Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Niết Bàn (song ngữ)

11 Tháng Ba 201612:10(Xem: 8063)
Niết Bàn (song ngữ)

NIẾT BÀN

Barbara O'Brien
Nguyễn Văn Tiến

Niết Bàn (song ngữ)


Niết bàn thì ở khắp mọi nơi, ít nhất là đối với những người nói tiếng Anh. Từ ngữ nầy đã được dùng trong Anh Ngữ với ý nghĩa là "hạnh phúc" hoặc "bình yên". Niết Bàn cũng là tên của một ban nhạc chơi nhạc-grunge nổi tiếng của Hoa Kỳ, cũng như là tên của nhiều sản phẩm tiêu-thụ, từ nước đóng chai, đến nước hoa. Nhưng Niết Bàn thật sự là gì? Và Niết Bàn đóng vai trò gì trong Đạo Phật?

Trong ý nghĩa tâm linh, niết bàn (hay nibbana trong tiếng Pali) là một từ ngữ tiếng Phạn cổ-xưa có nghĩa là "dập tắt", với nghĩa rộng là "dập tắt ngọn lửa". Nhiều người Tây Phương đã nghĩ theo nghĩa đen của từ ngữ nầy, nên họ cho rằng mục đích của đạo Phật là chùi-sạch chính mình. Nhưng Đạo Phật, hoặc niết-bàn, không phải chỉ là như thế.

SỰ GIẢI THOÁT, CHỨ KHÔNG PHẢI SỰ LAU-CHÙI-CHO-SẠCH:

Người thời xưa coi lửa là một yếu tố, một trong những hình thức cơ bản nhất của vật-chất có thể mang-đi được. Trong văn hóa của Ấn Độ vào thời Đức Phật, lửa được xem là tương đương với không-khí, hoặc một cái gì đó giống như chất ê-te (ether).

Chúng ta nên hiểu rằng chúng ta chỉ có thể nhìn thấy yếu tố lửa, như là ngọn-lửa nếu lửa được tiếp nối với một loại nhiên liệu nào đó.

Khi lửa được tiếp cận với nguồn nhiên liệu, lửa trở nên nóng và bùng lên, và chúng ta nhìn thấy ngọn lửa. Khi lửa được tách rời ra khỏi nhiên liệu, lửa chuyển sang một trạng thái khác. Mặc dù lúc nầy, con người không nhìn thấy lửa, lửa vẫn có sự tồn tại, trầm tĩnh, và bình thản.

Tất nhiên, đấy không phải là những gì chúng ta hiểu về lửa, ngày hôm nay. Tuy nhiên, sự hiểu biết nầy đã giải thích lý do tại sao Đức Phật đã dùng từ ngữ niết-bàn với ý nghĩa là "giải thoát", hoặc là "cởi sợi giây trói ra."

Cho nên, niết-bàn là sự giải thoát, tuy nhiên, giải thoát từ cái gì? Câu trả lời thông thường là "vòng luân-hồi," mà thường được định nghĩa là chu kỳ sinh ra, rồi mất đi, rồi tái-sinh. (xin lưu ý rằng "tái sinh" (từ thần-thức) không có nghĩa là "đầu thai" (từ linh-hồn), như một số người hiểu lầm.) Niết Bàn cũng được xem là giải thoát khỏi sự đau khổ, hoặc sự căng thẳng / sự đau đớn / sự không hài lòng trong cuộc sống.

Sau khi Đức Phật giác ngộ, trong bài giảng đầu tiên của ngài, Đức Phật đã giảng về Bốn Sự Thật Cao Quý (Tứ Diệu Đế). Bốn Sự Thật nầy căn bảngiải thích tại sao cuộc sống căng thẳng, và làm cho chúng ta thất vọng, và tại sao chúng ta bị mắc kẹt, và phải vật lộn với cuộc sống, giống y như là ngọn lửa không tách ra khỏi được nguồn nhiên liệu. Đức Phật cũng cho chúng ta phương thuốc chữa bệnh, và con đường giải thoát chính là Con Đường Cao Quý Có Tám Phần (Bát Chánh Đạo).

Đạo Phật, thật ra, không phải là một hệ thống về niềm tin, mà Đạo Phật chính là sự thực hành, để cho phép chúng ta buông xả sự dính mắc, và ngừng lại sự đấu tranh trong tâm chúng ta.

NIẾT BÀN KHÔNG PHẢI LÀ MỘT NƠI CHỐN:   

Vì thế, một khi tâm chúng ta được giải thoát, điều gì sẽ xảy ra kế tiếp? Các pháp môn của Đạo Phật diễn-dịch niết-bàn theo một lối khác nhau, tuy nhiên, họ thường đồng ý rằng niết-bàn không phải là một nơi chốn. Mà niết-bàn là một trạng thái của tâm. Tuy nhiên, Đức Phật cũng có nói rằng, bất cứ điều gì chúng ta có-thể nói hoặc tưởng-tượng về niết-bàn đều sai-lầm, bởi vì niết-bàn hoàn-toàn khác-biệt với cõi người của chúng ta. Vì lý do nầy, niết-bàn không có định-nghĩa, bởi vì ngôn ngữ không đủ để diễn tả niết-bàn. Niết Bàn vượt ra ngoài không-gian, thời-gian, và định-nghĩa.

Nhiều kinh điển, và các lời bình luận nói về đi-vào (nhập) niết-bàn, tuy nhiên, nói cho đúng, niết-bàn không-thể đi-vào giống như chúng ta đi-vào một căn-phòng, hoặc là chúng ta có-thể tưởng-tượng là đi-vào thiên-đường.

Học-giả, và cũng là nhà-sư theo Phật-Giáo Nguyên-Thủy Thanissaro Bhikkhu nói rằng, "... vòng luân-hồi, cũng như niết-bàn không phải là một nơi chốn. Vòng luân-hồi là quá-trình tạo ra các nơi-chốn, thậm-chí toàn-bộ thế-giới, (điều nầy được gọi là  sự trở-thành), và rồi chúng ta đi lang-thang qua các nơi-chốn nầy (điều nầy được gọi là sự sinh ra). Niết Bàn là sự chấm-dứt của quá-trình nầy."

Chúng ta đôi khi bị mắc-kẹt vì xử-dụng từ-ngữ "đi vào" (nhập niết-bàn), tuy nhiên, bởi vì Anh Ngữ chưa có từ-ngữ nào để nói cho đúng-đắn về ý-nghĩa nầy của niết-bàn. 

Tất nhiên, có nhiều thế hệ Phật Tử đã tưởng-tượng niết-bàn là một nơi-chốn, bởi vì họ không-thể tưởng-tượng khác hơn thế. Vì thế, chúng ta có thể sẽ gặp những người Phật Tử đã có sự suy-nghĩ như thế. Cũng có những vị lớn tuổi tin-tưởng rằng một người phải được sinh ra là một người đàn-ông mới có thể vào niết-bàn được. Đức Phật lịch-sử chẳng bao giờ nói như thế, tuy nhiên, niềm tin của các người nầy phản ảnh từ một số kinh-điển Đại-Thừa. Tuy nhiên, Kinh Duy Ma Cật (Vimalakirti) đã hoàn-toàn không chấp-nhận khái-niệm nầy.

NIẾT BÀN THEO PHẬT-GIÁO NGUYÊN-THỦY:

Phật Giáo Nguyên Thủy diễn tả hai loại niết-bàn (nirvana) - hoặc là nibbana, vì các vị theo Phật Giáo Nguyên Thủy thường dùng tiếng Pali.

Loại đầu tiên là "niết-bàn có phần-còn-dư" (hoặc là hữu-dư niết-bàn). Loại nầy được so sánh với những mảnh-vụn than-củi hãy còn cháy sau khi dập-tắt ngọn lửa, và điều nầy diễn-tả một người đã giác-ngộ, hoặc là một vị A La Hán. Vị A La Hán hãy còn nhận biết sự vui-thú, và sự đau-đớn, tuy nhiên ông ta (hoặc bà ta) không còn bị trói buộc bởi các điều nầy.

Loại thứ nhì là đại-niết-bàn, đó là niết-bàn sau-cùng, hoặc là niết-bàn hoàn-toàn (niết-bàn không có phần-còn-dư, hoặc vô-dư niết-bàn), đó là "đã đi-vào" niết-bàn, sau khi chết. Bấy giờ, những mảnh-vụn than-củi thì đã nguội-mát. Đức Phật đã dạy rằng, nếu nói niết-bàn là một trạng-thái có-mặt thì không đúng, bởi vì khi nói có-mặt có nghĩa là bị giới-hạn bởi thời-gian và không-gian, thế nên, nếu nói niết-bàn là một trạng-thái không-có-mặt cũng không đúng.

NIẾT BÀN THEO PHẬT-GIÁO ĐẠI-THỪA:

Một trong những đặc-điểm khác-biệt của Phật Giáo Đại Thừa là hạnh-nguyện Bồ Tát. Phật Tử theo Đại Thừa là nguyện ở lại cõi người (thế giới hiện tượng), và phấn đấu để đưa mọi chúng sanh đến giác ngộ. Điều nầy không-phải chỉ thực-hiện trong ý-nghĩa của lòng vị-tha, mà còn qua sự hiểu biết là họ không có cách nào khác. Trong ít nhất một số trường phái Đại Thừa, họ nghĩ rằng tất cả mọi vật đều cùng-nhau tồn-tại, "một-người" đạt niết-bàn thì không-có ý-nghĩa gì cả.

Phật Giáo Đại Thừa cũng dạy rằng luân-hồi, và niết-bàn không thật-sự riêng-biệt. Một người nhận-biết, hoặc cảm-nhận tánh-không của mọi hiện-tượng sẽ nhận ra rằng niết-bàn, và luân-hồi không đối-chọi nhau, thay vào đó, cả hai cùng hòa-nhập với nhau. Niết Bàn chính là bản-chất thật-sự tinh-khiết của luân-hồi. 

Source-Nguồn: http://buddhism.about.com/od/Existence/fl/Nirvana.htm


 NIRVANA

Barbara O'Brien

Nirvana is everywhere, at least for English speakers. The word has been adopted into English to mean "bliss" or "tranquility." Nirvana also is the name of a famous American grunge band, as well as of many consumer products, from bottled water to perfume. But what is it, really? And how does it fit into Buddhism?

In the spiritual sense, nirvana (or nibbana in Pali) is an ancient Sanskrit word that means something like "to extinguish," with the connotation of extinguishing a flame. This more literal meaning has caused many westerners to assume that the goal of Buddhism is to obliterate oneself. But that's not at all what Buddhism, or nirvana, is about.

LIBERATION, NOT OBLITERATION

The ancients considered fire to be an element, one of the most basic forms matter could take. In the culture of India at the time of the Buddha, fire was thought to be equivalent to air, or something like aether (but not exactly).

It was understood that we can see the element of fire as flames only when fire is stuck to some kind of fuel.

When fire is trapped by fuel it becomes hot and agitated, and flames are visible. When the fire is separated from fuel it passes into a different state. Although the fire is no longer visible to humans, it still permeates existence, coolly and serenely.

That is not at all how we understand fire today, of course. However, this understanding does explain why the Buddha used the word nirvana to mean "liberation" or "unbinding."

So nirvana is liberation, but liberation from what? The standard answer is "samsara," which usually is defined as the cycle of birth, death, and rebirth. (Note that "rebirth" is not necessarily reincarnation as you might understand it.) Nirvana is also said to be liberation from dukkha, or the stress / pain / dissatisfaction of life.

In his first sermon after his enlightenment, the Buddha preached the Four Noble Truths. Very basically, the Truths explain why life stresses and disappoints us, and why we are stuck and struggling like a flame stuck to fuel. The Buddha also gave us the remedy, and the path to liberation, which is the Eightfold Path.

Buddhism, then, is not so much a belief system as it is a practice that enables us to stop sticking and struggling.

NIRVANA IS NOT A PLACE

So, once we're liberated, what happens next? The various schools of Buddhism understand nirvana in different ways, but they generally agree that nirvana is not a place. It is more like a state of existence. However, the Buddha also said that anything we might say or imagine about nirvana will be wrong, because it is utterly different from our ordinary existence. For this reason, it also defies definition, because language is inadequate to define it. Nirvana is beyond space, time, and definition.

Many scriptures and commentaries speak of entering nirvana, but (strictly speaking), nirvana cannot be entered in the same way we enter a room, or the way we might imagine entering heaven.

The Theravadin scholar Thanissaro Bhikkhu said, "... neither samsara nor nirvana is a place. Samsara is a process of creating places, even whole worlds, (this is called becoming) and then wandering through them (this is called birth). Nirvana is the end of this process."

We do sometimes get stuck using words like "enter," however, because English vocabulary hasn't developed words that properly relate to nirvana.

Of course, many generations of Buddhist have imagined nirvana to be a place, because they couldn't imagine it as not a place. So you may run into Buddhists with that understanding. There is also an old folk belief that one must be reborn as a man to enter nirvana. The historical Buddha never said any such thing, but the folk belief came to be reflected in some of the Mahayana sutras. This notion was very emphatically rejected in the Vimalakirti Sutra, however.

NIBBANA IN THERAVADA BUDDHISM

Theravada Buddhism describes two kinds of nirvana - or nibbana, as Theravadins usually use the Pali word.

The first is "nibbana with remainders." This is compared to the embers that remain warm after flames have been extinguished, and it describes a living enlightened being, or arahant. The arahant is still conscious of pleasure and pain, but he or she is no longer bound to them.

The second type is parinibbana, which is final or complete nibbana that is "entered" at death. Now the embers are cool. The Buddha taught that this state is neither existence - because that which can be said to exist is limited in time and space - nor non-existence.

NIRVANA IN MAHAYANA BUDDHISM

One of the distinguishing characteristics of Mahayana Buddhism is the bodhisattva vow. Mahayana Buddhists vow to remain in the phenomenal world and strive to bring all beings to enlightenment. This is not done just a in sense of altruism, but with the understanding that it cannot be otherwise.  In at least some schools of Mahayana, because everything inter-exists, "individual" nirvana is nonsensical.

Mahayana Buddhism also teachings that samsara and nirvana are not really separate. A being who has realized or perceived the emptiness of phenomena will realize that nirvana and samsara are not opposites, but instead completely pervade each other. Nirvana is the purified, true nature of samsara.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2254)
“Đức Phật nói: Như vậy, như vậy, như lời ông nói. Tu Bồ Đề! Nhất thiết chủng trí, chẳng phải là pháp tạo tác, chúng sanh cũng chẳng phải là pháp tạo tác.
(Xem: 3414)
Đức Phật cho rằng, bạn phải quan sát hơi thở như nó đang là-yathabhuta. Nếu hơi thở dài, bạn biết nó dài, nếu hơi thở ngắn, bạn biết nó ngắn.
(Xem: 4093)
Tâm là kinh nghiệm cá nhân, chủ quan về “điều gì” luôn luôn thay đổi, từ khoảnh khắc này đến khoảnh khắc khác.
(Xem: 3862)
“Cánh cửa bất tử đã mở ra cho tất cả những ai muốn nghe”, đây là câu nói của Đức Phật sau khi Ngài giác ngộ.
(Xem: 2806)
Trong các kinh thường ví chân tâm là viên ngọc, như viên ngọc như ý, viên ngọc ma ni, lưới Trời Đế Thích…Bài kệ này chỉ thẳng Viên Ngọc Tâm
(Xem: 3284)
Trong Nguồn thiền, Tổ Khuê Phong Tông Mật nói: “Người ngộ ngã pháp đều không, hiện bày chân lý mà tu là thiền Đại thừa”.
(Xem: 3418)
Trong Kinh Văn Thù quyển hạ có chép: Ngài Văn Thù thưa rằng: “Bạch Đức Thế Tôn, sau khi Đức Thế Tôn nhập Niết bàn thì đệ tử của Ngài phân hóa bộ phái như thế nào?
(Xem: 4467)
Vấn đề Nam tôngBắc tông là một vấn đề tương đối rất cũ – cũ đến hơn một ngàn năm trăm năm kể từ ngày con người có được cái hạnh phúc biết đến giáo pháp của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
(Xem: 3794)
Trước những sự kiện diễn ra trong cuộc sống hằng ngày, tôi đã từng ngày đêm thao thức với biết bao câu hỏi “ Tại sao ?”
(Xem: 4668)
Khổ đau và hạnh phúc là nỗi trầm tư hàng đầu trong kiếp nhân sinh. Nhiều người cho rằng hai cảm thọ ấy là do nghiệp quyết định.
(Xem: 3940)
Mất 11 năm khổ công tầm đạo, Đức Phật Thích Ca đã đạt đại giác ngộ sau 49 ngày quyết tâm thiền định dưới cội cây bồ đề.
(Xem: 2938)
Trước những sự kiện diễn ra trong cuộc sống hằng ngày, tôi đã từng ngày đêm thao thức với biết bao câu hỏi “ Tại sao ?”...
(Xem: 3697)
Một người không có trí nhớ, hoặc mất trí nhớ, cuộc đời người ấy sẽ ra sao?
(Xem: 3826)
Chí đạo vốn ở tâm mình. Tâm pháp vốn ở vô trụ. Tâm thể vô trụ, tánh tướng tịch nhiên, chẳng phải có chẳng phải không, chẳng sanh chẳng diệt.
(Xem: 2993)
Trước khi nhập Niết-bàn, đức Phậtdi giáo tối hậu cho các chúng đệ tử: “Pháp và Luật mà Ta đã thuyết và qui định, là Đạo Sư của các ngươi sau khi Ta diệt độ.”
(Xem: 3542)
Phật giáo là một tổ chức cộng đồng (Samasambhaga) ra đời sớm nhất trong lịch sử nhân loại (-5 CN).
(Xem: 4383)
Đức Phật, một nhân vật lịch sử 3000 năm về trước, ra đời tại Bắc Ấn, là bậc giác ngộ toàn triệt, là bậc đạo sư với nghi biểu đặc biệt xuất hiện ở đời.
(Xem: 3649)
Con người sanh ra để hưởng thụ qua lục dục như tài, sắc, danh, thực, thùy (Ngủ nghỉ), .v.v. Con người trải qua một chu kỳ già, bệnh và cuối cùng là chết.
(Xem: 2166)
Nguyên bản: Teachings On The Eight Verses On Training The Mind. Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma . Anh dịch: Thupten Jinpa. Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 2542)
Phật tánh với thành Phật là hai vấn đề khác nhau, không thể đồng nhất được.
(Xem: 2962)
Kinh Tiểu Duyên (Aggaññasutta) trong tiếng Pali có nghĩa là kinh nói về nguyên nhân hay bài giảng về khởi nguyên các pháp.....
(Xem: 2646)
Đức Phật đã dạy về những sự thật này ngay khi ngài đạt đến Giác Ngộ như một phần của những gì được biết như Chuyển Pháp Luân Lần Thứ Nhất.
(Xem: 4535)
“Thiên đường có lối sao chẳng đi Địa ngục không cửa dấn thân vào”
(Xem: 4861)
Khổ đau và hạnh phúc là nỗi trầm tư hàng đầu trong kiếp nhân sinh. Nhiều người cho rằng hai cảm thọ ấy là do nghiệp quyết định.
(Xem: 2776)
Kính lễ đạo sư và đấng bảo hộ của chúng con, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát! Sự thông tuệ của ngài chiếu soi như mặt trời, không bị che mờ bởi vọng tưởng hay dấu vết của si mê,
(Xem: 5128)
Kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa, đã được chính Đức Thế Tôn tuyên dương là Bổn Kinh Thượng Thừa, bao gồm
(Xem: 2784)
Trong phẩm Ứng Tận Hoàn Nguyên kinh Đại Bát Niết Bàn, nói về sự nhập Niết bàn của Đức Phật.
(Xem: 3195)
Trong số các vị Tổ sư của Thiền phái Vô Ngôn Thông, Viên Chiếu được xem là vị Thiền sư danh tiếng, lỗi lạc bậc nhất.
(Xem: 4310)
Nguyên tử giải phóng trở thành nguyên tử năng là đánh dấu thời đại đại phát minh của nhân loại. Là họa hay là phước tạm thời không bàn luận đến.
(Xem: 4853)
Luân hồinhân quả là hai sự kiện tương quan. Bởi chúng sanh còn nghiệp trái của nhân quả thiện ác nên mới bị luân hồi.
(Xem: 4600)
“Tướng” là cái gì? “Tướng” chính là tướng trạng của sự vật biểu hiện nơi ngoài và tưởng tượng ở nơi trong tâm chúng ta.
(Xem: 3161)
Kính Pháp Sư Hiền Đức, tôi là một tu sĩ đạo hiệu Thích Thắng Hoan có vài lời tâm niệm gởi đến Pháp Sư, một hôm tôi đến chùa...
(Xem: 4489)
Một trong những Pháp sư được tôn vinh nhất trong lịch sử châu Á, Ngài Huyền Trang – một nhà sư, học giả, dịch giả nổi tiếng...
(Xem: 4211)
Một trong những Pháp sư được tôn vinh nhất trong lịch sử châu Á, Ngài Huyền Trang – một nhà sư, học giả, dịch giả nổi tiếng...
(Xem: 6071)
Mùa xuân là dịp để trở về, dừng bước chân hoằng hóa để quán chiếu mọi nhân duyên giữa đời.
(Xem: 3454)
Bản Pháp văn mà tôi giới thiệu ở đây, không phải là toàn văn được in trên giấy, mà chỉ là một phần gọn nhẹ và cô đọng, cắt bớt những giới luật khá khắt khe khó tiếp cận với người Tây phương, nên giản dị và dễ đi vào lòng người.
(Xem: 3957)
Trước đây rất lâu từ những năm 1930, người ta đã chất vấn, phê phán rằng những người theo Phật giáo không biết làm giàu.
(Xem: 5936)
Trong không gian mênh mông của vườn kinh điển Đại Thừa, Diệu Pháp Liên Hoa là đoá hoa vi diệu nhất mà chính Đức Thế Tôn đã ca ngợi
(Xem: 5345)
Trong cuộc sống, nếu một người mất đi niềm tin sẽ trở nên vị kỷ, bất cần và gặt hái khổ đau, dễ dàng bị tác động vào những...
(Xem: 3965)
Đức Phật đã dạy: "Nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh." Tất cả mọi loài, ai cũng có cái tánh làm Phật. Mình hiểu lời Phật dạy một cách nôn na như vậy.
(Xem: 32585)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 3116)
Ngày nay, vấn đề kỳ thị chủng tộc, giai cấp, giới tính được con người quan tâmtranh đấu quyết liệt hơn bao giờ hết.
(Xem: 4085)
Phật tánhthực tại tối hậu của chúng sanh và các bậc giác ngộ. Kinh Đại Bát Niết Bàn đã dùng nhiều từ để chỉ Phật tánh này
(Xem: 4671)
Kinh Biệt Giải Thoát Giới - tên gọi khác của Kinh Tư Lượng (Anumāna Sutta) - là bài kinh thứ mười lăm trong Majjhima Nikāya
(Xem: 2999)
Trong suốt hai ngàn năm lịch sử, đạo Phật luôn luôn có mặt trong lòng dân tộc Việt Nam khắp nẻo đường đất nước và gắn bó với dân tộc Việt Nam trong mọi thăng trầm vinh nhục.
(Xem: 3739)
Có nhiều bài kệ rất hay khi xướng lên hay khi tán tụng; hoặc giả khi mạn đàm Phật Pháp; nhưng cũng có lắm bài kệ...
(Xem: 3475)
Từ nhỏ, lúc mới vào chùa khi 15 tuổi của năm 1964 và năm nay 2020 cũng đã trên 70 tuổi đời và hơn 55 năm sống trong Thiền Môn
(Xem: 6471)
Duy Thức Học được gọi là môn triết họcmôn học này nhằm khai triển tận cùng nguyên lý của vạn hữu vũ trụ nhân sanh mà vạn hữu vũ trụ nhân sanh...
(Xem: 2716)
Vấn đề thế giới địa ngụcvấn đề rất nhiều nghi vấn, những người theo đạo Phật thì tin có thế giới địa ngục, những người không theo đạo Phật thì không tin có thế giới địa ngục và có một hạng người thì nửa tin nửa ngờ.
(Xem: 3175)
Vấn đề tụng niệm một số người không nắm được giá trịnghĩa lý của nó nên có thái độ khinh thường, xem nhẹ, không quan tâm, không chú trọng cho việc làm này...
(Xem: 4472)
Phật tại thế thời ngã trầm luân, Kim đắc nhân thân Phật diệt độ, Áo não tự thân đa nghiệp chướng, Bất kiến Như Lai kim sắc thân.
(Xem: 3369)
Có những bài tán nghe qua là hiểu liền nội dung; nhưng cũng có những bài tán rất khó hiểu, không biết lý do vì sao? Trong đó có bài tán “Chiên Đàn” là một.
(Xem: 7221)
“Thừa Tự”, theo quan niệm phong kiến xưa, có nghĩa là thọ hưởng của “hương hỏa” với trách nhiệm nối dõi việc thờ cúng Tổ tiên.
(Xem: 4410)
Nhà nghiên cứu phật học K.SCHMIDT1 đã có lần nêu lên những điểm tương đồng giữa tri thức luận của Kant và của Phật học,
(Xem: 4457)
Theo đức Phật, vũ trụ không có khởi nguyên, không có tận cùng và khoảng không vũ trụ vốn vô tận, gồm vô số thế giới như cát sông Hằng (Gangânadivâlukopama).
(Xem: 7123)
Phàm tất cả vạn pháp, vạn hữu trong vũ trụ được sanh ra và có mặt trên thế gian này đều có nguyên nhân, nguyên do đầu mối của nó.
(Xem: 2890)
Chữ khám phá ở đây rất chính xác. Không có sự truyền giáo của đạo Phật đến người Tây phương. Và, tuy người Âu châu khám phá đạo Phật rất trễ, nhưng đó là sự khám phá vô cùng lý thú.
(Xem: 12005)
“Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao Tăng làm sáng cho Phật giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ 6 mãi đến nay đều là các Thiền sư.”
(Xem: 3884)
“Nguyên nhân hình thành Phật giáo Đại Thừa” là một đề tài có phạm trù không rộng lắm, nên ít có người khảo sát và nguồn tư liệu về nó cũng rất hạn chế.
(Xem: 3708)
Những gợi ý dưới đây có thể giúp chúng ta lĩnh hội được ý nghĩa thâm sâu, khó hiểu của kinh một cách hiệu quả, đồng thời giữ gìn sự trung thực với nội dung của ý kinh.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant