Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Thấy Pháp Tức Thấy Như Lai

18 Tháng Ba 201614:52(Xem: 8407)
Thấy Pháp Tức Thấy Như Lai

THẤY PHÁP TỨC THẤY NHƯ LAI

 Mãn Tự    

Thấy Pháp Tức Thấy Như Lai

       

         Trong hai hệ kinh điển Đạo Giác Ngộ mà người tu học đang thực hành theo: một là Nguyên Thủy, một là Đại Thừa; tuy nhiên dù là Đại Thừa hay Nguyên Thủy thì trong chúng ta ai cũng có niềm tin không lay động rằng: đó là những lời của Đấng Giác Ngộ Chánh Đẳng Chánh Giác Thế Tôn Như Lai để lại mà hiện giờ chúng ta gọi là Pháp.

        Tất cả tôn giáo trên hành tinh này, căn bản truyết thuyết giáo lý đều hướng ngoại giới, nên các vị Giáo Chủ dạy tín đồ thực hành tu tập theo để đến được các cõi hay cao hơn nữa là được hòa nhập vào một Đấng nào đó mà vị Giáo Chủ tưởng tượng ra… Thí dụ như Lão Giáo của Trung Hoa thì hòa vào cùng “Đạo”, còn Ấn Giáo thì tiểu ngã nhập vào Đại Ngã, Phạm Thiên, Tự Tại Thiên… Hay Thiên Chúa Giáo thì được về hầu bên Chúa, Thượng Đế, God… Chỉ có Đấng Đại Giác nói rằng “Thấy ‘Pháp’ tức thấy Như Lai”. Như Lai là một trong mười danh hiệu của Thế Tôn. Vậy thế nào là “Pháp” và tu học như thế nào để “thấy Pháp”.

        Các bộ kinh chúng tahiện giờ ‘NIKAYA’ thì gồm có: Tiểu A Hàm, Trung A HàmTrường A Hàm riêng của Nguyên Thủy; cộng thêm mười hai bộ kinh Phương Quảng Đại Thừa. Trường phái Nguyên Thủy thì không chấp nhận kinh Phương Quảng, còn Đại Thừa thì Phương Quảng hay NIKAYA cũng không có gì khác biệt. Tuy nhiên, một nghi tình to lớn đặt ra ở đây là! “Tất cả văn tự trong hai hệ kinh điển có phải là “Pháp” hay không? Nếu là “Pháp” thì những vị làu thông kinh điển tức đã thấy Như Lai? Còn nếu nói không phải “Pháp” tức mang nghiệp phỉ báng kinh.

        “Pháp” là một từ ngữ mà nghĩa thì vô cùng thâm diệu rất dễ lầm lẫn giữa cái thực và giả, giữa phương tiệncứu cánh, giữa cái hiện hữu và phi hiện hữu, nói chung là giữa hai mặt. Nói hai mặt là sự nhận thức lầm lẫn của nhân gian, nhận thức lầm lẫn như thế nào? Thí dụ câu công án “Khi chưa sinh ra ta là gì?”, với vị Giác Ngộ thì câu trả lời là “Chưa từng khác”. Tuy nhiên với nhận thức thì nó lại hiểu rằng “Chưa từng khác là giống”. Thật ra chưa từng khác thì chẳng liên quan gì tới chữ “giống” hết. Tự tánh hiểu biết của nhận thức là do đối đãi mà có, vì vậy những lời lẽ trong kinh mà hiểu theo nhận thức thì tức là từ ngữ, câu văn và nghĩa của đối đãi. Trí thức phát sinh hiểu “Pháp” theo nghĩa đối đãi tức phàm nhân, ngoại đạo, nhị thừacho đến Bồ Tát đệ thất Viễn Hành Địa.

        Cảnh giới người không- ta không, phi thiện ác, Liễu sanh tử thật không thể nào diễn tả bằng ngôn ngữ dù người đó có biện tài như thế nào đi nữa cũng không làm cho người nghe thâm nhập vào được, mà chỉ khiến cho sự hiểu càng thêm vạy vọ mà thôi; cũng như đem màu sắc để nói với người khiếm thị khi mới sinh ra.

        Người không- ta không là cảnh giới tâm tịch tịnh, là thậm thâm tịch tịnh, là vi diệu tâm, là Mâu Ni. Tuy nhiên để viên thành Bồ Đề Chánh Đẳng Chánh Giác thì phải học Bồ Tát Hạnh cho đến khi Tâm thấy hai vô ngã, dứt hai chướng phiền nãosở tri lìa hai sanh tử phần đoạn và biến dịch, dứt hai chủng tử vô minh và ái nghiệp… đó là tri giác của Bậc Chánh Đẳng Giác. Trong các bộ kinh Phương Quảng thường có lời nguyện của các đại Bồ Tát như vầy: “Tất cả chúng sinh trong pháp giới, dù là sắc hay phi sắc, nếu còn một chúng sinh chưa được độ thì Tôi không lấy ngôi Vô Thượng Bồ Đề Chánh Đẳng Chánh Giác”. Thật ra Vô Thượng Bồ Đề không phải lấy hay không lấy, mà khi viên mãn Bồ Tát Hạnh thấy người không- ta không thì đó là Vô Thượng Bồ Đề, cũng như hết phiền não tức Niết bàn, thấy phiền não tức trí tuệ vậy.

        Người không- ta không, phi thiện ác, liễu sanh tửcảnh giới Vô Thượng Bồ Đề; vì vậy nếu nói rằng Đức Thế Tôn Như Laithuyết pháp để lại cho chúng sinh thì mắc ba lỗi. Thứ nhất! Nếu Thế Tôn Như Lai mà có thuyết pháp để lại cho chúng sinh mà bây giờ gọi là Phật Pháp thì Thế Tôn không phải Chánh Đẳng Chánh Giác vì còn ‘Ta’-‘Người’, có Ta thuyết pháp có Người thọ pháp. Thứ hai! Thuộc chủng tánh định kiến chỉ nhận âm thanh sắc tướng mà thôi. Thứ ba! Học vô ngã- vô nhân nhưng không học Bồ Tát Hạnh, chỉ biết được cái lý thô thiển nên không thâm nhập vào thật tướng người không- ta không.

         Như trên đã nói, nếu quyết định rằng Đức Thế Tônthuyết pháp có người nhận pháp là phỉ báng Chánh Đẳng Chánh Giác; còn lại cho rằng tất cả kinh điển từ Phương Quảng cho đến NIKAYA đều không phải là của Đức Thế Tôn thuyết thì phỉ báng Kinh. Vậy phải tu học như thế nào để không bị phỉ báng Chánh Đẳng Chánh Giác cùng Kinh điển.

        Bài kệ trong kinh Kim Cang “Lấy âm thanh sắc tướng để cầu thấy Như Lai, đó là sai đường, không thấy Như Lai thật”. Vậy phải tu học như thế nào để thấy Như Lai thật, mà muốn thấy thật Như Lai thì phải thấy Pháp, vậy gì gọi là Pháp và học Pháp ở đâu?

        Pháp là bao gồm những gì trong vũ trụ từ hữu hình cho đến vô hình, từ có tâm cho đến không tâm, từ có tướng cho đến không tướng…v.v. nói chung đều gọi là Pháp. Nếu nhận biết Pháp đó bằng sáu giác quan thì gọi là “Sở tri”, Pháp sở trihai mặt là “hữu vi- vô vi”. Hữu vi pháp là còn ô nhiễmtri thức hiểu biết của thế gian. Còn vô vi là đã thanh tịnh, là Pháp của các vị Thánh, là đã dày công tu tập loại trừ ô nhiễm, tuy nhiên cả hai đều còn trong vòng đối đãi nên không thể nào thấy “Thật Pháp” được.

        “Thật Pháp” thật ra cũng không ngoài Pháp hữu vi- vô vi, có tâm- không tâm, hữu hình- vô hình, ô nhiễm- thanh tịnh… Nói chung những gì trong Pháp giới từ vô lượng thời gian quá khứ, cho đến vô lượng thời gian vị lai và ngay trong hiện tại cũng là Thật Pháp là Như. Thật Pháp Như đó không thể lấy hay bỏ, không ô nhiễm cũng không thanh tịnh, không thể tu học hay không tu học mà được. Thật Pháp Như đó luôn luôn hiển hiện chưa bao giờ ẩn dấu. Nó không trẻ không già, không lớn không nhỏ, không đến không đi, không củ không mới, không nhất nguyên không nhị nguyên, không tâm không vật, không đối đãi…

        Thật Pháp đã là như vậy thì tại sao từ xưa đến giờ không có mấy người “Thấy biết”. Thật ra không một chúng sinh nào không thấy không biết, vì “chúng sinh chính là Thật Pháp là Như”. Trong kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa, khi Đức Như Lai giảng về Đại Như, Ngài Tu Bồ Đề nương thần lực của Như Lai ngộ ra liền trong Pháp hội đứng lên thưa bạch với Đức Thế Tôn rằng: “Bạch Thế Tôn theo lời giảng của Thế Tôn về Đại Như, con thấy ra rằng: Như Lai Như cùng Tu Bồ Đề Như không hai không khác”. Đức Thế Tôn tán thán rằng: Đúng vậy- Đúng vậy, lại này Tu Bồ Đề, bây giờ Như Lai hỏi Ông tùy theo thấy biết của Ông mà trả lời. Ông thấy rằng: “Như Lai Như cùng Tu Bồ Đề Như không hai không khác; vậy tất cả chúng sinh thì như thế nào”. Ngài Tu Bồ Đề bạch rằng: “Thưa Thế Tôn, Như Lai Như- Tu Bồ Đề Như cùng tất cả chúng sinh Như cũng không hai không khác”.

        Vậy thấy Pháp tức thấy Như Lai thì phải học như thế nào; trong kinh Kim Cang: “Đừng vướng vào dù là nhất thiết pháp đó là Chân Tâm”. Nhất thiết pháp là: Sắc- Thanh- Hương- Vị- Xúc và Pháp. Tuy sáu mà một, tuy một mà sáu vì chưa từng rời nhau; trong sắc thì luôn luôn có thanh hương vị xúc pháp, trong pháp thì cũng có luôn sắc thanh hương vị xúc; còn ba cái hương vị xúc cũng vậy.

        Vướng vào mà không nhận ra như thế nào? Đây là cảnh giới sắp khai mở thật trí thấy chân tâm, tuy nhiên không dễ vượt qua được; ở đây gồm có ba bậc: Thứ nhất là các vị ngoại đạo, tiên nhântrí tuệđịnh lực thâm sâu; Thứ hai là Thinh văn đệ tử của Đức Thế Tôn đã chứng đắc Tứ Thánh đế; Thứ ba là Duyên Giác đã chứng đắc Thập nhị nhân duyên. Ba bậc này vướng vào mà không nhận ra, vì vậy không thấy thật Pháp, mà không thấy thật Pháp thì không thấy Như Lai.

        Thứ nhất! Vì sao các vị ngoại đạo tiên nhântrí tuệđịnh lực thâm sâu mà không nhận ra mình vướng vào? Thế giới Ta bà mà ta đang sống đây là cõi ngũ trược; đó là Kiến trược, kiếp trược, phiền não trược, mạng trượcchúng sanh trược. Vì vậy khi chúng sinh xuất hiệncõi Ta bà thì cũng không ngoài ngũ trược mà có. Tuy nhiên, cõi ngũ trược là đồng mà ngũ trược của chúng sinh là dị; thí dụ như chén, dĩa, nồi, ấm, bình … tuy tên khác nhau nhưng tựu trung cũng làm ra từ đất. Ngũ trược của chúng sinh là: Sắc- thọ- tưởng- hành và thức.

        Cõi nước và chúng sinh tuy thấy dị mà đồng, do đó sắc của chúng sinh thì đồng với kiến trược của cõi nước, thọ thì đồng với kiếp trược, tưởng thì đồng với phiền não trược, hành thì đồng với mạng trược và thức thì đồng với chúng sinh trược của cõi nước. Các vị ngoại đạo tiên nhântrí tuệđịnh lực thâm sâu, còn có cả ngũ thần thông nên các vị đó vượt qua được kiến trược, kiếp trược, phiền não trược của cõi nước, tức là tương ưng với sắc- thọ- tưởng của chúng sinh, còn hai trược sau cùng của cõi nước là mạng trượcchúng sinh trược tức tương ưng với hành và thức của chúng sinh thì không thể đi qua, vì hai trược đó vô cùng thậm thâm vi diệu, tất cả học thuyết Vệ đà cũng từ đó mà phát sinh. Các hành giả đi đến đó bị ‘vướng’ vào mà không biết, cứ nghĩ là đã đến tột cùng và đã chứng nhất thiết trí.

        Hành và Thức thời đại bây giờ nôm na giống như phần mềm và phần cứng của máy tính. Tích chứa vận hành bên trong gọi là hành, hiển hiện ra ngoài cho sáu quan năng nhận biết thì là thức. Các vị ngoại đạo tiên nhân tu hànhđịnh lực thâm sâu nên phiền não không hiện hành, thức phân biệt đi vào vi tế nhỏ nhiệm. Trong định lực đó các hành giả vượt qua nhiều cảnh giới thấy được nhiều cõi thượng diệu. Cũng trong định lực đó hành giả khởi tâm muốn tìm hiểu tận cùng sự vận hành của mạng trược, do sự phân biệt nên bị lạc vào cảnh giới Thần Ngã hay Đại Ngã hay mười triết thuyếtThế Tôn phân tích chỉ dạy trong kinh Lăng Nghiêm.

        Còn chúng sinh trược tức thứa uẩn cũng vậy, các vị đó chỉ loay hoay trong thức thứ bảy tức mạt-na thức trông lên thức thứ tám là A-lại-da lấy đó làm cứu cánh rồi tự cho mình chứng đắc này nọ…v.v. Tu hành đến cảnh giới đó thì đã siêu việt nhân gianthậm thâm thiền định đã gần thấy được Thật Pháp. Kinh Lăng Nghiêm- Đức Thế Tôn tán thán cảnh giới các vị này giống như trời hừng đông chỉ cần một thời gian ngắn nữa thôi là mặt trời tỏa sáng. Năm mươi uẩn ma Đức Thế Tôn chỉ dạy tận tường trong kinh Lăng Nghiêm để chỉ rõ những hành giảthiền định thâm sâu rất dễ “vướng vào” mà không biết.

        Những cảnh giới Hành-Thức đối với nhân gian thật ra khó thể luận bàn đến được, tuy nhiên để thấy được “Thật Pháp” thì không thể nào. Có ba nguyên nhân chính làm chư hành giả không thấy được “Thật Pháp”. Thứ nhất! vì trầm mê trong thiền định; Thứ hai! tự cho mình chứng đắc; Thứ ba! Không có động lưc.

        Thứ nhất! vì sao sự thấy biết trong thậm thâm thiền định không là “Thật Pháp”. Vì còn có định, mà có định thì có loạn. “Thật Pháp” không tạo tác, không làm ra, không định không loạn… là Như Như vì vậy dù có định lực thiền định thậm thâm như thế nào đi nữa cũng không làm sao thấy được. Câu “Cái thanh tịnh bản nhiên vì sao thoắt sanh sơn hà đại địa” của ngài Phú Lâu Na vấn Đức Thế Tôn trong kinh Lăng Nghiêm nói lên điều đó.

        Thứ hai! nghĩ mình chứng đắc. Vì định lực thâm sâu nên tâm phát ra ánh sáng; rồi theo đó lý giải ra nhiều cảnh giới, ra nhiều luận giải, nhiều triết thuyết… rồi tự mình vướng vào những thứ đó như tầm nhã kén tự bọc lấy mình mà không biết; rồi tự mình cho chứng đắc này nọ.

        Thứ ba! Không có động lực. Sự tu hành của các vị đó là cầu đến các cõi, mong muốn hơn người, được sự thù thắng, mong cầu giải thoát cho tự thân, hay có thần thông để mọi người thán phục… Vì cái tâm nhỏ nhoi như vậy nên không làm sao dung chứa được Thật Pháp. “Thật Pháp” thì không đóng khung, không ở nơi này hay nơi khác mà luôn luôn thường hằng, dù là như vậy thì phải có tâm tương ưng mới nhận ra được; bằng không thì cũng như con ếch ở đấy giếng thấy bầu trời không hơn không kém.

        Thế nào là động lực! Đó là Bồ Tát Hạnh; nếu không học Bồ Tát Hạnh, không lấy sự giải thoát- giác ngộ cho chúng sinh làm cứu cánh, không lấy Từ- Bi- Hỷ- Xả làm hành trang, không lấy Bi- Trí- Dũng làm chỉ đạo… thì dù có công phu trong hằng hà sa số kiếp, có thiền địnhthâm sâu đến cỡ nào đi nữa… cũng đừng mong thấy được “Thật Pháp”. Tại sao vậy! Thật Pháp thì không có chung, cũng không có riêng, nên các hành giả chỉ tu riêng cho tự thân thì vĩnh viễn không bao giờ thấy được. Cũng giống như cái lổ của con mọt thì không làm sao dung chứa được quả địa cầu. Quả địa cầu thí dụ cho Thật Pháp, còn các hành giả tu cho tự thân thì ví như cái lổ con mọt. Thật Pháp không phân biệt, luôn luôn bình đẳng; tuy nhiên vì tâm quá nhỏ nên không thể dung chứa, hay Thật Pháp là biển cả, còn tu cho tự thân ví như một giọt nước.

        Các vị Bồ Tát phát tâm tu Bồ Tát Hạnh từ Sơ phát tâm lần lần tiến lên cho đến đệ Thất Viễn Hành Địa, trong thời gian đó hành giả đã vượt qua không biết bao nhiêu gian nan thử thách, bao nhiêu ma chướng cản ngăn, phải từ bỏ phải hy sinh từ bên trong cho đến bên ngoài, đã thuần thục thân tâm, đã trui rèn ý chí vững chắc, đã đủ dũng lực đi về phía trước không còn lui sụt… Tuy là vậy mà khi thấy Thật Pháp tức đệ bát Bất Động Địa thì phải nhờ đến thần lực của Như Lai gia trì mới nhận nổi, còn không chỉ đứng đó hay lại rớt vào nhị thừa mà thôi.

        Tại sao vậy? vì Thật Pháp là: Một tức tất cả, tất cả tức một; khi một Pháp đưa lên thì tất cả đều lên, nó bao hàm tiền tế- hậu tế, vô thủy vô chung luôn cả Pháp giới không có vật nào đi ra ngoài nó. Một như vậy, tất cả Pháp cũng như vậy. Thiền Tông Trung Hoa lấy câu chuyện Đức Thế Tôn đưa cành hoa lên Ngài Ca Diếp mỉm cười là vậy. Hay như khoa học bây giờ nói vật chất bị hút vào lỗ đen thì dù chỉ một hạt bụi thôi thì sức nặng của nó cũng không thể nào cân lường; hay trong kinh Đại Bảo Tích ngài Mục Kiền Liên vận dụng như ý thần thông bay đi vô lượng vô biên thế giới, dù như vậy ngài cũng không thể nào nhận ra được âm thanh Đức Như Lai vang đến bao xa. Vì sao? Với Đức Như Lai khi “Một âm thanh khởi lên tất âm thanh đều khởi”; hay thân tướng Như Lai cũng không thể đo lường, vì với Như Lai khi một sắc khởi lên thì tất cả sắc đều khởi. Trong kinh Hoa Nghiêm nói về hồ A-Nậu-Đạt hay ví dụ lưới đế châu là nói về cảnh giới Thật Pháp này.

        Đó là vì nguyên nhân vì sao các vị Tiên nhân ngoại đạo, A-La-Hán, Bích chi Phật vì tu cho tự thân nên không thể nào thấy Đức Như Lai.

        Thứ hai! Các vị Thinh văn đệ tử Thế Tôn đã vào dòng Thánh, đã chứng đắc Tứ Thánh Đế, đã thấy được lý người không- ta không, tuy nhiên vẫn còn có Pháp nên không thấy Như Lai.

        Thứ ba! Độc Giác Phật đã chứng không người- không ta, đã vượt qua thập nhị nhân duyên, tuy nhiênkhông chấp Pháp nên cũng không thấy Như Lai – Thật Pháp.

        Vậy Pháp Đức Như Lai phải nhận chân như thế nào để không bị phỉ bang kinh điển. Thí dụ! có một căn phòng rộng lớn người ta đặt ở đó một cây đàn dương cầm, rồi sau đó có ba người vào đánh đàn, người thứ nhất chỉtrình độ căn bản, người thứ hai trình độ trung cấp, người thứ ba thuộc loại siêu hạng. Khi người thứ nhất đánh đàn thì người nghe nghĩ rằng âm thanh của cây đàn không có gì đặc biệt; rồi đến người thứ hai đánh đàn thì người nghe lại nghĩ rằng âm thanh của cây đàn đâu có dỡ; và sau cùng người thứ ba đánh đàn thì mọi người nghe say mê không còn bình phẩm âm thanh của cây đàn là dỡ hay là hay nữa. Cũng vậy! Đức Như Lai Chánh Đẳng Chánh Giác với tâm bình đẳng vô phân biệt, Ngài không tâm so đo với chúng sinh này ta cho ít, với chúng sinh kia ta cho nhiều, còn những chúng sinh tôn kính cúng dường hay đệ tử theo ta thì được cho nhiều hơn nữa.

        Đức Thế Tôn Như Lai tuyệt đối không có một Pháp nào để thuyết, nếu có thuyết pháp thì Ngài không phải Chánh Đẳng Chánh Giác; mà đó là sự áp đặt bắt người khác phải học theo mình. Vì vậy những âm thanh phát ra, đó là tưng xứng đúng với tâm lượng mỗi chúng sinh, vì tùy theo trình độ như thế nào thì được phản hồi như thế đó. Đức Như Lai như cây đàn mà âm thanh phát ra là phản ảnh trình độ của chúng sinh, trình độ như thế nào thì nhận lại âm thanh đúng như thế đó. Thấy được như vậy tức thấy Thật Pháp cũng thấy Như Lai.

        Trong bài này không dùng chữ “Trụ” trong “Ưng vô sở trụ” mà thay vào đó là chữ “Vướng”. Nguyên nhân vì một bài pháp trong kinh, đó là câu chuyện Đức Thế Tôn luận pháp với vị Trường Trảo Phạm Chí; buổi luận pháp được chứng kiến bởi vua, quan, đại thần cùng nhiều bậc thông thái, và vật đặt cược của vị Trường Trảo Phạm Chí chính là thủ cấp của mình nếu bị thua, còn nếu Thế Tôn thua thì không được xưng là Nhất Thiết Trí nữa. Câu vấn pháp của vị Phạm Chí cho Đức Thế Tôn là: “Tất cả pháp tôi đều không thọ Cù Đàm nói như thế nào”. Đức Thế Tôn hỏi lại rằng: “Cái không thọ đó ông có thọ hay không?”. Vì câu trả lời đó vị Phạm Chí đầu phục Thế Tôn và xin làm đệ tử.

        Đem câu “Cái không thọ đó ông có thọ hay không” để so sánh với câu “Ưng vô sở trụ” được trì tụng tán dương ca ngợi lên chín tầng mây thì có gì không đúng lắm khi đặt câu hỏi “Cái vô sở trụ đó có trụ hay không?”.

 

 Mãn Tự    

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 7049)
Kinh điển của Ta nói nhiều vô lượng nghìn muôn ức, đã nói, hiện nói, sẽ nói… mà ở trong đó Pháp Hoa rất là khó tin, khó hiểu. Xa kín nhiệm sâu.
(Xem: 7296)
"Có bốn loại an lạc, nầy gia chủ, người gia chủ thọ hưởng các dục thâu hoạch được, tùy thời gian, tùy thời cơ khởi lên cho vị ấy. Thế nào là bốn ?
(Xem: 6936)
Trong bài viết này sẽ giới thiệu bảy loại vợ khác theo tinh thần Abidharma và các văn bản hệ Luật tạng hiện có trong Đại Tạng Kinh, đối chiếu với mười loại vợ theo Luật Tạng Bí-sô của văn điển Pāli và...
(Xem: 9299)
Ngài Huệ Năng (638-713) là một bậc cao Tăng của thiền lâm Đông Độ. Cuộc đời cũng như tư tưởng của ngài là nguồn chất liệu và xúc cảm thiêng liêng để hình thành nên...
(Xem: 5800)
Cái thái dương hệ, tinh hà vũ trụ kia, hợp rồi tan, tan rồi hợp. Tất cả cái này tạo thành quy luật của tồn tại, ảnh hưởng đến đời sống và địa cầu này.
(Xem: 7056)
Nói đến tái sinh, thường chúng ta nghĩ đến một thọ sinh mới. Một con người vừa chết và được tái sinh lại dưới các hình thức Trời, Ngườ,i Atula hay Súc sinhNgạ quỷ.
(Xem: 6478)
Mặc mũ giáp là tu hành Ba Thân: Pháp thân tánh Không, Báo thân ánh sáng các pháp, và Hóa thân như huyễn. Tu hành là dùng Chỉ Quán để...
(Xem: 6056)
Bát Chánh Đạo chính là con đường giúp ta thanh lọc tư tưởng, chuyển hóa tâm phiền muộn, khổ đau thành an lạc, hạnh phúc.
(Xem: 7120)
Trong cuộc sống, con người luôn chuẩn bị tâm thế để đối mặt với khổ đau. Khi khổ đau đến, hoặc chúng ta phải chịu đựng và quỵ ngã, hoặc...
(Xem: 14307)
TĂNG GIÀ THỜI ĐỨC PHẬT Thích Chơn Thiện Nhà xuất bản Phương Đông
(Xem: 20328)
Người học Phật có được một tài liệu đầy đủ, chính xác, đáng tin cậy, dễ đọc, dễ hiểu, dễ nhớ và dễ tra cứu khi cần...
(Xem: 9436)
Ngày nay nếu chúng ta có dịp đọc lại trong kinh tạng, sẽ thấy có rất nhiều tư liệu nói về Bồ-tát Quán Thế Âm.
(Xem: 7817)
Luận Hiển dương Thánh giáo 顯揚聖教論, tiếng Phạn là Ārya-śāsana-prakaraṇa-śāstra hay Prakaranaryavaca-sastra (Acclamation of the Scriptural Teaching/ Treatise of Acclamation of the Sagely Teaching),,,
(Xem: 8156)
Bát chánh đạo’ hay Tám con đường cao quý (八正道 - āryāstāngika-mārga/còn được gọi là "Trung Đạo") là một trong những nền tảng của toàn bộ lời dạy của Đức Phật.
(Xem: 7398)
Pháp ấn, tiếng Phạn dharma-mudrā, trong đó dharma là pháp, là những lời dạy của Đức Phật, và mudrā là dấu ấn, là khuôn dấu, là đặc chất, là tiêu chuẩn.
(Xem: 9332)
Khái niệm về Niết bàn (Nirvana) đã xuất hiện hơn 2500 năm. Xuyên qua nhiều thế kỷ, biết bao học giảtriết gia đã cố gắng để...
(Xem: 7417)
Nếu mỗi sự-vật là chẳng có tự tính, không cái gì có thể sinh hoặc diệt, vậy thì từ hoàn toàn đoạn trừ hoặc diệt tận cái gì mà kết quả là niết bàn?
(Xem: 7432)
Hai pháp có thể hiểu biết phải được thông suốt: danh và sắc; hai pháp có thể hiểu biết phải được tận diệt: vô minhái dục; hai pháp có thể ...
(Xem: 7629)
Giải thoát hay tánh Không thì không chỗ nào không có, nên bất cứ ở đâu chúng ta cũng có thể gặp nó.
(Xem: 9409)
Đức Phật dạy: “Tất cả đều do “tâm” tạo”, “Trong các pháp, “tâm” dẫn đầu, “tâm” làm chủ, “tâm” tạo tác tất cả,,,
(Xem: 8735)
Hôm nay chúng tôi nói "vào cửa Không" tức là đi sâu vào phần nội tâm. Trong nhà Phật, chúng ta thường nghe nói: "Kẻ phàm phu thì chấp thân, đạo sĩ thì chấp tâm".
(Xem: 7316)
Niết bàn được Đức Thế Tôn miêu tả là hai phương diện cho những người sống một đời sống đức hạnh trong sáng, thực hành giới hạnh dẫn tới ...
(Xem: 7922)
Đức Phật xuất hiện ở đời vì hạnh phúc chư thiênloài người. Sau 49 năm thuyết pháp, độ sinh, ngài đã để lại cho chúng ta vô số pháp môn tu tập
(Xem: 6977)
Tất cả chúng ta đều biết rằng lời Phật dạy trong 45 năm, sau khi Ngài đắc đạo dưới cội cây Bồ Đề tại Gaya ở Ấn Độ, đã để lại cho chúng ta một gia tài tâm linh đồ sộ...
(Xem: 7639)
Đạo Phật từ Ấn Độ du nhập vào Việt Namhiện hữu với dòng lịch sử dân tộc gần 2000 năm.
(Xem: 9816)
Một trong những nhà lãnh đạo chính của phong trào Phật giáo Đại thừa tại Ấn Độ là đạo sư- tăng sĩ Long Thọ.
(Xem: 8252)
Trong tín niệm vãng sanh của một số truyền thống Phật giáo Bắc truyền, ở quá khứ cũng như hiện tại, đã căn cứ vào tình trạng nóng, lạnh từ thân thể...
(Xem: 8792)
Khi một người sắp chết, người ấy bắt đầu đánh mất sự kiểm soát ý thức của tiến trình tinh thần. Rồi đến lúc hành động và thói quen của người ấy bị ngăn trở với ký ức xảy ra.
(Xem: 7634)
Đức Phật là bậc đạo sư đầu tiên nhận thức được bản chất thực của bản ngã, rằng bản ngã không phải là một thực thể cụ thểtrường tồn,...
(Xem: 8792)
Muốn tâm an vui và có chánh kiến thì bình thường, ngoài việc làm phước chúng ta cần có thời gian học hỏi tu tập để có trí tuệ nhìn thấu lẻ vô thường và định tĩnh trước những cảnh bất như ý.
(Xem: 8598)
Thái độ tâm linh của đạo Phật không phải nằm trên bình diện siêu việt tính (plan transcendantal), nghĩa là không dính líu gì với đời sống này.
(Xem: 7964)
Lăng-già, Thập Nhị Môn Luận cũng như trong luận Thành Duy Thức có đề cập đến bốn loại duyên, từ đó có các pháp. Nhân duyên. Thứ đệ duyên. Duyên duyên.
(Xem: 8960)
Dược Sư, là danh hiệu đọc theo tiếng Hán, nguyên ngữ Sanskrit gọi là Bhaiṣajya-guru-vaiḍūrya-prabhā-rāja, hay ngắn gọn hơn: Bhaiṣajyaguru,
(Xem: 9385)
Đọc lịch sử Đức Phật ta vẫn còn nhớ, sau 49 ngày tham thiền nhập định dưới gốc cây Bồ đề bên dòng sông Ni Liên Thiền, khi sao Mai vừa mọc thì ...
(Xem: 8677)
Nếu chúng ta bước vào Hoa nghiêm (Gaṇḍavyūha) [1] sau khi qua Lăng già (Laṅkāvatāra) Kim cang (Vajracchedika), Niết-bàn (Parinirvāṇa), hay ...
(Xem: 8846)
Tôn giả Angulimala[1] trước khi gặp Phật, là một kẻ sát nhân. Sau khi xuất gia, tôn giả tinh tấn tu tập, lấy phép quán từ bi làm tâm điểm trong việc tu tập của mình.
(Xem: 7196)
Mỗi khi đọc Lại-Tra-Hòa-La trong kinh Trung A Hàm 1 thì lúc nào tôi cũng liên tưởng đến nhân vật Siddharta trong tác phẩm Câu Chuyện Dòng Sông...
(Xem: 9109)
Giáo lýđức Phật giác ngộ dưới cội cây Bồ đềduyên khởiduyên khởi là nguyên tắc vận hành của cuộc đời, không phải do...
(Xem: 8556)
Khi một Bồ tát tu tập một đạo lộ với các mantras, phát bồ đề tâm theo phương diện tương đốibản chất của đại nguyện, Bồ tát phải ...
(Xem: 7839)
“Nói kinh Đại thừa vô lượng nghĩa xong, Đức Phật ngồi kiết già nhập trong định ‘Vô lượng nghĩa xứ’, thân tâm chẳng động.
(Xem: 9568)
“Sắc tức thị không, không tức thị sắc (Sắc tức là không, không tức là sắc) là câu kinh đơn giảnnổi tiếng nhất trong hệ Bát-nhã Ba-la-mật của Phật pháp.
(Xem: 10108)
Nguyên đề của sách là The Essentials of Buddhist Philosophy dịch theo tiếng Việt là Tinh hoa Triết học Phật giáo. Nguyên tác: Junjiro Takakusu, Tuệ Sỹ dịch
(Xem: 8707)
Nếu muốn hiểu đúng về nghiệp và tái sinh, ta phải quán sát chúng trong ánh sáng của vô ngã. Chúng phản ánh vô ngã khá sống động, tuy nhiên...
(Xem: 8307)
Con đường đưa đến giác ngộ, giải thoátNiết Bàn chính là Bát Thánh Đạo, Tứ Diệu Đế; và phần quan trọng nhất trong con đường này là Thiền định.
(Xem: 7591)
Bốn Sự Thật Cao Quý được các kinh sách Hán ngữ gọi là Tứ Diệu Đế, là căn bản của toàn bộ Giáo Huấn của Đức Phật và cũng là...
(Xem: 9283)
Thật ra Phật đã đau yếu từ ba tháng trước và đã khởi sự dặn dò người đệ tử thân cận nhất là A-nan-đà. Phật bảo A-nan-đà tập họp các đệ tử để...
(Xem: 7440)
Thế giới Pháp Hoa hay nhà cha vốn như vậy (Mười Như thị, phẩm Phương tiện, thứ 2), nghĩa là vốn có sẵn, cho nên sự trở về nhà nhanh hay chậm là tùy nơi chúng ta.
(Xem: 15286)
Hơn hai ngàn năm trăm năm đã trôi qua kể từ khi bậc Đạo Sư từ bi của chúng ta, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, giảng dạy ở Ấn độ.
(Xem: 7249)
Từ nơi bản thể tịch tĩnh của Đại Niết-bàn mà đức Thế-Tôn thiết định Sīla: học xứ, học giới,.. nên học xứ ấy là nghiệp dụng của bản thể...
(Xem: 8440)
Ngày nay, người ta tìm thấy bản Bát-nhã tâm kinh xưa nhất được chép bằng thủ pháp Siddham[1] (Tất-đàn) trên lá bối...
(Xem: 12184)
Đối với người tu tập thuần thành thì cái CHẾT thực sự không phải là chết Mà là con đường dẫn đến sự giác ngộ viên mãn.
(Xem: 7268)
Thiền sư Bạch Ẩn ngày còn nhỏ rất sợ địa ngục. Một lần, Nichigon Shonin, cao tăng thuộc phái Nhật Liên, đã đến giảng tại ...
(Xem: 11456)
Ở bài này, chỉ dựa trên cơ sở Kinh Nikaya để xác minh ý nghĩa lễ cúng thí thực vốn có nguồn gốc trong hai truyền thống Phật Giáo.
(Xem: 8272)
Thời Thế Tôn tại thế, các đệ tử tại gia cũng như xuất gia đa phần đều tu tập tinh tấn, dễ dàng chứng đắc các Thánh vị.
(Xem: 7998)
Đức Phật nói rằng khi Ngài nhìn ra thế giới ngay sau khi Giác ngộ, Ngài thấy rằng chúng sanh cũng giống như...
(Xem: 7878)
Thuở quá khứ xa xưa, có Bồ-tát Tỳ-kheo tên là Thường Bất Khinh. “Vì nhân duyên gì có tên là Thường Bất Khinh?
(Xem: 8875)
một lần, Ma Vương hóa trang thành một người đàn ông, rồi đến thưa hỏi Đức Phật...
(Xem: 7383)
Trời mưa, trời nắng là chuyện bình thường. Thời tiết phải có lúc nắng, lúc mưa, không thể nào bầu trời không mưa hay...
(Xem: 18122)
“Ăn Cơm Hương Tích, uống Trà Tào Khê, ngồi Thuyền Bát Nhã, ngắm Trăng Lăng Già”...
(Xem: 9309)
Tánh Không với hàm ý bản thể của thế giới, vạn vật đều là không, nghĩa là không có thật, không có thực thể, không có...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant