Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Niết Bàn (song ngữ)

11 Tháng Ba 201612:10(Xem: 8185)
Niết Bàn (song ngữ)

NIẾT BÀN

Barbara O'Brien
Nguyễn Văn Tiến

Niết Bàn (song ngữ)


Niết bàn thì ở khắp mọi nơi, ít nhất là đối với những người nói tiếng Anh. Từ ngữ nầy đã được dùng trong Anh Ngữ với ý nghĩa là "hạnh phúc" hoặc "bình yên". Niết Bàn cũng là tên của một ban nhạc chơi nhạc-grunge nổi tiếng của Hoa Kỳ, cũng như là tên của nhiều sản phẩm tiêu-thụ, từ nước đóng chai, đến nước hoa. Nhưng Niết Bàn thật sự là gì? Và Niết Bàn đóng vai trò gì trong Đạo Phật?

Trong ý nghĩa tâm linh, niết bàn (hay nibbana trong tiếng Pali) là một từ ngữ tiếng Phạn cổ-xưa có nghĩa là "dập tắt", với nghĩa rộng là "dập tắt ngọn lửa". Nhiều người Tây Phương đã nghĩ theo nghĩa đen của từ ngữ nầy, nên họ cho rằng mục đích của đạo Phật là chùi-sạch chính mình. Nhưng Đạo Phật, hoặc niết-bàn, không phải chỉ là như thế.

SỰ GIẢI THOÁT, CHỨ KHÔNG PHẢI SỰ LAU-CHÙI-CHO-SẠCH:

Người thời xưa coi lửa là một yếu tố, một trong những hình thức cơ bản nhất của vật-chất có thể mang-đi được. Trong văn hóa của Ấn Độ vào thời Đức Phật, lửa được xem là tương đương với không-khí, hoặc một cái gì đó giống như chất ê-te (ether).

Chúng ta nên hiểu rằng chúng ta chỉ có thể nhìn thấy yếu tố lửa, như là ngọn-lửa nếu lửa được tiếp nối với một loại nhiên liệu nào đó.

Khi lửa được tiếp cận với nguồn nhiên liệu, lửa trở nên nóng và bùng lên, và chúng ta nhìn thấy ngọn lửa. Khi lửa được tách rời ra khỏi nhiên liệu, lửa chuyển sang một trạng thái khác. Mặc dù lúc nầy, con người không nhìn thấy lửa, lửa vẫn có sự tồn tại, trầm tĩnh, và bình thản.

Tất nhiên, đấy không phải là những gì chúng ta hiểu về lửa, ngày hôm nay. Tuy nhiên, sự hiểu biết nầy đã giải thích lý do tại sao Đức Phật đã dùng từ ngữ niết-bàn với ý nghĩa là "giải thoát", hoặc là "cởi sợi giây trói ra."

Cho nên, niết-bàn là sự giải thoát, tuy nhiên, giải thoát từ cái gì? Câu trả lời thông thường là "vòng luân-hồi," mà thường được định nghĩa là chu kỳ sinh ra, rồi mất đi, rồi tái-sinh. (xin lưu ý rằng "tái sinh" (từ thần-thức) không có nghĩa là "đầu thai" (từ linh-hồn), như một số người hiểu lầm.) Niết Bàn cũng được xem là giải thoát khỏi sự đau khổ, hoặc sự căng thẳng / sự đau đớn / sự không hài lòng trong cuộc sống.

Sau khi Đức Phật giác ngộ, trong bài giảng đầu tiên của ngài, Đức Phật đã giảng về Bốn Sự Thật Cao Quý (Tứ Diệu Đế). Bốn Sự Thật nầy căn bảngiải thích tại sao cuộc sống căng thẳng, và làm cho chúng ta thất vọng, và tại sao chúng ta bị mắc kẹt, và phải vật lộn với cuộc sống, giống y như là ngọn lửa không tách ra khỏi được nguồn nhiên liệu. Đức Phật cũng cho chúng ta phương thuốc chữa bệnh, và con đường giải thoát chính là Con Đường Cao Quý Có Tám Phần (Bát Chánh Đạo).

Đạo Phật, thật ra, không phải là một hệ thống về niềm tin, mà Đạo Phật chính là sự thực hành, để cho phép chúng ta buông xả sự dính mắc, và ngừng lại sự đấu tranh trong tâm chúng ta.

NIẾT BÀN KHÔNG PHẢI LÀ MỘT NƠI CHỐN:   

Vì thế, một khi tâm chúng ta được giải thoát, điều gì sẽ xảy ra kế tiếp? Các pháp môn của Đạo Phật diễn-dịch niết-bàn theo một lối khác nhau, tuy nhiên, họ thường đồng ý rằng niết-bàn không phải là một nơi chốn. Mà niết-bàn là một trạng thái của tâm. Tuy nhiên, Đức Phật cũng có nói rằng, bất cứ điều gì chúng ta có-thể nói hoặc tưởng-tượng về niết-bàn đều sai-lầm, bởi vì niết-bàn hoàn-toàn khác-biệt với cõi người của chúng ta. Vì lý do nầy, niết-bàn không có định-nghĩa, bởi vì ngôn ngữ không đủ để diễn tả niết-bàn. Niết Bàn vượt ra ngoài không-gian, thời-gian, và định-nghĩa.

Nhiều kinh điển, và các lời bình luận nói về đi-vào (nhập) niết-bàn, tuy nhiên, nói cho đúng, niết-bàn không-thể đi-vào giống như chúng ta đi-vào một căn-phòng, hoặc là chúng ta có-thể tưởng-tượng là đi-vào thiên-đường.

Học-giả, và cũng là nhà-sư theo Phật-Giáo Nguyên-Thủy Thanissaro Bhikkhu nói rằng, "... vòng luân-hồi, cũng như niết-bàn không phải là một nơi chốn. Vòng luân-hồi là quá-trình tạo ra các nơi-chốn, thậm-chí toàn-bộ thế-giới, (điều nầy được gọi là  sự trở-thành), và rồi chúng ta đi lang-thang qua các nơi-chốn nầy (điều nầy được gọi là sự sinh ra). Niết Bàn là sự chấm-dứt của quá-trình nầy."

Chúng ta đôi khi bị mắc-kẹt vì xử-dụng từ-ngữ "đi vào" (nhập niết-bàn), tuy nhiên, bởi vì Anh Ngữ chưa có từ-ngữ nào để nói cho đúng-đắn về ý-nghĩa nầy của niết-bàn. 

Tất nhiên, có nhiều thế hệ Phật Tử đã tưởng-tượng niết-bàn là một nơi-chốn, bởi vì họ không-thể tưởng-tượng khác hơn thế. Vì thế, chúng ta có thể sẽ gặp những người Phật Tử đã có sự suy-nghĩ như thế. Cũng có những vị lớn tuổi tin-tưởng rằng một người phải được sinh ra là một người đàn-ông mới có thể vào niết-bàn được. Đức Phật lịch-sử chẳng bao giờ nói như thế, tuy nhiên, niềm tin của các người nầy phản ảnh từ một số kinh-điển Đại-Thừa. Tuy nhiên, Kinh Duy Ma Cật (Vimalakirti) đã hoàn-toàn không chấp-nhận khái-niệm nầy.

NIẾT BÀN THEO PHẬT-GIÁO NGUYÊN-THỦY:

Phật Giáo Nguyên Thủy diễn tả hai loại niết-bàn (nirvana) - hoặc là nibbana, vì các vị theo Phật Giáo Nguyên Thủy thường dùng tiếng Pali.

Loại đầu tiên là "niết-bàn có phần-còn-dư" (hoặc là hữu-dư niết-bàn). Loại nầy được so sánh với những mảnh-vụn than-củi hãy còn cháy sau khi dập-tắt ngọn lửa, và điều nầy diễn-tả một người đã giác-ngộ, hoặc là một vị A La Hán. Vị A La Hán hãy còn nhận biết sự vui-thú, và sự đau-đớn, tuy nhiên ông ta (hoặc bà ta) không còn bị trói buộc bởi các điều nầy.

Loại thứ nhì là đại-niết-bàn, đó là niết-bàn sau-cùng, hoặc là niết-bàn hoàn-toàn (niết-bàn không có phần-còn-dư, hoặc vô-dư niết-bàn), đó là "đã đi-vào" niết-bàn, sau khi chết. Bấy giờ, những mảnh-vụn than-củi thì đã nguội-mát. Đức Phật đã dạy rằng, nếu nói niết-bàn là một trạng-thái có-mặt thì không đúng, bởi vì khi nói có-mặt có nghĩa là bị giới-hạn bởi thời-gian và không-gian, thế nên, nếu nói niết-bàn là một trạng-thái không-có-mặt cũng không đúng.

NIẾT BÀN THEO PHẬT-GIÁO ĐẠI-THỪA:

Một trong những đặc-điểm khác-biệt của Phật Giáo Đại Thừa là hạnh-nguyện Bồ Tát. Phật Tử theo Đại Thừa là nguyện ở lại cõi người (thế giới hiện tượng), và phấn đấu để đưa mọi chúng sanh đến giác ngộ. Điều nầy không-phải chỉ thực-hiện trong ý-nghĩa của lòng vị-tha, mà còn qua sự hiểu biết là họ không có cách nào khác. Trong ít nhất một số trường phái Đại Thừa, họ nghĩ rằng tất cả mọi vật đều cùng-nhau tồn-tại, "một-người" đạt niết-bàn thì không-có ý-nghĩa gì cả.

Phật Giáo Đại Thừa cũng dạy rằng luân-hồi, và niết-bàn không thật-sự riêng-biệt. Một người nhận-biết, hoặc cảm-nhận tánh-không của mọi hiện-tượng sẽ nhận ra rằng niết-bàn, và luân-hồi không đối-chọi nhau, thay vào đó, cả hai cùng hòa-nhập với nhau. Niết Bàn chính là bản-chất thật-sự tinh-khiết của luân-hồi. 

Source-Nguồn: http://buddhism.about.com/od/Existence/fl/Nirvana.htm


 NIRVANA

Barbara O'Brien

Nirvana is everywhere, at least for English speakers. The word has been adopted into English to mean "bliss" or "tranquility." Nirvana also is the name of a famous American grunge band, as well as of many consumer products, from bottled water to perfume. But what is it, really? And how does it fit into Buddhism?

In the spiritual sense, nirvana (or nibbana in Pali) is an ancient Sanskrit word that means something like "to extinguish," with the connotation of extinguishing a flame. This more literal meaning has caused many westerners to assume that the goal of Buddhism is to obliterate oneself. But that's not at all what Buddhism, or nirvana, is about.

LIBERATION, NOT OBLITERATION

The ancients considered fire to be an element, one of the most basic forms matter could take. In the culture of India at the time of the Buddha, fire was thought to be equivalent to air, or something like aether (but not exactly).

It was understood that we can see the element of fire as flames only when fire is stuck to some kind of fuel.

When fire is trapped by fuel it becomes hot and agitated, and flames are visible. When the fire is separated from fuel it passes into a different state. Although the fire is no longer visible to humans, it still permeates existence, coolly and serenely.

That is not at all how we understand fire today, of course. However, this understanding does explain why the Buddha used the word nirvana to mean "liberation" or "unbinding."

So nirvana is liberation, but liberation from what? The standard answer is "samsara," which usually is defined as the cycle of birth, death, and rebirth. (Note that "rebirth" is not necessarily reincarnation as you might understand it.) Nirvana is also said to be liberation from dukkha, or the stress / pain / dissatisfaction of life.

In his first sermon after his enlightenment, the Buddha preached the Four Noble Truths. Very basically, the Truths explain why life stresses and disappoints us, and why we are stuck and struggling like a flame stuck to fuel. The Buddha also gave us the remedy, and the path to liberation, which is the Eightfold Path.

Buddhism, then, is not so much a belief system as it is a practice that enables us to stop sticking and struggling.

NIRVANA IS NOT A PLACE

So, once we're liberated, what happens next? The various schools of Buddhism understand nirvana in different ways, but they generally agree that nirvana is not a place. It is more like a state of existence. However, the Buddha also said that anything we might say or imagine about nirvana will be wrong, because it is utterly different from our ordinary existence. For this reason, it also defies definition, because language is inadequate to define it. Nirvana is beyond space, time, and definition.

Many scriptures and commentaries speak of entering nirvana, but (strictly speaking), nirvana cannot be entered in the same way we enter a room, or the way we might imagine entering heaven.

The Theravadin scholar Thanissaro Bhikkhu said, "... neither samsara nor nirvana is a place. Samsara is a process of creating places, even whole worlds, (this is called becoming) and then wandering through them (this is called birth). Nirvana is the end of this process."

We do sometimes get stuck using words like "enter," however, because English vocabulary hasn't developed words that properly relate to nirvana.

Of course, many generations of Buddhist have imagined nirvana to be a place, because they couldn't imagine it as not a place. So you may run into Buddhists with that understanding. There is also an old folk belief that one must be reborn as a man to enter nirvana. The historical Buddha never said any such thing, but the folk belief came to be reflected in some of the Mahayana sutras. This notion was very emphatically rejected in the Vimalakirti Sutra, however.

NIBBANA IN THERAVADA BUDDHISM

Theravada Buddhism describes two kinds of nirvana - or nibbana, as Theravadins usually use the Pali word.

The first is "nibbana with remainders." This is compared to the embers that remain warm after flames have been extinguished, and it describes a living enlightened being, or arahant. The arahant is still conscious of pleasure and pain, but he or she is no longer bound to them.

The second type is parinibbana, which is final or complete nibbana that is "entered" at death. Now the embers are cool. The Buddha taught that this state is neither existence - because that which can be said to exist is limited in time and space - nor non-existence.

NIRVANA IN MAHAYANA BUDDHISM

One of the distinguishing characteristics of Mahayana Buddhism is the bodhisattva vow. Mahayana Buddhists vow to remain in the phenomenal world and strive to bring all beings to enlightenment. This is not done just a in sense of altruism, but with the understanding that it cannot be otherwise.  In at least some schools of Mahayana, because everything inter-exists, "individual" nirvana is nonsensical.

Mahayana Buddhism also teachings that samsara and nirvana are not really separate. A being who has realized or perceived the emptiness of phenomena will realize that nirvana and samsara are not opposites, but instead completely pervade each other. Nirvana is the purified, true nature of samsara.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 4980)
Phật giáo có hai hệ là Theravada và Phát-Triển. Hệ Theravada quan niệm quả vị cao nhất mà hành giảthể đạt được là quả vị A-La-Hán.
(Xem: 4366)
Định học là một chi phần quan trọng trong Tam vô lậu học giới, định, tuệ .
(Xem: 4656)
Trí tuệ là sự thấu hiểu, là kiến thức liên quan đến tư tưởng đạo đức giúp ta đi sâu vào đặc điểm và biểu hiện của các đạ o lộ thông qua sự nỗ lực tinh tấn.
(Xem: 4701)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau, nhưng...
(Xem: 5854)
Có một chuyện rất khoa học, tôi không bắt quý vị phải nhắm mắt tin Phật nhưng tôi cho quý vị một gợi ý.
(Xem: 3294)
Đối với một người đã giác ngộ, sẽ không còn thấy nữ tính và nam tính nữa. Với một số vị thường quán bạch cốt, sẽ thấy thân mình và người chỉ là một nhóm xương khô đang đi đứng nằm ngồi.
(Xem: 5258)
Long Thọ hay Long Thụ (Nāgārjuna) không phải chỉ là tổ của tông Trung Quán (Madhyamika),[1] trong lịch sử phát triển Phật giáo ngài được coi là vị Phật thứ hai sau Đức Thế Tôn
(Xem: 2922)
Hạnh phúctrạng thái cảm xúc khi ta thỏa mãn được nhu cầu nào đó của bản thân. Hạnh phúc khi được nhận. Có một loại hạnh phúc khác mà cảm xúc mang đến cho bạn nhiều hơn nữa: Đó là hạnh phúc từ sự cho đi.
(Xem: 4132)
Kỳ thực, trên đời này không ai có thể khiến chúng ta đau khổ ngoài chính bản thân mình, và cũng không ai có thể mang lại hạnh phúc cho chúng ta ngoài bản thân mình ra…
(Xem: 5281)
Bài kinh "Viết Trên Đá, Trên Đất, Trên Nước" là bài kinh ngắn, trích trong Kinh Tăng Chi Bộ, chương Ba, phẩm Kusinàra.
(Xem: 4262)
Đã gần vào Hạ mà đức Thế Tôn vẫn chưa khuyên giải được mâu thuẫn giữa hai nhóm Tỳ-kheo đều là đệ tử của Ngài.
(Xem: 3318)
Cuộc sống giản đơn sẽ tháo bỏ cho chúng ta những gông cùm trách nhiệm do chính chúng ta tự đeo vào cổ, giúp chúng ta có nhiều thời gian hơn để sống với những người thân yêu.
(Xem: 6358)
Bài kinh "Thanh Tịnh" là bài kinh ngắn, Đức Phật giảng cho các vị Tỷ-kheo khi Ngài còn tại thế.
(Xem: 5329)
Sa-môn (Samana), Tỳ-kheo (Bhikkhu) hay Bí-sô (Bhiksu) là những danh xưng chỉ cho vị tu sĩ Phật giáo.
(Xem: 4620)
Kinh Trung A-Hàm được dịch sang Hán đầu tiên vào niên hiệu Kiến Nguyên năm thứ mười chín (383) do một nhóm các vị tăng nhân người Ấn Độ nói chung thực hiện.
(Xem: 6232)
Trung đạo (madhyamā-pratipad) là con đường tu tập được kinh nghiệm từ chính Đức Phật.
(Xem: 6104)
Tâm lý thường tình của con người là tò mò, ưa những điều lạ lùng, kỳ dị và khác thường vì họ đã quá quen với cuộc sống bình thường, nên ...
(Xem: 3888)
Chúng sinh trong cõi “Dục giới” luôn chạy theo tìm cầu để hưởng thụ năm thứ dục lạc nên gọi là ngũ dục. Ngũ dục, chính là năm thứ sắc, thanh, hương, vị, xúc.
(Xem: 6032)
Tứ động tâm là bốn Thánh tích thiêng liêng của Phật giáo tại Ấn Độ, ghi dấu bốn sự kiện trọng đại trong cuộc đờisự nghiệp hoằng hóa của Đức Phật Thích Ca.
(Xem: 4639)
Về mặt ngôn từ, thì chữ “công đức” là được dịch nghĩa từ chữ “punna” trong tiếng Pali. Tiếng Anh dịch thành chữ “merit”.
(Xem: 4785)
Nguyên nhân của sanh tử được nêu rõ trong Thập nhị nhân duyên, thuộc giáo lý căn bản của Phật giáo.
(Xem: 3384)
tại gia hay xuất gia, chúng ta đến với đạo Phật nhưng chỉ biết những hình thức cúng kiếng, lễ lạy
(Xem: 6273)
Uẩn, thuật ngữ Pāli là khandha (Skt: skandha) thường được dịch sang tiếng Anh là ‘aggregates’ uẩn.
(Xem: 4941)
Ba-la-mật (pāramī or pāramitā) là các pháp hành để hoàn thiện nhân cách được nói đến trong kinh điểnchú giải, nhất là phần Hạnh Tạng thuộc Tiểu Bộ kinh.
(Xem: 3540)
Nói đạo Phật là đạo “cứu khổ ban vui” nhưng kỳ thực chẳng có ai ‘cứu’ mà cũng không ai ‘ban’ cho cả.
(Xem: 3470)
Mọi hiện tượng và sự vật trên thế gianhoàn vũ này không bao giờ độc lậptồn tại, mà do nhân duyên hòa hợp tạo thành.
(Xem: 5666)
Quan điểm thống nhất trong kinh điển là: sát sanh vi phạm giới luật đầu tiên và chiến tranh là sai lầm ngay cả khi chiến đấu cho mục tiêu phòng thủ hay tấn công.
(Xem: 4234)
Narayan Helen Liebenson, Geshe Tenzin Wangyal Rinpoche và Blanche Hartman chia xẻ lời khuyên của họ về việc làm sao để ứng phó với các giai đoạn trầm cảm.
(Xem: 5979)
Niết-bàn là phước lạc tối thượng, một trạng thái hạnh phúc vĩnh cửu. Không thể trải nghiệm hạnh phúc của Niết-bàn bằng các giác quan mà bằng cách làm cho chúng tịch lặng.
(Xem: 5235)
Trong những bài pháp ngắn gọn, súc tích nhất để hướng dẫn tu hành khi chưa có giới bổn Patimokkha, Chư Phật đã chỉ ra con đường sống đạo,
(Xem: 3669)
Định hướng cuộc đời để đạt được mong muốn thích đángyếu tố quan trọng giúp cho ta thăng tiến trên đỉnh cao của sự giác ngộgiải thoát.
(Xem: 3753)
Hơn bao giờ hết, những bản dịch kinh điển rõ ràng dễ hiểu, được chú giải thận trọng, được thẩm định kỹ lưỡng trước khi đến tay người học Phật đang là một nhu cầu hết sức cấp thiết và quan trọng.
(Xem: 3704)
Nếu đời là vô thường, sự sống có giới hạn thì phải chăng con người ta khi sống nên có một chút ý nghĩa. Bạn ước mong gì?
(Xem: 3529)
Mong ước của tôi là chúng ta sẽ có dịp đồng hành cùng nhau trên hành trình tâm linh siêu việt của bạn.
(Xem: 5361)
“Tất cả những cảm thọ mà một người nhận chịu dầu đó là lạc thọ, khổ thọ hay vô ký thọ đều là kết quả của Nghiệp quá khứ, người nào quan niệm như vậy là tà kiến”.
(Xem: 4009)
Đức Phật là đấng đạo sư, là bậc thầy của nhân loại, nhưng ngài cũng là nhà luận lý phân tích, nhà triết học, nhà giáo dục vĩ đại. Kinh tạng Pāli cho chúng ta thấy rõ về các phương pháp giảng dạy của đức Phật một cách chi tiết. Tùy theo từng đối tượng nghe pháp mà Ngài có phương thức truyền đạt khác nhau.
(Xem: 4358)
Đất Phù Nam (Funan) bao trùm cả một phần Việt Nam, Căm Bốt (Cambodia), Mã Lai (Malaysia) và Thái Lan (Thailand).
(Xem: 5818)
Nhiều người không sinh ra trong gia đình Phật Giáo, nhưng đã tìm học về Phật Giáo nhờ nghe luật Nghiệp Báo
(Xem: 3121)
Thế Tôn thật sự là vị đã đoạn trừ nhiều khổ pháp cho chúng ta. Thế Tôn thật sự là vị đã mang lại nhiều lạc pháp cho chúng ta.
(Xem: 3064)
Đạo từ tâm sinh. Đi học đạo là học cho ta, để nhận chân được tự tâm, để tạo nên cái phẩm giá của ta
(Xem: 3855)
Người ngu si thiếu trí tuệ biến tự ngã của mình thành kẻ thù, lại tưởng kẻ thù của mình ở bên ngoài nhưng chính mình là kẻ thù của mình đó.
(Xem: 4850)
"Nầy các Tỳ Kheo, ta sẽ giảng dạy, và phân tích cho các ông nghe về con đường cao quý có tám phần. Khi ta nói, các ông hãy chú ý và lắng nghe."
(Xem: 3569)
Nếu tâm hồn biết thầm lặng kết “bạn đường” với thánh hiền tôn giáo, với các nhà hiền triết tâm linh, thì NĂNG LƯỢNG MẦU NHIỆM sẽ hiện hữu...
(Xem: 3037)
Có thể nói ngày nay, chiến tranh, hận thù, thương yêu, ghét bỏ, kỳ thị, náo động trên thế giới… đều do tà kiến mà ra.
(Xem: 4569)
Luật nhân quả có lẽ ai cũng biết và hầu như ít nhiều ai cũng tin. Tuy nhiên, để có được niềm tin không lay chuyển vào quy luật tự nhiêncông bằng ấy thì lại không dễ,
(Xem: 4717)
Tâm là chủ thể tiếp nhận các đối tượng từ bên ngoài lẫn bên trong. Khi đang ngủ say, thì tâm được cho là trống rỗng, hay nói cách khác, đó là trạng thái vô thức
(Xem: 3431)
Không ai có thể nói trước được chuyện gì sẽ xảy ra ở ngày mai, mặc dù ngày mai mặt trời vẫn lên.
(Xem: 3986)
Nhà Phật thường nhắc đến đạo lý sống Trung Đạo. Cái gọi là Trung Đạo chính là không đi theo hướng cực đoan, quá mức.
(Xem: 4723)
Nhiều trường phái Phật Giáo ngày nay vẫn tụng Kinh Pali, ngôn ngữ của Đức Phật lịch sử.
(Xem: 3563)
Hiện nay, quý vị trẻ thường thích thể hiện mình theo nhiều cách mà mọi người vẫn thường gọi chung chung là muốn khẳng định cái tôi.
(Xem: 3602)
Sắc thanh hương vị xúc pháp cấu thành thế giới của con người chúng taduyên sanh, vô tự tánh, bất khả đắcvô sở hữu
(Xem: 5131)
Pháp ấn, tiếng Phạn dharma-mudrā, trong đó dharma là pháp, là những lời dạy của Đức Phật, mudrā là dấu ấn, là khuôn dấu, là đặc chất, là tiêu chuẩn.
(Xem: 4154)
Phật giáo cho rằng, mọi việc thành bại, li hợp ở đời đều không nằm ngoài nguyên tắc "nhân duyên quả báo".
(Xem: 3288)
Buông bỏ phiền não, trước hết là để giải tỏa mọi ưu tư, khiến người ta hạnh phúc.
(Xem: 2994)
Có những nhân quảnhân tạo trong đời này nhưng quả có khi phải qua đời sau hoặc những đời sau mới trỗ.
(Xem: 3034)
Sự quán sát, quán chiếu khởi từ danh tướng - danh là hương, là vị; tướng là những tính chất đặc trưng của chúng
(Xem: 3104)
Phật tử, tôi tâm đắc phần thuyết giảng về ái ngữ của Thiền sư Thích Nhất Hạnh
(Xem: 3100)
Ai cũng mong trong cuộc sống có rất nhiều niềm vui và thật ít nỗi buồn.
(Xem: 3471)
Con người bình thường, khỏe mạnh là một thể thống nhất hài hòa giữa hai yếu tố thân và tâm hay thể xác và tinh thần.
(Xem: 3998)
Người khéo tu lúc nào cũng nhớ quay lại mình, nhận ra và sống được với Tâm chân thật, ngoài ra tất cả đều vô thường hư ảo, không cần chú tâm làm gì.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant