Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đôi Lời Về Xá Lợi Phật

10 Tháng Tư 201609:47(Xem: 9886)
Đôi Lời Về Xá Lợi Phật

 Đôi Lời Về Xá Lợi Phật

Lama Zopa Rinpoche
Hồng Như

Đôi Lời Về Xá Lợi Phật


Nói chung, không dễ gì lưu lại ngọc xá lợi, không dễ gì thành tựu đạo quả qua quá trình tu chứng với những kiếp tái sinh nối tiếp trong thiện đạo. Muốn được như vậy, phải phát nguyện rộng lớn mãnh liệt, phải giữ giới hạnh thanh tịnh trong sáng qua nhiều kiếp tái sinh tiếp nối, rồi mới có thể hội đủ nhân duyên lưu ngọc xá lợi. Ngọc xá lợi chỉ phát sinh từ công phu tu hành nghiêm mật.

Giáo pháp mật tông được chia thành bốn bộ. Trong bốn bộ mật tông, chỉ có Mật tông Tối thượng Du già là có thể giúp hành giả đạt quả vị Phật ngay trong kiếp hiện tiền, ngay trong thời mạt pháp, ngay với xác phàm này. Ba bộ còn lại không có khả năng ấy. Mật tông Tối thượng Du già bao gồm hai giai đoạn: giai đoạn phát khởi và giai đoạn viên thành. Giai đoạn phát khởi có hai phần, thô lậu và vi tế. Giai đoạn viên thành có năm lớp. Kinh Phật nói rằng người nào thành tựu “tâm biệt lập” (mind isolation) (thuộc giai đoạn viên thành) thì có khả năng lưu ngọc xá lợi. Đã thành tựu được “tâm biệt lập” thì chắc chắn có khả năng thành Phật ngay trong kiếp hiện tiền.

 Tương tự như vậy, chúng ta có thể nhìn thấy ngọc xá lợi của chư Phật, ví dụ như ngọc xá lợi của đức Phật bổn sư Thích Ca Mâu Ni và của đức Phật Ca Diếp (phạn: Kasyapa, tạng: Osung), là hai đấng giác ngộ đã thành tựu cả hai đường tu không mê lầmPhương TiệnTrí Tuệ. Ngọc xá lợi có được là nhờ Phật Thích Ca và Phật Ca Diếp đã từng miên mật hành trì Sáu Hạnh Toàn Hảo, năm đạo, mười địa, v.v... trong suốt ba thời kỳ vô số, tích tụ hai bồ tư lương Phước Tuệ, viên thành sắc thânpháp thân. Ngọc xá lợi có được là nhờ thành tựu này. 

 Nói chung, thân Phật không giống như xác thân thô lậu kết từ máu thịt của người thường. Dù vậy, đức Phật từ bichúng sinhthị hiện nhiều loại xá lợi khác nhau, giúp chúng sinh nuôi dưỡng tín tâm, nhờ đó có thể tiếp nhận lực gia trì, thanh tịnh nghiệp chướng, tích tụ công đức.

 Trong quá khứ, khi Phật còn ở Ấn Độ, nhiều người có thể trực tiếp thấy được thân Phật. Ngày nay, vì nghiệp chướng che khuất nên chúng ta không thể trực tiếp thấy thân Phật, cũng không thể trực tiếp nghe lời Phật dạy. Chúng ta chỉ có thể thấy được xá lợi Phật. Đức Phật từ bi thị hiện hàng ngàn ngọc xá lợi cho chúng sinh chiêm bái. Kinh Phật có nói – ví dụ kinh Dode Kalsang - rằng Quốc Vương Ashoka xem xá lợi Phậtbảo vật linh thiêng nhất, đã vì chúng sinh mà xây nhiều bảo tháp để cất giữ ngọc xá lợi. Có rất nhiều ngọc xá lợi còn lưu lại ở Sri Lanka. Xá lợi Phật hiện vẫn còn rãi rác nhiều nơi trên thế giới, gieo nguồn cảm hứng cho vô lượng chúng sinh, đưa chúng sinh đến bờ giải thoátgiác ngộ. Đó là lý do duy nhất vì sao Phật lưu ngọc xá lợi.

 Với hàng bồ tát thánh giả, Phật thị hiện báo thân. Với hàng bồ tát mới phát tâm, Phật thị hiện báo thân. Còn với chúng sinh nặng nghiệp, Phật thị hiện xác phàm máu thịt. Cũng như đức Đạt-lai Lạt-ma hiện nay chúng ta có thể gặp được, ngài chính là đức Quan Thế Âm (Chenrezig), nhưng kẻ phàm phu như chúng ta chỉ có thể thấy được sắc tướng của một tỷ kheo xác phàm chịu cảnh bịnh tật già nua v.v... Tương tự như vậy, các đấng hành giả tu mật pháp đạt đạo quả cao – ví dụ như đức Geshe Lama Konchog – sau khi nhập tịch các ngài lưu xá lợi lại cho chúng sinh. Tâm thức các thầy một khi đã vì lòng đại bi mà đạt đạo quả cao thì các thầy đủ khả năng lưu ngọc Xá lợi. Geshe Lama Konchog đã tạo cảm hứng cho biết bao nhiêu người, đưa vào chánh pháp, cấy trồng thiện duyên. Khi thấy ngọc xá lợi của một vị thánh giả, chúng ta nên suy nghĩ như sau: ngay bây giờ, chư thánh đang mang lợi lạc về cho chúng ta bằng cách thị hiện xá lợi để chúng ta tích tụ công đức, thanh tịnh nghiệp chướng, nhờ đó dẫn dắt chúng ta đến bờ giải thoát, giác ngộ. Vì vậy chúng ta phải hết lòng tùy hỉ công đức của các ngài, như là công đức của Geshe Lama Konchog hay của các vị khác.

Chúng ta phải phát tâm như sau: “Nguyện chúng con cũng đạt chánh giác như các đấng giác ngộ đã đạt. Nguyện chúng con cũng có khả năng mang lợi ích rộng lớn về cho chúng sinh như các đấng giác ngộ vẫn hằng làm”. Chúng ta đối trước biển công đức của chư Phật và bồ tát, phải khởi tâm hoan hỉ; đối trước mọi tánh đức siêu việt của thân ngữ ý của các đấng giác ngộ, phải khởi tâm hoan hỉ; đối trước tất cả các thiện phương tiện mà các đấng giác ngộ đã vận dụng để lợi ích chánh pháp, lợi ích chúng sinh, phải khởi tâm hoan hỉ. Nếu chúng ta có thể khởi tâm tùy hỉ mạnh mẽ như vậy, phát nguyện mạnh mẽ như vậy, chắc chắn sẽ có thể mang lợi lạc rộng lớn về cho chánh pháp và cho chúng sinh. Khế kinh có nói, “Tất cả các pháp đều là duyên, trụ ngay trên đầu nguyện ước. Bất cứ lời phát nguyện nào cũng sẽ đưa đến kết quả đúng y như vậy”. Nói như vậy, thiện hay bất thiện đều tùy ở ý niệm, vì vậy chúng ta cần cố gắng hết sức để giữ tâm nguyện của mình sao cho thật tốt lành.

 Lama Tông Khách Ba có nói, “ngoại trừ một vài trường hợp ngoại lệ hiếm hoi, nói chung nếu tu hành mà không thuận theo ba điểm tinh yếu của Phật đạo [là tâm buông xả, tâm bồ đềtrí tuệ tánh Không] thì dù có làm gì cũng chỉ là tạo nhân duyên trầm luân cõi ta bà.” Thường nói thánh vật có chức năng đặc biệt, cho dù cúng dường, lễ lạy hay đi nhiễu bằng tâm nguyện không tốt, ví dụ bằng lòng sân hận, thì tác dụng cũng vẫn tốt lành, vẫn có thể tạo đủ nhân tố để đạt trí toàn giác.

 Để có thể đạt đạo quả cao như đạt “tâm biệt lập” trong giai đoạn thành tựu của Mật tông Tối thượng Du giàtrước tiên phải chứng được tánh Không của Trung Quán Cụ Duyên (Madhyamaka Prasangika), khác với tánh Không của các tông phái khác. Rồi lại phải hành trì tất cả mọi giai đoạn tu hiển như là phát tâm bồ đề, từ bỏ tâm lý vị kỷ, nuôi dưỡng lòng vị tha. Muốn được như vậy, trước đó phải khởi tâm buông xả: chán khổ sinh tử cầu vui niết bàn. Cội rễ của tất cả những điều nói trên đều nằm ở tâm tôn kính đạo sư, thấy đạo sư chính là đức Phật hiện tiền. Để thấy đạo sư chính là đức Phật hiện tiền, chúng ta cần biết cách nương dựa đúng cách nơi đấng đạo sư, trong từng ý tưởng, trong từng hành động. Nhờ vào quá trình tu tập luyện tâm như vậy mà ngọc xá lợi mới có thể xuất hiện.

 Đó là lý do vì sao ngọc xá lợi được xem là thánh vật trân quí. Ngọc xá lợi xuất hiện và lưu lại trong cõi thế đều là nhờ lòng từ bi của các đấng giác ngộ, giúp chúng ta tích tụ công đức, giúp chúng ta thanh tịnh chướng nghiệp.

Lời ghi xuất xứ

 Bài pháp này được viết tại vùng đất thánh Bồ Đề Đạo Tràng vào ngày 29 tháng 01 năm 2002 trong kỳ Đại lễ Quán Đảnh Kalachakra do đức Quan Thế Âm, bậc toàn giác, đức Đạt-lai Lạt-ma truyền thọ. Ven. Pemba Sherpa chuyển Anh ngữ, Ven. Sarah Thresher hiệu đính. Lama Zopa Rinpoche soát bản dịch và hiệu đính. Ven. Constance Miller tại Ban Giáo Dục FPMT soát lại câu văn, tháng 5/2002.

 
Hồng Như chuyển Việt ngữ từ bản dịch Anh ngữ, 06/2006. 

Hạ tải bài tiếng Anh:

www.fpmt.org/teachers/zopa/advice/relicsKZR.pdf
(Mọi sai sót là của người dịch. Mọi công đức xin hồi hướng pháp giới chúng sinh.)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 7355)
“Thừa Tự”, theo quan niệm phong kiến xưa, có nghĩa là thọ hưởng của “hương hỏa” với trách nhiệm nối dõi việc thờ cúng Tổ tiên.
(Xem: 4521)
Nhà nghiên cứu phật học K.SCHMIDT1 đã có lần nêu lên những điểm tương đồng giữa tri thức luận của Kant và của Phật học,
(Xem: 4574)
Theo đức Phật, vũ trụ không có khởi nguyên, không có tận cùng và khoảng không vũ trụ vốn vô tận, gồm vô số thế giới như cát sông Hằng (Gangânadivâlukopama).
(Xem: 7341)
Phàm tất cả vạn pháp, vạn hữu trong vũ trụ được sanh ra và có mặt trên thế gian này đều có nguyên nhân, nguyên do đầu mối của nó.
(Xem: 2965)
Chữ khám phá ở đây rất chính xác. Không có sự truyền giáo của đạo Phật đến người Tây phương. Và, tuy người Âu châu khám phá đạo Phật rất trễ, nhưng đó là sự khám phá vô cùng lý thú.
(Xem: 12220)
“Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao Tăng làm sáng cho Phật giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ 6 mãi đến nay đều là các Thiền sư.”
(Xem: 3996)
“Nguyên nhân hình thành Phật giáo Đại Thừa” là một đề tài có phạm trù không rộng lắm, nên ít có người khảo sát và nguồn tư liệu về nó cũng rất hạn chế.
(Xem: 3808)
Những gợi ý dưới đây có thể giúp chúng ta lĩnh hội được ý nghĩa thâm sâu, khó hiểu của kinh một cách hiệu quả, đồng thời giữ gìn sự trung thực với nội dung của ý kinh.
(Xem: 4225)
Giải thoát nghĩa là cởi mở những dây ràng buộc mình vào một hoàn cảnh đau khổ nghịch ý.
(Xem: 3686)
Trong hệ thống kinh tạng Đại thừa, Pháp Hoa là một trong những bộ kinh quan trọng và phổ biến nhất.
(Xem: 5064)
Niết-bàn (Nirvana, Nibbana) là khái niệm của Phật giáo, một tôn giáo không công nhận và không thừa nhậnThượng Đế, có thần, có linh hồn trường cửu.
(Xem: 6692)
Bài này sẽ khảo sát một số khái niệm về các hiện tướng của tâm, dựa theo lời dạy của Đức Phật và chư Tổ sư
(Xem: 4011)
Tôi ngồi đây lắng nghe quý thầy cô tụng bài kinh Bát Nhã thật hay. Ví như ngài Huyền Trang ngày xưa tuyển dịch nhiều bài Tâm kinh như thế này để ...
(Xem: 4126)
Như Lai ngài đã du hành Đạo lộ tối thắng vượt trên các ca tụng Nhưng với tâm tôn kínhhoan hỷ Tôi sẽ ca tụng Đấng vượt trên ca tụng.
(Xem: 5341)
Quy nghĩa là “quay về, trở về” hay “hồi chuyển (tâm ý)”. Y là “nương tựa”. Quy Y cũng có nghĩa là “Kính vâng” hay “Phục tùng”. Tam là chỉ ba ngôi Phật, Pháp, Tăng.
(Xem: 3790)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả
(Xem: 4535)
Từ xưa đến nay, hàng xuất gia (Sa-môn, Bà-la-môn) tu hành không trực tiếp lao động sản xuất để tạo ra của cải vật chất nên đời sống phụ thuộc vào sự bố thí, cung cấp, cúng dường của hàng tín đồ tại gia.
(Xem: 3552)
Sống chếtvấn đề lớn nhất của đời người. Trong đạo Phật, chữ sanh tử (sống chết) là một từ được nhắc đến thuộc loại nhiều nhất
(Xem: 3934)
Kinh Kim Cang Bát Nhã được ngài Cưu Ma La Thập (344-413) dịch từ tiếng Phạn sang Hán văn, và được thái tử Chiêu Minh (499-529) chia bố cục ra 32 chương.
(Xem: 4392)
Đức Phật xuất hiện trên thế gian như mặt trời phá tan màn đêm u tối. Giáo pháp của Ngài đã mang lại những giá trị phổ quát cho...
(Xem: 5396)
Khái niệm Niết-Bàn không phải là sản phẩm bắt nguồn từ Phật Giáo, mà nó đã xuất hiện từ thời cổ đại Ấn Độ khoảng hơn 4,000 năm trước Tây Lịch.
(Xem: 3844)
Quán Thế Âm tiếng Sanskrit là Avalokitésvara. Thuật ngữ Avalokitésvara vốn bắt nguồn từ hai chữ Avalokita và isvara
(Xem: 3941)
Trong khi thế giới đang có nhiều biến động phức tạp, chiến tranh, khủng bố, thù hận diễn ra khắp nơi, mâu thuẩn chính trị, kinh tế, và văn hóa luôn là vấn đề nan giải.
(Xem: 3877)
Trong cõi đời, chúng ta phải chịu đựng những sự đau đớn, khổ não nơi thân và tâm, nhưng tâm bệnh có thể được chữa khỏi bằng Phật pháp.
(Xem: 4828)
Thiên Trúc (天竺) là tên mà người Trung Quốc thường gọi cho Ấn Độ cổ đại. Nó cũng được dịch “Trung tâm của cõi trời”, (nghĩa là trung tâm tinh thần);
(Xem: 4527)
Thông thường hai chữ tu hành đi đôi với nhau; sử dụng quá quen nên hiểu một cách chung chung, đã giảm tầm mức quan trọng mà tự thân nó mang một ý nghĩa sâu sắc.
(Xem: 4261)
Đã hơn 2500 năm kể từ khi Đức Phật Thích Ca đã nhập Niết Bàn. Hiện tại chúng ta sống trong thời đại gọi là “Mạt Pháp”, trong đó ta không thể nào thấy Đức Phật thực sự được nữa.
(Xem: 3833)
Pháp thân của chư Phật, là muốn nhấn mạnh đến loại pháp thân không còn ẩn tàng trong thân ngũ uẩn như pháp thân của chúng sinh.
(Xem: 4640)
Giáo lý Tam thân (trikāya), như đã được tất cả các tông phái Phật giáo Đại thừaTrung QuốcNhật Bản chấp nhận hiện nay
(Xem: 4211)
Ngày xưa chúng đệ tử của Đức Phật có nhiều hạng người khác nhau. Tùy theo căn cơ của mỗi người, Đức Phật áp dụng phương pháp giáo hóa khác nhau.
(Xem: 6116)
Ngày nay, chúng ta thấy hầu hết các ảnh, tượng của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đều được tạo hình có tóc, điều này khiến
(Xem: 4611)
“Chiếc đồng hồ của tôi không đánh số 1 đến 12 mà chỉ có ‘now’, ‘now’, ‘now’ để nhắc nhở rằng ta đang sống”,
(Xem: 4952)
Trong tác phẩm Jataka, truyện số 238 đã đề cập về chuyện một chữ (ekapadaṃ) nhưng có nhiều nghĩa (anekatthapadassitaṃ).
(Xem: 4195)
Về tiểu sửcông nghiệp của Huyền Trang (602-664) chúng ta đã có phần viết riêng trong phần phụ lục của sách Kinh Phật
(Xem: 4826)
Đã sanh làm kiếp con người, có ai mà không khổ? Cái khổ nó theo mình từ nhỏ đến khi khôn lớn, và sẽ khổ hoài cho tới...
(Xem: 5671)
Khi Bồ-tát Long Thọ nói “bất sanh bất diệt” thì hẳn nhiên trước đó phải có cái gì đó có sanh và diệt.
(Xem: 3653)
Trong nghĩa đơn giản nhất, tu Hạnh Bồ Tát là những người ra sức hoằng pháp và không muốn Chánh pháp bị đoạn đứt, bất kể người này có thọ giới Bồ Tát hay không.
(Xem: 4042)
Bài viết này sẽ khảo sát về Vô Tướng Tam Muội, một pháp môn ít được chú ý hiện nay.
(Xem: 4591)
Cứ mỗi lần chúng ta chứng kiến người thân qua đời là mỗi lần chúng ta đau xót, buồn rầu, vì từ nay chúng ta vĩnh viễn sẽ không bao giờ được nhìn thấy người thân yêu đó trên cõi đời này nữa.
(Xem: 5288)
Như các phần trước đã nói, chân tâm không sinh diệt và vọng tâm sinh diệt luôn tồn tại nơi mỗi con người chúng ta.
(Xem: 3149)
Thiền học là một môn học nhằm mục đích đào luyện trí tuệ để được giác ngộgiải thoát sanh tử mong đạt đến niết bàn tịch tịnh
(Xem: 4767)
Khi đức Phật đản sinh, trên trời có chín rồng phun hai dòng nước ấm mát tắm rửa cho Ngài
(Xem: 4559)
Mỗi độ tháng Tư về, trong tâm thức của những người con Phật đều hiển hiện hình ảnh huy hoàng Phật đản sinh bước đi trên bảy đóa sen
(Xem: 4300)
Phật giáo Đại thừa có cách nhìn nhận mới về đức Phật và lời dạy của ngài.
(Xem: 4743)
Đức Phật Thích Ca là một đức Phật lịch sử xuất hiện giữa thế gian để dẫn dắt chúng sinh thoát khỏi khổ đau, đạt đến an lạc giải thoát.
(Xem: 4495)
Con người được sanh ra từ đâu là một nghi vấn vô cùng nan giải cho tất cả mọi giới và mãi cho đến thế kỷ 21 này vấn đề con người vẫn còn phức tạp chưa được ai minh chứng cụ thể.
(Xem: 4607)
Kinh Pháp Cú dành riêng hẳn một phẩm gọi là “Phẩm Tỳ kheo” để đề cập tới các người xuất gia.
(Xem: 7221)
Cuộc sống biến đổi không ngừng, mỗi một thời gian, mỗi một thế hệ có cách sống và nghĩ suy ứng xử có khác nhau.
(Xem: 5214)
Trước hết, thời gian vật lý là khách quan và tồn tại bên ngoài tâm trí con người và là một phần của thế giới tự nhiên, thứ hai, thời gian tâm lý chủ quan và có sự tồn tại phụ thuộc vào ý thức.
(Xem: 5010)
Hôm nay nhân ngày đầu năm, tôi có vài điều nhắc nhở tất cả Tăng Ni, Phật tử nghe hiểu ráng ứng dụng tu để xứng đáng với sở nguyện của mình.
(Xem: 4599)
Huyễn: Có nhiều nghĩa như tạm bợ, hư dối, phù du, huyễn hoặc, ảo ảnh, thay đổi luôn luôn, có đó rồi mất đó, biến dịch hoài trong từng sát-na.
(Xem: 5618)
Ngạ quỷ nghe kinh là một trong những đề tài khá quen thuộc trong kinh Phật. Người phàm thì không ai thấy loài ngạ quỷ, trừ một vài trường hợp đặc biệt.
(Xem: 5273)
Từ thế kỷ trước, người ta đã tìm được rải rác các thủ cảo (manuscripts) kinh Phật cổ xưa nhất viết bằng văn tự Kharosthi chôn ở các di tích Phật giáo ở Gandhāra, Bắc Afghanistan.
(Xem: 4164)
Thư Viện Quốc Hội Mỹ đã công bố một văn bản quí hiếm từ 2.000 năm trước của Phật Giáo và văn bản cổ này đã giúp cho chúng ta ...
(Xem: 6022)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 4722)
Trước hết xin giới thiệu sơ lược những nét chính của hai bộ kinh Đại thừa lớn ở Ấn Độ mà chúng đã trở nên đặc biệt quan trọng trong Phật Giáo Đông Á.
(Xem: 4882)
Từ khi Đức Như Lai Thế Tôn thị hiện cho đến hiện tại là 2019, theo dòng thời gian tính đếm của thế nhân thì cũng đã gần 2600 năm.
(Xem: 5485)
Tôn giả Tịch Thiên (Shantideva) là con của vua Surastra, sinh vào khoảng thế kỷ thứ VII ở Sri Nagara thuộc miền Nam nước Ấn.
(Xem: 5622)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 5824)
Này các Tỳ-kheo, ta cho phép học tập lời dạy của Đức Phật bằng tiếng địa phương của chính bản thân (sakāya niruttiyā)
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant