Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Nhập Trung Đạo: Con Đường Bồ Tát Tích Hợp Đại BiTrí Tuệ (bài 3)

13 Tháng Ba 201615:35(Xem: 7902)
Nhập Trung Đạo: Con Đường Bồ Tát Tích Hợp Đại Bi Và Trí Tuệ (bài 3)

Nguyệt Xứng (c. 570 - 650) 
NHẬP TRUNG ĐẠO
CON ĐƯỜNG BỒ TÁT TÍCH HỢP ĐẠI BITRÍ TUỆ 
Kết Luận (Bài 3) 

Bản dịch Việt: Đặng Hữu Phúc

Bản Anh: Introduction to the Middle Way. Chandrakirti’s Madhyamakavatara with  Commentary by Jamgon Mipham. Translated by The Padmakara Translation Group (2002). Shambhala, 2004.

Nhập Trung ĐạoCon Đường Bồ Tát Tích Hợp Đại Bi Và Trí Tuệ

 

Phần 1. Nhập Trung Đạo. Chương XI

Tụng  XI. 52

Con đường tu tập này tôi, tỉ khưu Nguyệt Xứng,
Tập hợp từ các kệ tụng giảng dạy Trung Đạo,
Và tôi viết xuống đây một cách chính xác,
Theo kinh văn và các chỉ giáo.

Tụng XI. 53

Chỉ có các kệ tụng về Trung Đạo đề khởi một hành trình
như giáo nghĩa này đã đề khởi.

Giáo pháp được giảng giải nơi đây cũng không tìm thấynơi khác
Kẻ trí và kẻ có học vấn nên thông hiểu rõ ràng điều này.

Tụng XI. 54

Bị kinh sợ do hiển tướng phản chiếu của đại hải trí tuệ siêu việt của ngài Long Thọ
Một số hữu tình tránh né và đứng xa truyền thống tuyệt vời này
Giờ đây, sự khai hiển những kệ tụng này tương tợ cam lộ đến từ sự khai hiển của hoa kumuta dưới ánh trăng
Trong tính đức này các hi vọng của Nguyệt Xứng đã được thể hiện hoàn hảo.

Kệ tụng XI . 55

Kẻ từng an trú với tính như thị sẽ thật chứng tính như thị thâm mật và kinh sợ được giảng nơi đây.
Nhưng các kẻ khác sẽ không thông hiểu, mặc dù họ có tu học
Do vậy, khi nhận thấy các bộ luận khác do người bình thường soạn thảo đề khởi bản ngã
Bạn hãy buông bỏ các vui thích nơi các bộ luận sai lệch với giáo pháp được giảng dạy ở đây.

Kệ tụng XI. 56

Nguyện phúc đức tôi nhận được qua sự giải thích Trung Luận của Đại sư Long Thọ tăng trưởng tất cả các phương tới các biên tế của hư không
Nguyện phúc đức này trong sáng như các ánh sao mùa thu chiếu trên bóng tối chạng vạng của hư vọng nơi tâm tôi .
Và nhận phúc đức vô lượng lợi ích như thế giống như nhận viên ngọc trên đầu con rắn hổ mang của tâm   
Nguyện cho các hữu tình tất cả thế giới thật chứng tính như thị, tiến nhanh tới các địa của chư Thiện Thệ (chư Phật).  

-----

Phần 2: Bản giải thích Nhập Trung Đạo của Nguyệt Xứng

KẾT  LUẬN

I. Kết luận của phần chính văn của bộ luận Nhập Trung Đạo

A.  Bản văn được viết như thế nào

1 Cấu trúc của bản văn

a. Bản văn đặt căn bản trên gì [Tụng 52]

b. Bộ luận, được viết theo phong cách này, tuyệt vời phi thường [Tụng 53]

2. Tại sao bản văn này được viết

a. Mục đích của nó [Tụng 54]

b. Một mệnh lệnh bảo tồn riêng chỉ bộ luận này [Tụng 55]

B. Sự hồi hướng phúc đức do bởi viết bản văn này [Tụng 56]

II. Kết luận về bộ luận

A. Tác giả của bộ luận

B. Dịch giả bản Tạng ngữ

C. Lời cuối cho bản giải thích -- [Mipham Rinpoche viết]

Lời cuối của các nhà biên tập Tây Tạng  

------------------------

Bản giải thích Nhập Trung Đạo của Nguyệt Xứng

KẾT  LUẬN

I. Kết luận của phần chính văn của bộ luận Nhập Trung Đạo

A. Bản văn được viết như thế nào

1. Cấu trúc của bản văn

a. Bản văn đặt căn bản trên gì [Tụng 52]

Tụng  XI. 52

Con đường tu tập này tôi, tỉ khưu Nguyệt Xứng,

Tập hợp từ các kệ tụng giảng dạy Trung Đạo,

Và tôi viết xuống đây một cách chính xác

Theo kinh văn và các chỉ giáo.

*

Bộ luận này, giải thích một cách không sai lạc tri kiến của ngài Long Thọ, được tích hợp từ Trung Luận, Các kệ tụng căn bản về Trung Đạo và các bộ luận Trung Quán khác. Tác phẩm được viết bởi Tỉ khưu Nguyệt Xứng (570-650), ngài viết nó hòa hợp với các bản kinhý nghĩa tối hậu (Kinh liễu nghĩa), cùng với các chỉ giáo tinh yếu thực tế của ngài Long Thọ.

b. Bộ luận, được viết theo phong cách này, tuyệt vời phi thường [Tụng53]

Tụng XI. 53

Chỉ có các kệ tụng về Trung Đạo đề khởi một hành trình

như giáo nghĩa này đã đề khởi.

Giáo pháp được giảng giải nơi đây cũng không tìm thấynơi khác.

Kẻ trí và kẻ có học vấn nên hiểu rõ điều này.

*

Các kẻ hữu học có thể biết chắc chắn rằng ngoài Các tụng căn bản về Trung đạo (Trung luận), giáo pháp đầy đủ và không sai lầm về tính không / chân không diệu hữu thì không được tìm thấy trong các bộ luận khác . Hơn thế nữa, bản văn này từ các tiếp cận khởi đầu không có các đề khởi sự hiện hữu của các hiện tượng “theo tự tính của chúng” trên phương diện tương đối (phương diện thế tục), và sự không đề khởi này cũng không tìm thấy trong các bộ luận khác. Hệ quả là điều này chỉ xuất hiện trong các bản văn Trung quán.

(Furthermore, the approach set forth in the present text, wherein no assertion is made as to the existence of phenomena” according to their own characteristics” on the relative level, is not to be found in other treatises, which consequently have only the appearance of Madhyamika texts)

2. Tại sao bản văn này được viết

a. Mục đích của nó [Tụng54]

Tụng XI. 54

Bị kinh sợ do hiển tướng phản chiếu của đại hải trí tuệ siêu việt của ngài Long Thọ

Một số hữu tình tránh né và đứng xa truyền thống tuyệt vời này

Giờ đây, sự khai hiển những kệ tụng này tương tợ cam lộ từ sự khai hiển nụ hoa kumuta dưới ánh trăng

Trong tính đức này các hi vọng của Nguyệt Xứng đã được thể hiện hoàn hảo.

*

Lo sợ bởi các từ ngữ như “vô sinh”, “tính không” (unborn, emptiness), và v.v…, chúng thì tương tợ màu sắc tối thẫm của vùng nước mênh mông sâu thẳm của trí tuệ của ngài Long Thọ một số người trong quá khứ [các nhà Duy Thức], giống như đám trẻ đang sợ hãi, đã bác bỏ truyền thống tuyệt hảo của ngài và trốn chạy nó. Nhưng giờ đây Các tụng căn bản về Trung Đạo như các nụ hoa kumuta (tương tợ hoa súng /water lily) được thấm nhuận cam lộ của bộ luận Nhập Trung Đạo, đã bừng nở thành những đoá hoa . Như vậy những mong ước của ngài Nguyệt Xứng đều được thực hiện.

Cũng như các trẻ em sợ biển và tránh xa nó, Thế Thân, Trần Na, Hộ Pháp, và các vị khác, sợ hãi ý niệm “vô sinh” (“unborn”),  tính không,  trong các tác phẩm của Long Thọ, và né tránh chúng [Các ngài thật chứng tính không theo phương pháp khác. Chú thích của bản Việt]. Tuy thế, cũng như trong một cái hồ, các hoa kumuta mĩ lệ nở trong ánh sáng trắng trăng tròn, Nguyệt Xứng đã làm cho các nụ hoa kumuta của các bộ luận của ngài Long Thọ nở hoa cho nên giờ đây vùng nước đầy hoa kumuta của hồ nước trí tuệ của ngài Long Thọ có thể làm thoả mãn các hi vọng và các nguyện vọng của các hữu tình.   

Trước đây [khi Nhập Trung Đạo của Nguyệt Xứng chưa xuất hiện], một số người đã xa cách với đại hải trí tuệ của ngài Long Thọ và do thế không thể thọ hưởng được nguồn nước của nó. Nhưng giờ đây, xuyên qua phúc duyên của họ, họ có thể hưởng dụng thành tựu của đại hải nguyện vọng.

Rendawa [Thầy của Tsongkhapa] diễn giải kệ tụng này hàm ý bộ luận của Nguyệt Xứng khai mở chân lí diệu nghĩa thâm mật như là chúng là những nụ hoa kumuta; và chính là do được thấm nhuận với giọt sương tương tợ cam lồ của các chỉ giáo mà Nguyệt Xứng hoàn thành các mong ước của các hữu tình. Các kệ tụng căn bản về Trung Đạo đã sinh khởi từ đại hải trí tuệ của ngài Long Thọ như những nụ hoa kumuta, và những nụ hoa này nay đã nở trong ánh sáng trí tuệ của ngài Nguyệt Xứng. Cam lộ của hai chân lí có trong bộ luận, vốn có tám tính đức [không diệt / sinh / đoạn/ thường / đến / đi / đồng nhất/ dị biệt. ĐHP], đã cung cấp đầy đủ các hi vọng và các mong muốn của tất cả các hữu tình chiếu theo các mong muốn của họ.

b. Một mệnh lệnh bảo tồn riêng chỉ bộ luận này [Tụng 55]

Kệ tụng XI. 55

Kẻ từng an trú với tính như thị sẽ thật chứng tính như thị thâm mật, kinh sợ được giảng nơi đây.

Nhưng các kẻ khác sẽ không thông hiểu, mặc dù họ có tu học

Do vậy, nhận thấy các bộ luận khác do người bình thường soạn thảo đề khởi bản ngã

Bạn hãy không nên vui thích các bộ luận sai lệch với giáo pháp được giảng dạy ở đây.

*

Chân lí thâm mậttối hậu thì được thật chứng chỉ bởi những kẻ sở hữu một lòng mong cầu vững chắcsâu xa đối với nó. Các kẻ khác không thể thật chứng được nó, dù họ có kiến thức sâu rộng do nghiên cứu bản văn. Nó cũng thật là một nguồn sợ hãi cho các kẻ có tâm trí không muốn lắng nghe ý kiến người khác (narrow mind).

Các bộ luận do tâm trí bình thường tưởng tượng viết thành, thì không theo truyền thống trí tuệ của Phật. Thế nên bạn không nên cúi đầu tin tưởng vào các giáo pháp và các vị thầy khẳng định có tự ngã của con người, và thay vào đó bạn nên giữ vững quan điểm đối với bản văn này có nguyên nhân từ ngài Long Thọ.

B. Sự hồi hướng phúc đức do bởi viết bản văn này [Tụng 56]

Kệ tụng XI. 56

Nguyện phúc đức tôi nhận được qua sự giải thích Trung Luận của Đại sư Long Thọ tăng trưởng tất cả các phương tới các biên tế của hư không

Nguyện phúc đức này trong sáng như các ánh sao mùa thu chiếu trên bóng tối chạng vạng của hư vọng của tâm tôi .

Và nhận phúc đức vô lượng lợi ích như thế giống như nhận viên ngọc trên đầu con rắn hổ mang của tâm   

Nguyện cho các hữu tình tất cả thế giới thật chứng tính như thị, tiến nhanh tới các địa của chư Thiện Thệ (chư Phật). 

*

Ở đây ngài Nguyệt Xứng hồi hướng phúc đức hình thành từ bản văn của ngài, và xuyên qua các trích dẫn kinh văn và sử dụng lí luận, ngài giải thích một cách sáng tỏ truyền thống giáo pháp tuyệt vời của ngài Long .  Ngài cầu nguyện rằng nó có thể đi tới mức xa nhất của hư không. Ngài nói, Mong là bầu trời u tối của tâm, bị hành hạ bởi các cảm xúc tiêu cực, trở thành trong sáng giống như các ánh sao mùa thu. Ngài cũng cầu nguyện rằng toàn thể vô lượng vô biên hữu tình có thể thật chứng bản chất thâm mậttối hậu của các hiện tượng, như là họ nhận lấy viên ngọc từ con rắn hổ mang (nói cách khác, tâm này của họ) -- và nhanh chóng đến trạng thái phật.  Ngài Rendawa diễn giải kệ tụng này hàm ý sự hồi hướng các phúc đức toàn diện theo phong cách như thế thì tương tợ như các ngôi sao sáng rực trong bầu trời ban đêm, tâm bị che phủ bởi hư vọng. Và nó như viên ngọc trên đỉnh đầu của con rắn hổ mang, tâm bị bao phủ với tâm niệmhư vọng.    

Nguyện phúc đức tôi nhận được qua sự giải thích Trung Luận của Đại sư Long Thọ tăng trưởng tất cả các phương tới các biên tế của hư không

Nguyện phúc đức này trong sáng như các ánh sao mùa thu chiếu trên bóng tối chạng vạng của hư vọng nơi tâm tôi.

Và nhận phúc đức vô lượng lợi ích như thế giống như nhận viên ngọc trên đầu con rắn hổ mang của tâm   

Nguyện cho các hữu tình tất cả thế giới thật chứng tính như thị, tiến nhanh tới các địa của chư Thiện Thệ (chư Phật). 

II. Kết luận về bộ luận

A. Tác giả của bộ luận

Nhập Trung Đạo giải thích sáng tỏ giáo pháp thâm mật về tính không /chân không diệu hữugiáo pháp vạn hạnh đại bi về các tính đức của đạo lộ và thành quả. Đại sư Nguyệt Xứng viết luận này. Sinh từ miền đất của Phổ Quát, ngài là một vị thầy về tính giác (Vidyadhara) hoàn toàn chăm chú trong chân lí của tối thượng thừa. Ngài không xa cách với trí tuệđại bi, và các đối nghịch không thể tấn công ngài. Ngài thành tựu thiền tịnh chỉ, nhờ đó ngài có thể cung cấp sữa từ tranh vẽ một con bò và do thế xoá bỏ niềm tin cứng cỏi của các hữu tình vào hiện hữu tự tính của các hiện tượng.

B. Dịch giả bản Tạng ngữ

Bản văn này được dịch từ Sanskrit sang Tạng ngữ theo một bản văn Kashmiri bởi Tu viện trưởng Ấn dộ Tilaka Kalasha và dịch giả Tây Tạng tăng sĩ Patsap Nyima Drak, khi cư trú trong Tự viện Viên ngọc ẩn mật (Hidden Jewel Temple) ở trung tâm thành phố “Vượt ngoài sự so sánh” (Anuparna; Beyond Compare)  của xứ Kashsimir, trong thời kì cai trị của vua Shri Aryadeva. Tiếp theo, trong tự viện Rasa Ramoche ( Lhasa), một phiên bản cuối cùng, được tu chính căn cứ vào một bản văn Magadha (bản Ma kiệt đà) bởi tu viện trưởng Ấn độ Kanakavarman và cùng một dịch giả Patsap Nyima Drak.

C. Lời cuối cho bản giải thích -- [Mipham Rinpoche viết]

“Là” và “Không Là”, hai cực đoan, khi chúng được buông bỏ, Trung Đạo hiện ra,

trí tuệ không nhơ nhuốm nhận biết một cách không sai lầm.

Trí tuệ này làm êm dịu các sầu muộn gây nên bởi các tri kiến nhị nguyên.  

Kẻ nói “hiện hữu”, kẻ nói “không hiện hữu”

Trong khi các kẻ khác tuyên bố rằng“Mọi sự vật đều là không gì cả”.

Người ta đi lạc tới bờ này hoặc bờ kia, và mong chờ với sợ hãi như vậy,

Họ giữ một đối tượng khi họ thiền định “một cách phi đối tượng”!

Nhưng khi “Là” và “Không Là” -- các đối tượng được tưởng tượng này -- bị xoá bỏ bởi lí tính của duyên khởi,

Tính xác thực toàn hảo thì đạt được rằng tính không và hiển tướng là đồng thời.

Điều này chỉ được tìm thấy trong truyền thống tuyệt vời của ngài Long Thọ.

Tính thâm mật tuyệt vời này, vua của các tri kiến, được quy kết bởi lí luận,

Có thể làm hoảng sợ các trái tim yếu đuối,

Giờ đây ở đây các giòng suối của trí tuệ của Phật

Tự nhiên tới được các giòng sông của chúng

*

Thế nên tất cả những kẻ khao khát đạo lộ thâm thúy này,

Hãy làm cho chúng thông hiểu, với các phúc duyên có sẵn

Rằng Như thị tính nên được thật chứng.

thông hiểu như vậy, bằng nghiên cứu và chiếu soi,

Chúng sẽ thưởng thức ý nghĩa Như thị tính.

*

Nói chung, bản sơ đồ bản văn chỉ thuần là bản ghi nhận chi tiết,

Nhưng có những điểm diễn tả tinh yếu của bản văn

Bản sơ đồ hiện nay, được khảo sát cẩn thận với tính trí tuệ trong sáng

Sẽ chứng tỏ nó là cao nhất trong tất cả các bản sơ đồ.

*

Kệ tụng quy kết ngắn này được viết trong một một buổi giảng thuyết chi tiết về Nhập Trung Đạo, do Mati [ Jamgon Mipham Rinpoche], một vị thầy  về năm môn khoa học (ngũ minh) và là một thành viên của học viện Dzogchen ở Kham, một nơi mà kinh văn và lí luận vang lên như sư tử hống. Do phúc đức của bản văn, nguyện cho giáo nghĩa về Tinh Yếu Kim Cương của Tính giác Quang Chiếu trải rộng khắp mọi nơi và mọi thời !

Tốt lành

Lời cuối của các nhà biên tập Tây Tạng   

Hệ thống Trung Quán hệ quả là các quy kết tối hậu (ultimate tenet), vì nó  bao hàm ý nghĩa duyên khởitính không, pháp tính tối hậu bất khả tư nghị trong đó không có sự phân chia giữa  hiện tướngtính không. Nhiều kẻ tuyên bố chủ trương tri kiến này nhưng bị  hướng đến lầm lạc bởi vì có  khuynh hướng thói quen mạnh mẽ thấy hai chân lí là dị biệt (to see the two truths as diverging). Thế nên để làm đẹp cái cổ của những kẻ khát vọng tính bình đẳng của tất cả các hiện tượng, ở đây là vòng đeo cổ bằng bảo ngọc mà nó sẽ xoá bỏ sự sa lầy do nắm giữ các lập trường bản thể học cực đoan -- một vòng hoa pha lê trong suốt không tì vết, một bản giải thích đơn giản, hữu hiệu và cao siêu. Nó đã sinh khởi từ đại hải của trí tuệ siêu việt, thâm mậtquảng đại và là một sự lí luận làm an tĩnh tất cả (all-subduing reasoning) mở đầu một hành trình bản lai thanh tịnh của tất cả các hiện tượngcông bố tính không trong tất cả huy hoàng của nó (setting forth the primordial purity of all phenomena and proclaiming emptiness in all its glory). Nó là cờ hiệu của chiến thắng, mà đỉnh cao nhất được trang nghiêm bởi trí tuệ tối hậu của Đức Phật. Nó nên được trao cho những kẻ sẵn sàng nhận các giáo pháp thâm mật. Tuy là tâm trí nhị nguyên, nó sử dụng xác nhận chính xác bởi bằng chứng và sự luận bác để thâm nhập phương diện vượt ngoài nó, nơi mà không có sự vật gì để xác nhận và không có sự vật gì để không thừa nhận, bản chất căn bản của như thị tính là vượt ngoài tất cả các khẳng định. Đây là pháp thân -- sự tịch tĩnh của tất cả các cấu trúc của tưởng, hư không rất ẩn mật của tất cả chư Phật.  Đây là đạo lộ tuyệt vời của các vị thánh, từ bi tạo nên bởi nhiều tính đức tuyệt diệu, có khả năng nhổ hết (khi mà mặt trờimặt trăng vẫn chuyển vận qua bầu trời) các thứ vảy và các cườm làm không thể nhìn , lí luận mà chúng làm cho chúng ta nắm giữ các tướng trạng hiện tượng là thật.  Hướng tới mục đích đó, nguyện cho bản văn thiện hảo này vang lên như diệu âm của một cái trống. Nguyện nó đánh thức tất cả hữu tình thoát khỏi giấc ngủ của vô minh

Trong cách này, kiến lập công trình vô úy của Văn Thù,

Và trong cách này đặt tất cả hữu tình trên Trung Đạo,

An lập Phật thừanhất nhưtối hậu

Nguyện bản giải thích này hoàn thành các ước mong của chư Phật và chư Bồ tát.

Những ghi chú và giải thích này về Nhập Trung Đạo được viết bởi Mipham Rinpoche Jamyang Namgyal, một vị thầy giống như một sư tử của truyền thống Phật giáo, một trí giả về Trung Đạo của Đại Thừa, đã , với sự trợ giúp của Kunzang Pelden (một Tam Tạng pháp sư), kết tập thành một quyển sách bởi Situpa Chokyi Gyamso . Công việc này được hoàn tất theo yêu cầu của Zhechen Dentsap Rinpoche ( Giáo thọ về Giáo nghĩa của Các bản cựu dịch), trong miền đông Tây Tạng, ở Kathog Dorje Den, trong tu viện Norbu’i Lhunpo, nơi các giáo pháp của Phật được giải thích và được tu tập.
Nhờ sự kiện này, nguyện cho tất cả hữu tình có một thực chứng trực tiếp về trí tuệ siêu việt của đấng Tối Thắng.   

--------------------------------------------------------------------

Chú thích của bản dịch Việt

Kệ tụng XI. 54 Chú thích của bản dịch Việt:

Trong Phật tính / Buddha Nature, ngài Di Lặc giảng:

-- Khi mặt trời chiếu sáng rực, các đoá hoa sen và các thứ tương tợ tung cánh nở, nhưng đồng thời các hoa kumuta (một loại hoa súng; water lily) khép cánh một cách hoàn toàn. Mặt trời không biểu lộ bất kì ý nghĩ làm lợi ích hay không làm lợi ích cho sự khai mở hay khép lại của các cánh hoa sinh sống trong nước. Mặt trời của Đức Thế Tôn cũng hành động như thế. (Buddha Nature. The Mahayana Uttaratantra Shastra by Arya Maitreya. Snow Lion Publication, 2000 -  p.67)

Chú thích của bản Việt: Hoa kumuta chỉ nở dưới ánh trăng.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 7521)
Lâu nay nói đến các trường Phật họcNam Bộ, người ta thường nghĩ đến Phật học đường Nam Việt, Sài Gòn... Thích Minh Cảnh
(Xem: 12243)
Tự học tiếng Tây Tạng - Tạng Ngữ Hiện Đại - Losang Thonden, Việt dịch: Konchog Kunzang Tobgyal
(Xem: 143461)
Đại Tạng Việt Nam bao gồm 2372 bộ Kinh, Luật và Luận chữ Hán và tất cả đã kèm Phiên âm Hán Việt...
(Xem: 6929)
Với tinh thần đó, trong khi chuyển ngữ ra tiếng Việt thời nay, việc gỡ bỏ ba chữ đó là hoàn toàn hợp lẽ... Hoằng Quảng
(Xem: 11842)
Nội dung tu học Phật pháp nước ta đại bộ phận đều phát xuất từ các kinh điển Hán dịch... HT Thích Phước Sơn
(Xem: 8589)
Thế giới này là một chuỗi dài nhân duyên nương tựa vào nhau mới bảo tồn sự sống... Thích Đạt Ma Phổ Giác
(Xem: 19833)
Tu Tâm, Dưỡng Tánh, Nhân quả, Tứ diệu đế, Từ bi, Chữ Hòa, Yếu tố hòa bình... HT Thích Thiện Hoa
(Xem: 9240)
Một bản ngã khi muốn có được cái gì từ người khác thường thích đóng vai một nhân vật nào đó để làm cho nhu cầu của nó được đáp ứng... Eckhart Tolle
(Xem: 10784)
Sắc Tức Là Không, Không Tức Là Sắc - Nguyên tác: Cư sĩ Lý Nhất Quang, HT Thích Thắng Hoan dịch Việt ngữ
(Xem: 13518)
Biểu tượng quốc gia của các nước như Thái Lan, Indonesia, và thủ đô Ulan Bator (Mông Cổ) là hình tượng chim thần Garuda... Huỳnh Thanh Bình
(Xem: 11407)
La Sát là từ được phiên âm của Rakshasa/ Raksha (Sanskrit) là một sinh vật thần thoạihình dáng, tính cách của loài người hoặc quỷ thần bất thiện trong Hindu giáo và Phật giáo... Huỳnh Thanh Bình
(Xem: 9323)
Ở xứ ta, sinh vật thần thoại Khẩn Na La, trong kinh văn Phật giáo là một trong “bát bộ chúng”. Trong mỹ thuật cổ, sinh vật thần thoại Kinnara này được giới nghiên cứu gọi là “Tiên nữ đầu người mình chim”... Huỳnh Thanh Bình
(Xem: 14420)
Muốn sáng lại ánh sáng sẵn có, muốn sống lại lẽ sống như thực, Thái-Hư Đại-Sư thâu tóm tinh-hoa Phật-học thành cuốn sách nhỏ nầy... HT Thích Tâm Châu
(Xem: 7250)
Lâu nay mỗi chúng ta theo đạo Phật nhưng có nhiều điểm nghi ngờ, thấy đạo Phật hình như tiêu cực, đa số chùa chiền đều ở trên núi, cách xa thành thị... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 32444)
Vào ngày trăng tròn tháng năm năm 623 trước Tây lịch, một hoàng tử thuộc bộ tộc Thích Ca (1) của Ấn Ðô, tên là Tất Ðạt Ða (Siddhattha) họ Cồ Ðàm (Gotama) đã ra đời... HT Thích Trí Chơn
(Xem: 13079)
Đạo Phật đã chung sống với người dân Việt gần hai mươi thế kỷ, sợi dây liên lạc đã thắt chặt đạo Phật với dân tộc Việt Nam thành một khối bất khả phân ly... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 20927)
Phật giáo Huế là cái nôi của sự giữ gìn truyền thống thống nhất Phật giáo trong cả nước... Thích Hải Ấn
(Xem: 39089)
Trong Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
(Xem: 7112)
Trích dịch từ nguyên tác “A Complete Guide to the Buddhist Path” by Khenchen Konchog Gyaltshen, edited by Khenmo Trinlay Chödrön, Thanh Liên dịch sang Việt ngữ
(Xem: 8933)
Một cơn đau đớn cực độ cũng có thể đưa đến một thể dạng giác ngộ nào đó giúp mình mở rộng tâm thức và con tim hướng vào kẻ khác.
(Xem: 6721)
Tờ nhật báo uy tín Le Monde của Pháp ngày 18/9/2013 đã nêu lên các mưu đồ và tham vọng quốc tế nhằm khai thác thánh địa Phật Giáo Lâm-tì-ni ... Hoang Phong
(Xem: 9716)
Bất nhị là không phải hai hay nhiều, cũng không phải một, mà là vô lượng hay không có số lượng. Số lượng là số đếm chỉ có trong thế giới tương đối, nhị nguyên... Truyền Bình
(Xem: 9435)
Thầy Tuệ Sỹ viết: “Bởi vì con cá dưới lòng sông không làm sao hiểu nổi chuyện kể đầy tính hoang đường của con rùa sau những chuyến du hành trên đất liền..." Đặng Công Hanh
(Xem: 8006)
Cứ một ngàn dải Ngân hà được tính là một tiểu thiên thế giới, một ngàn tiểu thiên thế giới là một trung thiên thế giới, một ngàn trung thiên thế giới là một đại thiên thế giới... Nhụy Nguyên
(Xem: 11738)
Các khoa học gia đã tìm thấy Thiền tập đều đặn có thể thay đổi cơ cấu hoạt độnghệ thống kinh mạch bên trong não bộ... Nguyên tác: Marc Kaufman; Trần Như Mai dịch
(Xem: 16103)
Phật giáo được truyền đến Sri Lanka từ thế kỷ thứ III trước Tây lịch. Và phần lớn thời gian trong suốt hơn 2.000 năm, Phật giáo được xem quốc giáo tại đảo quốc này... Thích Nguyên Lộc
(Xem: 9582)
Chúng tôi hi vọng tập sách nhỏ này sẽ giúp ích phần nào cho sự tu học của đại chúng. Chúng tôi cũng mong mỏi được các bậc cao minh tôn túc chỉ bảo cho những điều sai sót mà chúng tôi biết chắc chắn là không thể nào tránh khỏi được.
(Xem: 12193)
Theo kinh điển, hai truyền thống Nam truyền và Bắc Truyền đều thừa nhận Đức Phật có đầy đủ 32 tướng quý... Thụy Nguyên
(Xem: 8760)
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa đưa người ta đến một sự chuyển hóa toàn triệt và toàn diện cuộc đời sanh tử khổ đau manh mún bởi chia cắt, phân biệt, oán ghét và xung đột của mình bằng cái thấy biết chân thật của Phật... Đương Đạo
(Xem: 15521)
Giáo Khoa Phật Học (3 Tập) Nguyên tác Hán ngữ của PHƯƠNG LUÂN cư sĩ, Cư sĩ HẠNH CƠ dịch và biên soạn bổ túc
(Xem: 7978)
Trong khi xem kinh, nên có con mắt trạch pháp để nhận định những lời nào Phật quyền thuyết, những lời nào Phật thật thuyết, những lời nào là chính yếu, những lời nào là phụ yếu...
(Xem: 17759)
Bài khảo luận này là của tác giả Wendy Woods, sinh quán Toronto, Canada, chủ nhân của Watershed Training Solutions, một công ty do bà sáng lập vào năm 2003... Tâm Huy Huỳnh Kim Quang
(Xem: 8621)
Lương Vũ Đế, tự Tiêu Diễn, lên ngôi vào năm 37 tuổi, tại vị 49 năm, thọ 86 tuổi. Là vị vua sáng lập nên triều đại nhà Lương (502-556) trong giai đoạn Nam Bắc triều (420-589) của Trung Hoa.
(Xem: 8262)
“Nghiệp” là một danh từ triết học Ấn Độ có trước khi Đức Thích Ca xuất hiện. Ý nghĩa cơ bản của nó là “hành động” hoặc “thói quen”... Nguyễn Xuân Chiến
(Xem: 10487)
Nguyệt San Phật Giáo Việt Nam - Do Tổng hội Phật Giáo Việt Nam xuất bản năm 1956
(Xem: 15797)
Kỷ Yếu Về Cội - Là tư liệu quý giá về các Phật Học Viện Trung Phần: Báo Quốc, Phổ Đà, Hải Đức, Linh Sơn, Quảng Hương...
(Xem: 17465)
Danh từ tên gọi của Thủ Lư theo sách Trung Hoa Phật Quang Văn Hóa Thiên Phật Giáo Dụng Ngữ chép: "Thủ lư là lư hương cầm ở trên tay, còn gọi là Bỉnh hương lư, Thủ lư, Đề lư... Thích Tâm Mãn
(Xem: 7887)
Đại chúng bộbộ phái được xem là tiền thân của Phật giáo Đại thừa hoặc là bộ phái đóng góp nhiều trong lịch sử phát triển Phật giáo Đại thừa tại Ấn Độ... Thích Nguyên Lộc
(Xem: 12948)
Có lần Đấng Thế Tôn ngụ tại vùng của bộ tộc Thích-ca (Sakka) tại thành Ca-tì-la-vệ (Kapilavatthu) trong khu vườn Ni-câu-đà (Nigrodha).
(Xem: 7988)
Phật dạy 20 điều khó không mang một sắc thái bi quan hay chán chường, mà nhằm chỉ dạy chúng ta phải ý thức rằng sự sống này phải nương nhờ lẫn nhau mới bảo tồn mạng sống trên nền tảng của nhân quả... Thích Đạt Ma Phổ Giác
(Xem: 8561)
Đạo Phậtcon đường dẫn đến an vui giải thoát. Đức Phật là bậc đạo sư, là người dẫn đường chứ không phải là vị thần linh có quyền ban phước giáng họa cho ai... Hoàng Nguyên
(Xem: 9729)
Tam Nguyệt San Hải Triều Âm - Cơ quan phát khởi nền quốc học, Phật học, và Văn hóa Việt Nam do Tổng Vụ Văn Hóa GHPGVNTN chủ trương từ 1973 đến 1975
(Xem: 10309)
Mục đích duy nhấtcuối cùng của con đường học Phật, tu Phật chính là thoát khỏi sinh tử. Trên đường đi tới điểm đích ấy, nền tảng chủ yếu hướng dẫn người tu Phật xuất gia lẫn tại gia không bị lạc lối được xem là sự nghiệp trí tuệ... Đoàn Ánh Loan
(Xem: 23172)
Giới luậtsinh mệnh, là sự sống của Phật tử, nhất là của hàng Tỳ kheo thừa Như lai sứ, hành Như lai sự... HT Thích Trí Thủ
(Xem: 19292)
Ba học Giới, Định, Tuệ là những nhân tố then chốt nhất của người học Phật, như chiếc đỉnh ba chân, thiếu một tất không thể đứng vững. Nhưng giới học, hay là giới luật học, lại là căn bản nhất... HT Thích Thanh Kiểm
(Xem: 10004)
Tuần San Đuốc Tuệ 1965 - Cơ Quan Phát huy tinh thần Phật Giáo, Khai triển văn hóa dân tộc - Miền Vĩnh Nghiêm trong GHPGVNTN 1965
(Xem: 8201)
Đặc San Hoằng Pháp Dharmaduta - Cơ Quan Truyền Bá Chánh Pháp Của GHPGVNTN 1973
(Xem: 24125)
Từ Điển Pháp Số Tam Tạng - Nguyên tác: Pháp sư Thích Nhất Như, Cư sĩ Lê Hồng Sơn dịch
(Xem: 8807)
Thế Thân, tác giả của bộ luận này vốn là một khai sĩ có quá nhiều truyền thuyết và ít nhiều sương khói trùm lên tiểu sử của ngài, đến nỗi cho đến nay, các học giả cũng chưa xác định được Thế Thân là ai.
(Xem: 8419)
Có thể nói rằng quan điểm bình đẳng về khả năng giải thoát tâm linh do Đức Phật đưa ra có một ý nghĩa cách mạng xã hội đáng kể...
(Xem: 7959)
Những hố thẳm triết lý mà Phạm Công Thiện nhắc tới là những hố thẳm tuyệt vọng của triết lý Tây Phương khi chưa tìm ra ngỏ thoát... Quán Như
(Xem: 17710)
Đức Phật nêu lên tánh không như là một thể dạng tối thượng của tâm thức không có gì vượt hơn được và xem đấy như là một phương tiện mang lại sự giải thoát... Hoang Phong dịch
(Xem: 9458)
Hãy hướng tâm vào bên trong và cố gắng tìm niềm vui ở bên trong. Chỉ khi tâm đã được kiềm chế và dẫn dắt đúng hướng thì nó mới có ích cho chủ của nó và xã hội.
(Xem: 8171)
Lôgic học Phật giáo được hình thành trước logic học Aristote gần hai trăm năm. Hệ thống lôgic của Phật giáo "thực tế" hơn và mang một chủ đích hay ứng dụng rõ rệt hơn... Hoang Phong
(Xem: 24289)
Lược Sử Phật Giáo Trung Quốc (Từ thế kỷ thứ I sau CN đến thế kỷ thứ X) - Tác giả Viên Trí
(Xem: 24604)
Năm 623 trước Dương lịch, vào ngày trăng tròn tháng năm, tức ngày rằm tháng tư Âm lịch, tại vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini) xứ Ấn Độ...
(Xem: 8376)
Triết học Trung quán kêu gọi sự chú ý của chúng ta, như một hệ thống đã tạo nên cuộc cách mạng trong đạo Phật và qua đó, toàn lĩnh vực triết học Ấn Độ.
(Xem: 8198)
Giới Thiệu Tóm Tắt Về Bộ Trung Quán Trong Tạng Luận Theo Đại Tạng Kinh Đại Chánh Tân Tu ... Đào Nguyên
(Xem: 7793)
Thưa Đại Vương, những người, có được tài sản lớn, mà không bị chúng làm say đắm... rất hiếm hoi trên đời này... Diệu Liên Lý Thu Linh
(Xem: 7822)
Bạo lực, khủng bố đã xảy ra dưới nhiều hình thức khác nhau trong những trường hợp khác nhau có liên quan đến cuộc đời của đức Phật... Thích Huệ Pháp dịch
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant