiểu theo phong cách của chữ nghĩa hôm nay.
(Xem: 3429)
Cái gì chưa biết, gặp lần đầu thấy cũng lạ. Cái gì chưa học, gặp lần đầu thấy cũng lạ. Cái gì chưa biết nói, học nói lần đầu thấy cũng lạ...
(Xem: 2823)
Cuộc sống, nhìn quanh đâu cũng thấy Thật. Bạo động cũng có thật, giả dối cũng là thật, tham dục cũng hiện hữu thật,sợ hải cũng có thậ ….
(Xem: 3232)
Thời nào cũng vậy, xã hội luôn có những biến đổi và khủng hoảng, chính sự đổi thay giúp điều mới mẻ ra đời hoặc phải diệt vong, như một hệ quả duyên khởi.
(Xem: 4349)
Tại Việt Nam, đại đa số các Chùa Bắc Tông đều có Tổ đường để phụng thờ chư liệt vị Tổ sư, Tổ khai sơn ngôi chùa đó và chư hiền Thánh Tăng.
(Xem: 5585)
Phật cũng nhắn nhủ: “Quý vị phải thực tập làm hải đảo tự thân, biết nương tựa nơi chính mình mà đừng nương tựa vào một kẻ nào khác.
(Xem: 6512)
Ở cấp độ đầu tiên của tu tập, trong bản chất con người, việc dâm dục sẽ bắt nguồn cho việc luân hồi (saṃsāric),
(Xem: 3630)
Ngài Huệ Khả xin Sơ Tổ Thiền Tông Bồ Đề Đạt Ma dạy pháp an tâm. Tích này có thể nhìn từ Kinh Tạng Pali ra sao?
(Xem: 4461)
Phật Giáo - Một Bậc Đạo Sư, Nhiều Truyền Thống - Đức Đạt Lai Lạc Ma đời thứ 14, Ni sư Thubten Chodren
(Xem: 4502)
Nhận thức luận trongTriết học cổ điển Ấn-độ và trongTriết học Phật giáo - Gs Nguyễn Vĩnh Thượng
(Xem: 3911)
Kinh Phật dạy có nhiều cách giải nghiệp. Sau đây là trích dịch một số kinh liên hệ tới nghiệp và giải nghiệp.
(Xem: 3335)
Hoàng đế A Dục chấp nhậnquốc giáo rồi đem vào Tích Lan và các nước lân cận, Phật giáo phát triển nhanh chóng ở Đông phươngcuối cùng trở thành tôn giáoảnh hưởng nhất trên thế giới.
(Xem: 4485)
Sự kiện cho kinh này, nói ngắn gọn, theo luận thư, là vì: thành phố Vesali bị nạn dịch, gây chết chóc, đặc biệt với người nghèo. Vì xác chết nằm la liệt, các vong hung dữ bắt đầu quậy phá thành phố...
(Xem: 5925)
Nhiều Phật tử tuy nói là tu theo Đại thừa nhưng thật ra rất ít người biết rõ tông chỉ của Đại thừa hoặc chỉ biết sơ sài, nên việc tu hành không đạt được kết quả.
(Xem: 5736)
Trong các kinh điển có nhiều định nghĩa khác nhau nhưng chữ Niết Bàn (Nirvana) không ngoài những nghĩa Viên tịch (hoàn toàn vắng lặng),
(Xem: 3562)
Nói đến giáo dục chính là xu hướng vươn lên của con người trong lý tính duyên sinh, nhằm đạt thành chân - thiện - mỹ cho cuộc sống chung cùng
(Xem: 4582)
Tinh túy của đạo Phật là: nếu có khả năng, ta nên giúp đỡ người khác; nếu không thể giúp họ, thì tối thiểu nên hạn chế việc gây hại cho họ.
(Xem: 4381)
àm thế nào để các lậu hoặc đoạn tận lập tức? Nghĩa là, không cần trải qua thời gian. Cũng không cần tu Tứ niệm xứ hay Tứ thiền bát định.
(Xem: 4429)
Các pháp không tự sinh Cũng không do cái khác sinh. Không do sự kết hợp cũng chẳng nhân nào sinh. Tất cả đều vô sinh.
(Xem: 4194)
Tới cuối kinh này, Đức Phật dạy về pháp Niết Bàn tức khắc, ngay trong hiện tại, giải thoát ngay ở đây và bây giờ.
(Xem: 4496)
Tôn giáo nào cũng có những nhà truyền giáo, phát nguyện rao giảng những điều mà họ tin là mang đến hạnh phúc cho nhân loại.
(Xem: 8089)
Ấn-độ là một bán đảo lớn ở phía Nam Châu Á. Phía Đông-Nam giáp với Ấn-độ dương (Indian Ocean), phía Tây-Nam giáp với biển Á-rập ( Arabian Sea).
(Xem: 3860)
Nguyên bản: The Inner Structure, Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D., Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 5637)
Thái tử Siddharta Gautama là người đầu tiên đã nghĩ rằng Ngài đã đạt được Giác ngộ. Ngài đã trở thành vị Phật lịch sử. Rồi Ngài đã đem những điều mình giác ngộgiáo hoá cho chúng sanh.
(Xem: 5088)
Căn Bản Hành Thiền - Bình Anson biên dịch 2018
(Xem: 6718)
Luận Duy thức tam thập tụng này được viết với mục đích khiến cho những ai có sự mê lầm ở trong nhân vô ngãpháp vô ngã mà phát sinh ...
(Xem: 6100)
Ba địa mỗi địa mười, Năm phiền não, năm kiến, Năm xúc, năm căn, pháp, Sáu: sáu thân tương ưng.
(Xem: 5865)
Bất cứ sắc gì thuộc quá khứ, vị lai, hiện tại;thuộc nội phần hay ngoại phần, thô hay tế, hạ liệt hay thắng diệu, xa hay gần, mà dồn chung lại, tổng hợp thành một khối. Gọi chung là sắc uẩn.
(Xem: 5651)
Kính lễ Nhất thiết trí, Vầng Phật nhật vô cấu, Lời sáng phá tâm ám Nơi nhân thiên, ác thú.
(Xem: 6130)
Trong cách nghĩ truyền thống, Tứ Thánh đế (Cattāri Ariyasaccāni) được xem là bài pháp đầu tiên khi Đức Phật chuyển pháp luân độ năm anh em Kiều-trần-như.
(Xem: 6652)
Suốt kinh Pháp hội Pháp giới Thể tánh Vô phân biệt, Bồ tát Văn-thù-sư-lợi là người thuyết pháp chính, Đức Phật chỉ ấn khả và thọ ký...
(Xem: 4873)
An cư” là từ không còn xa lạ đối với tín đồ Phật giáo; tuy nó không có nghĩa “an cư lạc nghiệp” của đạo Nho, nhưng khía cạnh nào đó, “lạc nghiệp” mang nghĩa...
(Xem: 5453)
Trung luận, còn gọi là Trung quán luận, bốn quyển, Bồ-tát Long Thọ trước tác kệ tụng, ngài Thanh Mục làm Thích luận, được dịch ra chữ Hán ...
(Xem: 6270)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào?
(Xem: 3678)
Trước tiên là về duyên khởi của Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Theo truyền thuyết, Kinh này được Phật giảng vào lúc cuối đời, được kết tập trong khoảng năm 200.
(Xem: 5289)
Phật và chúng sinh thật ra vẫn đồng một thể tánh chơn tâm, nhưng chư Phật đã hoàn toàn giác ngộ được thể tánh ấy.
(Xem: 10338)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 5973)
Cúng dườngnuôi dưỡng khiến Tam Bảo hằng còn ở đời. Tất cả những sự bảo bọc giúp đỡ gìn giữ để Tam Bảo thường còn đều gọi là cúng dường.
(Xem: 9187)
Bốn cấp độ thiền định hay tứ thiền là bốn mức thiền khi hành giả thực hành thiền có thể đạt được.
(Xem: 6284)
Một bào thai sở dĩ có mặt trên cuộc đời này ngoài yếu tố chính là do cha mẹ sinh ra, còn là kết quả của một tiến trình không đơn giản.
(Xem: 5847)
Đạo Phật là nguồn sống và lẽ sống của con người, là cương lĩnh cho nhân thế. Với sứ mạng thiêng liêng cao đẹp ấy, đạo Phật không xa lìa thực thể khổ đau của con người.
(Xem: 7317)
Mục đích của Đạo Phậtdiệt khổ và đem vui cho mọi loài, nhưng phải là người có trí mới biết được con đường đưa đến an lạchạnh phúc
(Xem: 7162)
Người ta thường nói đạo Phật là đạo của từ bitrí tuệ. Đối với nhiều người Phật tử, từ bi là quan trọng hơn cả, và nếu khôngtừ bi thì không có đạo Phật.
(Xem: 5065)
Các nhà khảo cổ đang nghiên cứu tại Nepal đã phát hiện bằng chứng về một kiến trúc tại nơi sinh ra Đức Phật có niên đại thế kỷ thứ 6 trước công nguyên.
(Xem: 7937)
Theo Đức Phật, tất cả những vật hiện hữu đều biến chuyển không ngừng. Sự biến chuyển này thì vô thuỷ vô chung. Nguồn gốc của vũ trụ không do một Đấng Sáng tạo (Creator God) tạo ra.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant