Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Ý Nghĩa Của Ngón Tay Chỉ Mặt Trăng (song Ngữ)

10 Tháng Tư 201609:25(Xem: 9370)
Ý Nghĩa Của Ngón Tay Chỉ Mặt Trăng (song Ngữ)

Ý NGHĨA CỦA NGÓN TAY CHỈ MẶT TRĂNG 

Myrko Thum - Chuyển Ngữ: Nguyễn Văn Tiến 

Source-Nguồn: www.awakeblogger.com
(The Meaning Of The Finger Pointing To The Moon - Myrko Thum)

Ý Nghĩa Của Ngón Tay Chỉ Mặt Trăng (song Ngữ)

 

Sư Cô Wu Jincang hỏi Lục Tổ Huệ Năng (Huineng), "Con đã nghiên cứu Kinh Đại Bát Niết Bàn trong nhiều năm, tuy nhiên, có nhiều lãnh vực con vẫn chưa hiểu hoàn toàn. Xin Thầy hãy soi sáng cho con."

Lục Tổ trả lời, "Thầy không biết đọc chữ. Con hãy đọc bài kinh đó cho Thầy nghe, và nếu may mắn, Thầy có thể giải thích ý nghĩa bài kinh cho con hiểu."

Sư cô trả lời, "Thầy còn không biết đánh vần, thế thì, Thầy làm sao hiểu được ý nghĩa của bài kinh?"

"Sự thật không liên hệ gì đến các từ ngữ. Sự thật giống như là mặt trăng chiếu sáng trên bầu trời. Trong trường hợp nầy, các từ ngữ được xem như là ngón tay. Ngón tay có thể chỉ vào vị trí của mặt trăng. Tuy nhiên, ngón tay không phải là mặt trăng. Khi con muốn nhìn thấy mặt trăng, con cần phải nhìn xa hơn là ngón tay, có đúng không?"

Điểm quan trọng ở đây là mặt trăng thì không phải là ngón-tay chỉ-mặt-trăng. Ở mức độ sâu sắc hơn, điều nầy có nghĩa gì? Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta áp dụng điều nầy như thế nào? Để có ích lợi, chúng ta nên hiểu điều nầy có ý nghĩa như thế nào?

Thiền Sư Bố Đại (Hotei), còn gọi là ông Phật Cười, ngài chỉ ngón tay vào mặt trăng, là nhà sư sống trong Triều Đại Nhà Hậu Lương (Liang, 907-923 AD) của Trung Quốc. Thiền Sư Bố Đại có gương mặt vui vẻ và bụng bự, tượng trưng cho niềm hạnh phúc và sự an lạc.

KHÔNG-CÓ Ý-NGHĨA GÌ CẢ KHI CHÚNG TA GIẢI THÍCH VỀ NGÓN-TAY:

... Eckhart Tolle nói rằng, chúng ta có khuynh hướng giải thích về các ngón-tay, mà chúng ta không tự nhận-biết. Khi chúng ta thảo-luận về một điều gì đó, trong một buổi tranh-luận về triết-lý, dù cho điều nầy tốt hoặc là không-tốt cho chúng ta, (nên nhớ rằng) chúng ta đang thảo-luận về sự hợp-lý của các mô-hình và các khái-niệm. Tuy nhiên, chúng ta cũng có thể đi trực-tiếp đến nơi đó, để sống và có  kinh-nghiệm qua các cảm-nhận trực-tiếp.

Trong sự hiểu-biết về tâm-linh, điều nầy cũng như thế.

Tâm-linh là sự hiểu-biết qua kinh-nghiệm, và đây chính là sự thật. Vì vậy, theo ý nghĩa đó, bài viết nầy là ngón-tay chỉ mặt-trăng (chứ không phải là mặt trăng). Mục đích của từ ngữ là chỉ về phía mặt trăng. Do đó, khi chúng ta đang ngồi chỉ-tay, hoặc là thảo-luận về các ngón-tay, chúng ta không-có cảm-nhận. Kinh-nghiệm về một điều-gì có nghĩa là kết-nối với điều-nầy, cảm-nhận với điều-nầy, mà chúng ta không cần đặt-tên, và không cần dán nhãn-hiệu.

Sự lặp đi lặp lại rất nhiều lần trong tôn-giáo và triết-học chính là sự thảo-luận gay gắt về các ngón-tay (chứ không phải là mặt-trăng). Khi thảo-luận về một ngón-tay, thì ngón-tay có phải là sự-thật không? Có phải chỉ có một ngón-tay duy-nhất, là có thể chỉ đúng vị-trí mặt trăng không? Khi chúng ta đại-diện cho một điều-gì đó khác nhau, mà đó lại là các ngón-tay của chúng ta, thì điều dễ hiểu là  chúng ta dễ dàng không đồng-ý về các ngón-tay của người khác.

NƠI-CHỐN MÀ CHÚNG TA ĐI ĐẾN KHÔNG-PHẢI LÀ CÁI BẢN-ĐỒ:

Tương-tự như ngón-tay chỉ mặt-trăng, bản-đồ không phải là nơi-chốn chúng ta đi đến. Bản-đồ là khái-niệm chúng ta có trong tâm về một điều gì đó. Đây có thể là một niềm tin, là một hình ảnh, hoặc là một bản-mẫu lặp-lại của ý-nghĩ. Chúng ta xử-dụng bản đồ nầy để đi tìm nơi chốn chúng ta đi đến. Nếu bản đồ chính xác, chúng ta tìm được địa chỉ. Nếu bản đồ sai-lệch đi một chút, chúng ta phải thay đổi bản đồ theo sự hiểu biết nầy, rồi sửa chữa bản đồ lại cho chính xác. Nếu bản đồ hoàn-toàn không chính-xác (hoặc là chúng ta dọn nhà qua một thành phố khác), chúng ta phải thay thế hoàn-toàn tấm bản đồ nầy. Chuyện thay đổi bản đồ là chuyện thông thường vẫn xảy ra.

Hình-ảnh bản-thân chúng ta, hoặc còn gọi là cái-tôi của chúng ta, cũng là một loại bản-đồ (nói theo một cách khác). Đấy là tất cả mọi thứ mà chúng ta lưu giữ về bản thân mình. Đấy là bản đồ của chúng ta, và chúng ta hành-động theo cái bản đồ nầy. Chúng ta muốn cải-thiện hình-ảnh bản-thân chúng ta, thì chúng ta dùng khả-năng trí-tuệ của chúng ta để làm điều nầy: khi chúng ta có những ước-muốn, thì chúng ta đặt mục-tiêu, rồi chúng ta làm việc để đạt tới các mục-tiêu nầy. Bản đồ nầy còn gọi là cái-tôi của chúng ta, là một bản đồ rất hữu-ích mà chúng ta tự tạo ra không ngừng-nghỉ. Tuy nhiên, điều quan trọng mà chúng ta nên nhớ: rằng đây chỉ là cái bản đồ.

Chúng ta có bản đồ là một điều tốt, miễn là chúng ta biết đó chỉ là cái bản đồ mà thôi.

Điều nầy có nghĩa là:

1. Bản đồ thì có thể thay đổi: có nghĩa là các khái-niệm về bản-thân (thí dụ như cái-tôi, thí dụ như chúng ta nghĩ chúng ta là ai) có thể thay-đổi, và các điều nầy là căn-bản cho sự phát-triển về bản-thân. Sự thay đổi trên bản đồ nầy bao gồm các sự suy-nghĩ, các niềm tin, và các hành-động của chúng ta: có nghĩa là thế-giới-quan, và hình-ảnh bản-thân của chúng ta.

2. Nơi chốn mà chúng ta đi đến không phải là cái bản đồ: chúng ta không phải là cái-tôi. Chúng ta không phải là hình-ảnh bản-thân, nói một cách khác: chúng ta không phải là những gì chúng ta nghĩ chúng-ta là-như-thế; hiểu theo nghĩa đen, các ý-nghĩ (và các khái-niệm khác) là cái bản đồ, chứ không phải là nơi chốn chúng ta đi đến.

Bước quan trọng để Đánh Thức Tâm-Linh là chúng ta cần buông bỏ bản-đồ, và thực-tập sự hiểu-biết mọi vật mà không cần dùng tới bản-đồ.

Tuy nhiên, (đối với tôi) điều nầy không-có nghĩa là lúc-nào chúng ta cũng buông-bỏ bản-đồ. Tôi cần có bản-đồ để sinh-hoạt trong cuộc-sống, và cũng để liên-lạc với mọi người. Vì thế, tôi tạo ra bản đồ, để xử-dụng trong mọi hoàn-cảnh thích-hợp, và tôi xử-dụng theo một phương cách tốt đẹp nhất (mà tôi có thể làm được). Tuy nhiên, có một sự khác biệt ở đây: tôi biết rằng nơi tôi đến không phải là cái bản đồ. Cũng như thế, tôi biết rằng hình-ảnh bản-thân tôi chỉ là hình-ảnh bản-thân, chứ không phải là tôi.

Ken Wilber gọi quá-trình nầy là "Bao Gồm Và Vượt Qua Mọi Giới Hạn". Hoặc như Genpo Roshi đã nói rằng: chúng ta có thể vượt qua mọi giới-hạn của cái-tôi, tuy nhiên, chúng ta vẫn còn xử-dụng cái-tôi như là một con-người, khi chúng ta biết rằng Con Người gồm có hai mặt, một mặt là Tâm-Mỗi-Ngày, và một mặt là Chân-Tâm: mời quý vị xem thêm bài viết của tôi về Sức-Mạnh Bản-Thân so-sánh với Sức-Mạnh Hiện-Tại.

MỘT CÂU CHUYỆN VỀ THIỀN (TRÊN TRANG MẠNG CÓ TÊN LÀ 'NGÓN TAY CHỈ MẶT TRĂNG')

"Khi Thiền-Sư Nan-chuan nhìn thấy học trò của mình là Ma-tsu siêng năng thực-tập thiền định nhiều tiếng đồng hồ mỗi ngày, thiền-sư nhìn thấy một nỗ-lực và một nguyện-vọng chắc-chắn trong thói-quen của nhà sư trẻ nầy, cho nên thiền-sư đã lẻn ra phía sau của Ma-tsu, rồi hỏi rằng: "Con đang làm gì vậy?", Ma-tsu trả lời đầy tự hào, "Con đang cố gắng để trở thành một vị Phật". Sau đó, Thiền-Sư Nan-chuan nhặt lên một hòn đá, và ông bắt đầu mài hòn đá trên một viên gạch dư, để trên sàn nhà của tu viện. Nghe thấy tiếng mài đá, Ma-tsu hỏi, "Thầy đang làm gì vậy?" Thiền-Sư Nan-chuan trả lời: "Thầy đang cố gắng để làm một tấm gương." Và từ đó, Ma-tsu đã có sự tỉnh-thức.

Câu chuyện trên muốn nói đến điều sau đây:

Tất cả mọi vật chỉ-là-như-thế! Ma-tsu là Ma-tsu, viên gạch là viên gạch, và chúng tachúng ta, chỉ-là-như-thế. Không có Phật bên ngoài sự-thật căn-bản nầy, và cũng như không-có bất-kỳ nỗ-lực nào để đạt đến một trạng-thái đặc-biệt của tâm, mà dẫn dắt chúng ta ra bên-ngoài sự-thật nầy, đấy là những-gì tạo ra chúng ta là ai, và những-gì mà chúng ta đã sẵn-có. Bằng cách chúng ta tiếp-cận trực-tiếp với sự-thật ..., bằng cách chúng ta trực-tiếp nhận ra bản-chất thật-sự của chúng ta, mà luôn-luôn sẵn-có trong chúng ta trong từng giây-phút, dù cho đó là lúc chúng ta ngồi bên trên hoặc là bên ngoài tọa-cụ, dù cho đó là lúc chúng ta đang ngồi thiền hay không ngồi thiền. Chúng ta chỉ cần thực-hành giống như là Dogen Zenji đã nói, "chúng ta hãy nhìn lại chúng ta, bằng cách chúng ta đi lùi lại một bước, rồi bật lên ngọn đèn tâm, để làm Chân Tâm của chúng ta tỏa sáng."" - Stephan Bodian

Hotei pointing with the finger to the moon

Source-Nguồn: http://www.awakeblogger.com/the-meaning-of-the-finger-pointing-to-the-moon

 

The Meaning Of The Finger Pointing To The Moon
Myrko Thum - Source-Nguồn: www.awakeblogger.com

 

The nun Wu Jincang asked the Sixth Patriach Huineng, “I have studied the Mahaparinirvana sutra for many years, yet there are many areas I do not quite understand. Please enlighten me.”

The patriach responded, “I am illiterate. Please read out the characters to me and perhaps I will be able to explain the meaning.”

Said the nun, “You cannot even recognize the characters. How are you able then to understand the meaning?”

“Truth has nothing to do with words. Truth can be likened to the bright moon in the sky. Words, in this case, can be likened to a finger. The finger can point to the moon’s location. However, the finger is not the moon. To look at the moon, it is necessary to gaze beyond the finger, right?”

The finger pointing to the moon is not the moon is the essence here. But what does this mean on a deeper level? How does it relate to todays everyday life? How can we understand the meaning in an useful manner?

The laughing Buddha Hotei is pointing to the moon, who was a monk who lived during the Later Liang Dynasty (907–923 AD) of China. Contentment and happiness being his defining attributes, Hotei has a cheerful face and a big belly.

ANALYZING THE POINTER IS POINTLESS

… said Eckhart Tolle, yet we tend to analyze the pointers without noticing it. If we are discussing about whether something is good for us or not or especially if we come to a philosophical debate, we are discussing the validity of models and concepts. We can also go out and experience something directly.

It’s the same with spirituality.

Spirituality is all about experiencing and the truth itself. So this post here is of course a finger pointing. The words are only pointing. So as long as we are pointing and discussing about the different pointers, we are not experiencing. The experience of something is the connection with something, the feeling one with something, without labeling.

What happens in philosophy and in religion again and again is the intense discussion about the pointers. How can it be that there is a discussion about one thing that is true? It is one thing right? It can only be because we represent something differently, which are different pointers. Then it is easy to discuss and disagree about them.

THE MAP IS NOT THE TERRITORY

The map is not the territory is just another way to point to the same thing. The map is the concept of what we have in the mind about something. It’s a belief, an image or a thought-pattern. We use this map in the same way as we use a city-map to find a location. If the map is correct, we will find our location. If it is slightly incorrect, we have to correct it by new knowledge, optimize it. If it is completely incorrect or we move to another city, we have to replace the map altogether. What is happening is that we changed the map. And this is happening all the time.

Another map is the self-image or we may call it the ego. It is everything we saved about ourselves. It is the map of ourselves and we act from it. We want to improve our self-image and we use our intellectual abilities to do so: we get our desires and we set goals and work towards them. The map called the ego is a very useful map that we constantly create ourselves. But here is the important thing: it is still a map.

It’s nice to have a map, as long as you know it’s a map

Which means:

1. The map can change: which means our self-concept (the ego, who we think we are) can change and this is the basis of personal development. This changing map includes our thoughts, beliefs and actions: the whole world-view and the self-image.

2. The map is not the territory: I am not the ego, my self-image. You are not your self-image, or in other words: You and I are not who we think we are; think in the literally sense of the word: thoughts (and all other concepts) are the map, not the territory.

 The important step to Spiritual Awakening is dropping the map and experiencing what is without the map.

But, (for me at least) this means not to remove the map for all time. I need the map to function in the world and to relate to everything. So I create maps and use maps in a very intense way, in the best way possible. But there is one difference: I dis-identified the map from the territory. So I know that my self-image is my self-image but not the self.

Ken Wilber called the process “Transcend and include”. Or as Genpo Roshi put it: the reason we are able to transcent the ego but still use it as a human being is that we know the Being side of the Human Being as well as the Human Side: check my posting about Personal Power vs. The Power of Now for more.

THIS IS A ZEN STORY I FOUND ON THE WEBSITE POINTING TO THE MOON:

“When Zen Master Nan-chuan saw his student Ma-tsu diligently practicing meditation hour after hour, he sensed a certain effort and ambition in the young monk’s demeanor, so he sneaked up behind him and asked, “What are you doing?” “I’m trying to become a Buddha,” Ma-tsu replied proudly. Nan-chuan then picked up a stone and began rubbing it against a spare tile from the monastery floor. Hearing the sound, Ma-tsu asked, “What are you doing?” Said Nan-chuan: “I’m trying to make a mirror.” Ma-tsu had an awakening.

And it goes on:

Everything is just as it is! Ma-tsu is Ma-tsu, the tile is the tile, and you are you, just as you are. There’s no Buddha apart from this fundamental truth, and any attempt to achieve some special state of mind just leads you away from who and what you already are. In the direct approach to truth …, the direct recognition of your true nature is available in every instant, on or off the cushion, whether you meditate or not. You merely need to “take the backward step that turns your light inward to illuminate the Self,” as Dogen Zenji said.” – Stephan Bodian

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1595)
Đức Phật khẳng định: “Trong giáo pháp nào nếu khôngtám Thánh đạo thời ở đó không có quả vị Sa-môn thứ nhất, thứ nhì, thứ ba, thứ tư.
(Xem: 999)
Duyên khởi có nghĩa là hết thảy hiện tượng đều do nhân duyên mà phát sinh, liên quan mật thiết với nhau, nương vào nhau mà tồn tại. Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính,” không có yếu tính quyết định.
(Xem: 1471)
Trong các kinh điển thuộc Hán tạng, ‘Phật thị hiện thuyết pháp’ có thể được xem như là một ‘thuật ngữ’ quen thuộc, phổ biến đối với quý Phật tử Đại Thừa.
(Xem: 1450)
Con người được sinh ra đời, sống trong cuộc đời nhưng càng lớn lên càng cảm thấy mình như vẫn thiếu thốn cái gì, như vẫn là một người thất lạc.
(Xem: 1626)
Có lần khi nói về tám thức tâm vương trong Duy thức học, một người hỏi rằng “con người lo sợ là do thức nào?”.
(Xem: 1880)
Giác ngộ cũng tức là giải thoát. Giải thoát cái gì ? Giải thoát khỏi sinh tử luân hồi, điên đảo mộng tưởng, giống như người đang nằm mơ chợt tỉnh dậy,
(Xem: 1466)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1301)
Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn, còn gọi là Bồ-đề Tát-đa,… Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn (sanskrit), còn gọi là Bồ-đề Tát-đa
(Xem: 1332)
Kính lễ Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn Nay con đem tâm phàm phu suy diễn thánh pháp Là nhờ những bậc tiền bối đã khai triển Pháp này Xin Ngài gia bị cho tâm phàm phu chuyển thành thánh trí
(Xem: 1507)
Con xin đê đầu kính lễ Phật – bậc Nhất thiết trí – đấng Mặt trời tròn thanh khiết. Những tia sáng lời dạy của Ngài đã phá tan bóng đêm trong bổn tâm của chư thiên, loài người và các đường ác.
(Xem: 1107)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau trong suốt nhiều thế kỷ liền đã nỗ lực lý giải khái niệm này bằng cách tận dụng sự hiểu biết hạn chế của mình.
(Xem: 1231)
Dưới đây là một vài dẫn khởi có tính cách thực tiễn đối với sự tu tập công án, được đề ra do các Thiền sư qua nhiều thời đại; từ đó, chúng ta có thể thấy rõ một công án sẽ làm được việc gì để khai triển ý thức Thiền và cũng thấy rõ sự tu tập công án đã bộc lộ cho khuynh hướng nào theo thời gian.
(Xem: 1235)
Có hai hình ảnh quen thuộc gợi lên ý tưởng biến dịch: như dòng sông và như ngọn lửa bốc cháy trên đỉnh núi. Mỗi hình ảnh lại gợi lên một ý nghĩa tương phản: tác thành và hủy diệt.
(Xem: 1658)
Thời gian là một hiện tượng bí ẩn nhất và cũng là sít sao nhất với cuộc sống mỗi người.
(Xem: 1608)
Một thời Thế Tôn trú ở Nālandā, tại rừng Pāvārikamba. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta bạch Thế Tôn:
(Xem: 2893)
Duyên khởi cho bài viết này là từ một bản tin BBC News có nhan đề “Thiền định chánh niệm có thể khiến con người xấu tính đi?”— và từ một số cuộc nghiên cứu khác đã giúp chúng ta có cái nhìn đa diện hơn về Thiền chánh niệm, một pháp môn nhà Phật đang thịnh hành khắp thế giới.
(Xem: 1781)
Khi sinh ra và lớn lên trong cuộc đời này mỗi người đều mang trong mình một huyết thống mà tổ tiên bao đời đã hun đúc, giữ gìntruyền thừa qua nhiều thế hệ.
(Xem: 1342)
Vấn đề tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni phạm tội ba-la-di, thời Phật nghiêm khắc không cho sám hối đều có lý do. Với những lý do đó giống với xã hội bây giờ, cho nên trong chương này chúng tôi thảo luận chung cả hai giai đoạn thời Phật và cuộc sống hiện tại.
(Xem: 1192)
Hiện nay trong nguồn văn hiến hệ Hán truyền, chúng ta tìm thấy nhiều từ ngữ liên quan đến ý nghĩa sám hối như “hối quá 悔過”, “sám hối 懺悔”, “sám-ma 懺摩”, “phát lồ 發露”, thực chất tất cả đều xuất thân từ nghĩa gốc Phạn ngữ (Sanskrit) là từ: kṣama, kṣamayati.
(Xem: 1256)
Trong dòng chảy tâm thức của nhân loại từ xa xưa và cho đến nay luôn chia thành hai hướng, một hướng chảy theo dòng chảy Luân hồi (Saṃsāra), là số chúng sinh tâm tư cấu bẩn phiền não, ngụp lặn trong bùn lầy ố trược.
(Xem: 1363)
Những người con Phật chơn chính, thì lúc nào và ở đâu, họ cũng thực hành phápchánh pháp trở thành đời sống của chính họ. Họ được nuôi dưỡng ở trong chánh pháp và họ vui sống trong chánh pháp mỗi ngày.
(Xem: 1284)
Sự ra đời của Đức Phật nghiễm nhiên đã trở thành sự kiện quan trọng nhất trong suốt mấy ngàn năm tư tưởng Đông phương. Hiện tượng Lâm-tỳ-ni, chính vì thế, đã trở thành một hiện tượng đặc sắc đáng để mọi người nghiên cứu Phật học quan tâm.
(Xem: 1889)
Tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi đau khổ lớn. Đây là động cơ lớn thúc đẩy Thái tử ra đi tìm chân lý.
(Xem: 1638)
Như huyễn là một tính cách, một phương diện của tánh Không. Tánh Khôngvô tự tánh của mọi cái hiện hữu, và vì vô tự tánh nên như huyễn.
(Xem: 1860)
Theo quan niệm nhà Phật thì con người tự ràng buộc mình trong nỗi khổ đau do chính mình gây ra.
(Xem: 1779)
Trên lộ trình hướng về Phật đạo, tôi có duyên được “làm người đưa đò” tại ...
(Xem: 2341)
Bình đẳng tánh trí là gì? Là tánh bình đẳng của đại viên cảnh trí, nghĩa là tánh bình đẳng của tất cả mặt gương và của tất cả bóng hình in vào đó.
(Xem: 1760)
Theo truyền thống Phật giáo Nam tông, y cứ theo lịch Ấn Độ cổ đại, Vũ kỳ An cư (Vassavāsa) bắt đầu từ ngày 16 tháng 6 (tháng Āsālha) và kết thúc vào ngày 16 tháng 9 (tháng Āssina).
(Xem: 2083)
Vào thời Đức Phật, xã hội Ấn Độ rất nhiều học thuyết ra đời, mỗi học thuyết là một quan điểm chủ trương.
(Xem: 2141)
Trong bài này chúng ta sẽ tìm hiểu sơ lược về Đại viên cảnh trí, và trích toàn bộ đoạn nói về trí này trong Kinh Phật Địa, do Tam tạng Pháp sư Huyền Trang dịch ra tiếng Hán.
(Xem: 2262)
am Vô Lậu Học là môn học thù thắng gồm: Giới, Định và Tuệ trong đạo Phật.
(Xem: 1810)
Khi đạo Phật nói về tánh chất của khổ, có nhiều mức độ khổ khác nhau.
(Xem: 1938)
Dân gian thường nói, không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời. Rất khó giải thích về“ba họ” và “ba đời”.
(Xem: 1996)
Chúng ta đã thấy nguồn gốc của kinh tạng Phật giáo phát khởi từ ba kỳ kết tập kinh điển (saṅgīti).[1]
(Xem: 1911)
“Tất cả là vô thường” là một trong ba nguyên lý căn bản của Phật giáo (vô thường, vô ngã và niết-bàn tịch tịnh)
(Xem: 2535)
Không có kinh sách nào, Đức Phật dạy: Phải cầu nguyện, hay nương tựa vào một ai đó, ngay cả việc nương nhờ vào chính Ngài.
(Xem: 1901)
Bản tâm, tự tâm, bản tánh, tự tánh là những danh từ được Lục Tổ Huệ Năng sử dụng trong những lời thuyết pháp của ngài để...
(Xem: 1831)
Muốn thực hiện một đời sống đạo đức, mang lại hạnh phúc cho bản thân cũng như tha nhân thì trước hết con người ấy phải được giáo dục.
(Xem: 1910)
Như chúng ta đã biết, từ xưa lắm các triết gia và sử gia phương Tây từng đưa ra những định nghĩa về con người,
(Xem: 1855)
Sám hối là một thực hành tu tập quan trọng và phổ biến trong Phật giáo. Sám hối là...
(Xem: 2115)
Chúng ta hãy khởi đầu đọc kinh Kim-cang như một tác phẩm văn học. Giá trị văn học là sự biểu hiện thẩm mỹ của nội dung tư tưởng.
(Xem: 2246)
“Bà lão nghèo ngộ pháp Duyên khởi” là bản kinh chúng tôi giới thiệu kỳ này. Nguyên tác “Phật thuyết lão nữ nhơn kinh 佛說老女人經
(Xem: 1933)
“Kinh Căn Tu Tập / Indriya bhàvanà sutta” là bài kinh cuối cùng trong số 152 bài kinh đăng trong Trung Bộ Kinh do...
(Xem: 2037)
Theo Phật giáo, pháp có nghĩa là giáo pháp của Phật. Những lời dạy của Đức Phật chuyên chở chân lý.
(Xem: 1811)
Như Đức Phật đã dạy, một đặc điểm của Giáo Pháp thuần túy là những hiệu ứng phải được thể nghiệm tức khắc lúc này và nơi này, ngay trong cuộc đời này
(Xem: 1865)
Căn cứ thông tin từ tác phẩm Ni trưởng Huỳnh Liên - cuộc đờiđạo nghiệp do Ni giới hệ phái Phật giáo Khất sĩ ấn hành vào năm 2016 thì...
(Xem: 2377)
Từ khi đạo Phật du nhập vào Việt Nam, chúng ta thấy rõ là bất cứ khi nào truyền thống dân tộc nép mình để đi trong dòng sinh mệnh của đạo Phật thì...
(Xem: 2268)
Dựa vào lịch sử Đức Phật, chúng ta được biết, Thái tử Sĩ Đạt Ta (Siddhattha) khi chào đời, bước đi bảy bước, có bảy hoa sen đỡ chân
(Xem: 3821)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2439)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 3135)
Bốn mươi chín ngày sau khi đạt giác ngộ, Đức Phật bi mẫn và thiện xảo đã thuyết Tứ Diệu Đế cho năm vị đệ tử may mắn tại Varanasi.
(Xem: 2426)
Nếu có ai đó yêu cầu tóm tắt toàn bộ giáo lý Phật giáo trong một vài từ ngữ gọn gàng, không cần dài dòng văn tự, tôi sẽ không do dự trả lời rằng, đó là : Ngũ uẩn giai không.
(Xem: 2011)
Bằng sự tu tập lâu dài, vượt qua vách sắt thành đồng của địa ngục Thiết Vi hay sự co duỗi của bàn tay trước mắt mà ta vươn tới sự giải thoát thời đoạn, cuối cùngsự giải thoát hoàn toàn.
(Xem: 1769)
Đức Di Lặc tiếp tục giảng cho đồng tử Thiện Tài về Bồ đề tâm: “Tại sao vậy? Vì nhân nơi Bồ đề tâm mà xuất sanh tất cả Bồ tát hạnh.
(Xem: 3266)
Cộng đồng Tăng Già gồm tứ chúng Tăng NiPhật tử tại gia Nam Nữ với một hội đồng gồm ít nhất là bốn vị Tăng, hay một cộng đồng Tăng Ni sống hòa hiệp với nhau trong tinh thần lục hòa.
(Xem: 2308)
Đến nay, vấn đề xác định kinh điển Phật thuyết hay phi Phật thuyết vẫn là nội dung được các học giả quan tâm nghiên cứu
(Xem: 2988)
Nhiều học giả phương Tây nhận định rằng khái niệm Niết bàn, tức nirvāṇa trong Sanskrit hay nibbāna trong Pali, có thể xem là ...
(Xem: 2660)
Hãy thử tưởng tượng một đoàn người đang ngồi trên một chiếc thuyền trôi giữa biển, trong đêm tối. Sự nhỏ nhoi của con thuyền...
(Xem: 1987)
Vũ trụ này thực sự là gì? Tại sao có những thế giới nhiễm ô của chúng sanh? Làm gì để “chuyển biến” thế giới nhiễm ô thành thế giới thanh tịnh?
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant