Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Trung Luận

15 Tháng Tư 201619:14(Xem: 7156)
Trung Luận

TRUNG LUẬN

Chân Hiền Tâm

Trung Luận

Trung luận, do Bồ-tát Long Thọ làm ra. Được viết dưới dạng kệ tụng. Có khoảng 500 bài kệ. Mỗi bài kệ có 4 câu
Cuốn Trung luận trong đó có phần văn xuôi giải thích - được ngài Cưu Ma La Thập dịch từ Phạn sang Hán, đệ tửTăng Duệ phân phẩm, đặt đề tựa và viết bài tựa - là của Phạm chí Thanh Mục. Phạm chí là người tin hiểu thâm pháp nhưng văn từ không được trau chuốt chính xác, có chỗ còn trái, khi thiếu, khi trùng. Pháp sư Cưu Ma La Thập đã cắt xén và bổ sung để lý được phù hợp với văn kinh. Song văn từ vẫn có chỗ thừa chỗ thiếu chưa được toàn vẹn.(1)

Các bản luận giảiViệt Nam gần đây, thường dựa vào các bài kệ lấy trong bản luận giải này. 

Bồ-tát Long Thọ

Bồ-tát Long Thọ, là Tổ thứ 14 trong 33 vị Tổ Thiền tông Ấn-Hoa. 

Ngày còn nhỏ, ngài rất thông minh. Nghe Phạm chí đọc tụng bốn bộ Vệ Đà liền thuộc.

20 tuổi chu du khắp nơi học các pháp thuật của ngoại đạo như sấm ký, toán số, thiên văn v.v… Học được phép tàng hình, nên cùng với ba người bạn vào cung vui vầy với các cung nữ. Bị vua bắt gặp, ba người bạn bị chém, ngài thoát được. Nhận ra ái dục chỉ mang đến đau khổ cho con người nên vào rừng ẩn tu. Lúc ấy, đệ tử có khoảng 500 người.

Sau khi được Tổ thứ 13 là Ca Tì Ma La giáo hóatruyền tâm ấn làm Tổ thứ 14, ngài đi khắp nơi truyền bá giáo pháp Đại thừa. Mục đích là chỉ cho chúng sinh nhận ra được Phật tánh của chính mình, đó mới là phước báu quý nhất đời người.

Khi giảng pháp, ngài thường nhập Nguyệt luân tam muộigiáo hóa. Người nghe pháp chỉ thấy tướng trăng tròn hiện trên không trung, không thấy hình tướng ngài mà chỉ nghe tiếng thuyết pháp.

Tổ thứ 15, khi ấy còn là một thanh niên con nhà trưởng giả, theo nghe pháp, đã giải thích: “Đây là Bồ-tát thị hiện để biểu thị Phật tánh. Mặt trăng tròn là nghĩa Phật tánh rỗng rang sáng suốt”. Đề Bà vừa dứt lời thì vầng trăng ẩn mất. Bồ-tát hiện ngồi an nhiên chỗ cũ và làm bài kệ:

Thân hiện tướng trăng tròn

Để nêu thể chư Phật

Thuyết pháp vô hình ấy

Dùng nói phi thanh sắc(2).

Thể chưa Phật, còn gọi là Phật tánh, tri kiến Phật, vô sinh, tánh không v.v… Đó là cội nguồn chân thật của tất cả pháp. Là những gì mà Trung luận muốn hiển bày qua con đường lý luận, hầu giúp người đời nhận ra tánh thực của tất cả pháp.

Khi mất, ngài cũng dùng loại tam muội ấy, hiện thần biến mà đi.

Y cứ của Trung luận

Trong Thuận Trung luận nghĩa nhập đại Bát-nhã  Ba-la-mật kinh của ngài Vô Trước(3), có ghi lại cuộc đối thoại giữa Đức Phật và vua trời Đế Thích như sau:

- Này Kiều Thi Ca! Ở đời vị lai, thiện nam tửthiện nữ nhân, tùy theo ý hiểu của mình, vì người mà thuyết Bát-nhã Ba-la-mật. Người đó chỉ thuyết tương tợ Bát-nhã Ba-la-mật không phải là chân thật Bát-nhã Ba-la-mật.

Vua Đế Thích hỏi:

- Bạch Thế Tôn, thế nào là chân thật Bát-nhã Ba-la-mật mà thuyết thành tương tợ Bát-nhã Ba-la-mật?

Phật trả lời:

- Người đó thuyết sắc vô thường… cho đến thức vô thường. Như thế mà thuyết về khổ, vô ngã, bất tịch tĩnh, không, vô tướng, vô nguyện. Như thế mà thuyết cho đến Nhất thiết trí. Người như vậy chẳng biết phương tiện, vì có sở đắc.

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là chân thật Bát-nhã Ba-la-mật?

- Này Kiều Thi Ca! Sắc còn không có, chỗ nào có thường và vô thường? Như thế cho đến không có Nhất thiết trí, chỗ nào có thường cùng vô thường? Này Kiều Thi Ca ! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân dạy người tu hành Bát-nhã Ba-la-mật mà thuyết Bát-nhã Ba-la-mật thì nói như vầy: “Này thiện nam tử! Tu hành Bát-nhã Ba-la-mật, không có chút pháp có thể xả. Tâm ông chớ trụ trong chút pháp đó. Vì sao? Vì trong Bát-nhã Ba-la-mật như thế không có Chánh pháp. Nếu vượt ngoài pháp thì đó là không pháp, trụ ở chỗ nào? Vì sao? Này Kiều Thi Ca! Như tất cả pháp tự thể tánh không. Nếu tất cả pháp tự thể đã không thì pháp không có tự thể. Nếu không có tự thể, gọi là Bát-nhã Ba-la-mật. Nếu là Bát-nhã Ba-la-mật thì pháp đó không có chút pháp có thể thủ, có thể xả. Như sinh, như diệt, như thường, như đoạn, như nhất nghĩa, như dị nghĩa, như đến, như đi. Đó là chân thật Bát-nhã Ba-la-mật.

Đoạn kinh trên cho thấy Trung luận y cứ trên Bát-nhã Ba-la-mật mà lập, cùng tinh thần với Bát-nhã Ba-la-mật. Là mật ý phá tướng hiển tánh(4).     

Do đâu có tên Trung luận?

Đã được nói khá rõ trong bài tựa của ngài Tăng Duệ: “Lấy Trung làm tên để chiếu soi cái thật. Dùng Luận mà gọi để thấu hết ngôn từ. Cái thật nếu không có tên thì không thể biết, nên gá vào Trung mà nói. Ngôn từ nếu không giải thích thì chẳng thấu suốt, nên phải mượn Luận làm rõ”.

Trung, không phải là giữa mà không thuộc nhị biên phân biệt.

Nhị biên phân biệt là hai bờ mé đối đãi như sinh và diệt, thường và đoạn, ngắn và dài v.v… nói “phân biệt” vì chúng do tâm phân biệt mà có.

Kinh luận thường dùng 4 từ vô, bất, phi, ly đặt trước các khái niệm đó để diễn cái nghĩa “không thuộc nhị biên phân biệt”. Đó là cách trả lời của ba đời chư Phật cho vấn đề thực tánh(5). Trong Lăng già tâm ấn, Phật dùng cả 4 từ đó để trả lời 108 câu hỏi của ngài Đại Huệ. Trả lời câu “sinh” là “bất sinh”, câu “thường”(6) là “vô thường”, câu “sát-na” là “phi sát-na”, câu “tự tánh” là “ly tự tánh”. Đại sư Hàm Thị bàn rằng: “Đó là lời chỉ thẳng. Chỉ ngăn cái quấy kia mà không nói cái phải kia. Nếu có chỗ phải thì khác nào cái quấy. Như vàng làm đồ trang sức. Vàng không phải bình, không phải xuyến, không phải thoa, khiến người ngay đó thấu suốt. Nói “không phải” nghĩa là không phải bình, không phải xuyến, không phải thoa để rõ nó là vàng vậy”.

Để diễn bày nghĩa đó, Trung luận dùng tám chữ “bất”, gọi là Bát bất:

Bất sinh diệc bất diệt

Bất thường diệc bất đoạn

Bất nhất diệc bất dị

Bất lai diệc bất khứ. 

Dịch:

Chẳng sinh cũng chẳng diệt

Chẳng thường cũng chẳng đoạn

Chẳng một cũng chẳng khác

Chẳng đến cũng chẳng đi. 

Tánh thể vô sinh không có tự tánh, bất giác mà khởi cái thấy hư vọng (Năng kiến tướng) cùng cảnh giới hư vọng (Cảnh giới tướng)(7). Như ngủ mê rồi mộng mà thấy có ta, có người, có đến, có đi. Từ đó mới có sinh, có diệt... Đều là cái thấy của người trong mộng, do vô minh bất giác mà có. Tánh thể vô sinh chẳng sinh, chẳng diệt, chẳng thường, chẳng đoạn... Cho nên, thấy đoạn thấy thường mà thật khôngđoạn thường, thấy sinh thấy diệt mà thể tánh vốn vô sinh

Hoàng Bá nói: “Chỉ cần ông không tạo ra Phật kiến thì không rơi vào Phật biên. Không tạo ra cái thấy chúng sinh thì không rơi vào giới hạn chúng sinh. Không gây ra cái thấy có thì không lạc vào giới hạn của có…”(8). Cho nên, phủ định các tướng nhị biên là để hành giả không trụ tâm nơi các biên đó. Không trụ các biên tức là trụ chỗ vô trụ. Vô trụ, nên nói trụ mà thật là không có năng trụ, sở trụ. Là chứng nhập thể tánh vô sinh của chính mình, cũng là thể tánh của tất cả pháp.

Trong Pháp bảo đàn kinh, Lục Tổ hỏi Thượng tọa Minh: “Không nghĩ thiện, không nghĩ ác, cái gì là bản lai diện mục của Thượng tọa Minh?”. Thiện và ác là nhị biên phân biệt. Không nghĩ thiện không nghĩ ác là đang ứng dụng Trung đạo. Nếu ngay đó có thể liền nhận thì Trung đạo chính là vô sinh. Không thể liền nhận thì Trung đạocon đườnghành giả phải đi qua nếu muốn thành tựu quả Phật, không có đường nào khác. Giải quyết xong cái tâm sinh diệt của phàm phu thì cũng không an trụ nơi cái tâm không tịch của Nhị thừa. Tâm vô trụ thì tương ưng với thể vô trụ. Tâm vô sinh thì tương ưng với thể vô sinh. Đó chính là tánh thể của tất cả pháp.

Nhân duyên lập ra Trung luận

Tăng Duệ viết: “Trung luận nhằm chỉnh lý nội giáo, khai thông bế tắc”. Nội giáo nói đây, chỉ cho phần giáo thuyết cũng như tu chứng của hàng Nhị thừa, lấy quả vị La-hán và Độc giác làm chỗ an trụ tối cùng. Ngoài ra còn chỉ cho hàng Bồ-tát chưa chứng nhập được cái nhân vô sinh (Phật tánh). Ngài Tăng Duệ gọi chung là “hàng không tịch”.

Vì sao phải khai thông?

quả chứng của hàng Nhị thừa chỉ mới là hóa thành chưa phải bảo sở.

quả chứng đó chỉ mới phá được ngã không, chưa thấu được pháp không.

chứng quả vị đó rồi, cũng mới thoát được cái khổ của Phần đoạn sinh tử, chưa thoát được cái khổ của Biến dịch sinh tử(9).

Vì chư vị chưa thấy được Phật tánh, là cái nhân vô sinh để có cái quả là Niết-bàn Phật(10).

Vì chư vị chưa thấu được lý duy tâm duy thức, vẫn thấy ngoài tâm có pháp, vẫn chưa thể thấy tánh Niết-bàn sinh tử vốn không hai. 

Trung luận vì đó mà hiển bày. Nhằm khai thông sự ngưng trệ.

Đối tượng của Trung luận

Duyên khởi của Trung luận như vậy, nên Trung luận không phải là bộ luận mang tính phổ thông đại chúng, cũng không phải là bộ luận dành cho hàng phàm phu chưa có niềm tin sâu xa đối với Phật pháp.

Đọc Trung Luận mà thấy khó tin, khó hiểu hay cho nó như trò đùa rồi sinh tâm phỉ báng, xét ra không phải là chuyện khó hiểu. Chỉ vì dụng pháp không đúng duyên. Nói chính xác là chưa đủ duyên để đọc nó nên mới phát sinh những sự việc như thế.

Vì chưa đủ duyên mà thành khó hiểu, nên việc khó hiểu trong hiện tại không có nghĩa là sẽ khó hiểu trong tương lai, khi đã đủ duyên.

Tâm thức chúng ta không thường hằng, mọi thứ đều có thể thay đổi, nên trước chưa tịch tĩnh, sau vẫn có thể tịch tĩnh, chưa tịch tĩnh được toàn phần thì tịch tĩnh một đôi phần. Việc tu hành không tích tụ trong một đời, Bồ-tát ra đời cách ấm còn mê, nên trước không thâm nhập được kinh luận không có nghĩa là sau cũng không thậm nhập được kinh luận. Trí tuệ không lệ thuộc vào thân tướng bên ngoài, nên Trung luận không giới hạn cho xuất gia hay tại gia… Cho nên, đừng bao giờ ngừng đọc nó khi có duyên gặp lại. Bởi mọi thứ đều có thể thay đổi khi tâm thay đổi.

Luận giải của Trung luận

Trung luận, tinh thần chính của nó là hiển bày tánh thể vô sinh của tất cả pháp thông qua Trung đạo và bằng con đường luận lý. Vì thế, cũng là luận nhưng luận của Trung luận là dùng lý luận để biện biệt đúng sai, phát minh chánh lý.

Trung luận, y Bát-nhã mà lập, nên những gì thuộc mặt hiện tượng đều được phân tích phá bỏ. Phá, nhằm hiển bày thực tánh của những hiện tướng đó. 

Trung luận, muốn giúp cho hàng không tịch hiểu không phải chỉ có “ngã” không mà “pháp” cũng không, nên dù là lý Nhân duyên - Thực lý mà Phật đã nói trong các kinh thuộc hệ A-hàm như sau: “Do duyên sinh, lão tử có mặt. Dù chư Như Lai xuất hiện ở đời hay không xuất hiện ở đời, bản chất các pháp vẫn là thế, vẫn quyết định tánh ấy, vẫn theo duyên như thế” - vẫn được mang ra phân tích, để thấy từ nhân đến quả, không hề tìm thấy một tướng sinh nào như chúng ta vẫn lầm nghĩ, vẫn cho là có nhân duyên sinh pháp, gắn cho nhân duyên một tánh thực. Tất cả đều là biến hiện của tự tâm, do bất giác mà có, không có chất thực, như ngủ rồi mộng.

Hỏi:

Đã nói “vẫn quyết định tánh ấy, vẫn theo duyên như thế”, sao lại nói là lầm nghĩ?

Đáp:

Ngài Tăng Duệ nói: “Cái ngộ thiên không khởi từ cái trí yểm lý(11). Kẻ tiết tháo vì đó mà thành trái”. Kẻ tiết tháo thì không phải là hạng tà hạnh, tầm thường, nhưng vì lấy hóa thành làm bảo sở, nhận chỗ chưa rốt ráo làm chỗ rốt ráo mà thành trái. Như đi từ Sài Gòn về Vũng Tàu đều phải qua Long Thành, Bà Rịa. Đi như thế không trái. Trái chỉ xảy ra khi cho Long Thành hay Bà Rịa là Vũng Tàu. Đây cũng vậy, một khi đã mê rồi mộng thì khi đang trong mộng, mọi hành tác đều bị chi phối bởi lý Nhân duyên. Không có thứ gì vận hành không theo quy luật ấy, nên nói “Vẫn quyết định tánh ấy, vẫn theo duyên như thế”. Nhưng mộng không phải thực, chỉ là sự biến hiện của tự tâm. Thành nói “quyết định”, nói “theo duyên như thế” tuy cho thấy lý Nhân duyên là chánh lý, nhưng chỉ là chánh lý của người trong mộng. Giờ phá là để giúp chúng sinh tỉnh mộng. Hầu nhận ra những gì chúng sinh cho là thực chỉ là những biến hiện của tự tâm, do sức ngủ vô minh mà có.

Nhận ra thì mới trực nhận được “Pháp do nhân duyên sinh/ Ta nói tức là không”(12). Không, thì không có tâm chấp thủ đối với các pháp. Không chấp ngã thì không có ba cõi (hữu)(13). Không thủ Niết-bàn thì mới chứng được tánh thể vô sinh, nhập được Niết-bàn vô trụ xứ. 

Nói phá Nhân duyên, phá Tứ đế, phá Pháp hay phá Niết-bàn…14 chính là phá đi sự chấp thủ đối với các pháp ấy.

Kết luận

Nắm được tinh thần chung của Trung luận không khó. Nhưng theo cho được lý luận của Trung luận mới có thể nhận ra cái hay của Trung luận, mới thấy cái nhìn của mình hạn cuộc đối với các pháp ra sao. Vì thế, đọc Trung luận không thể bỏ qua phần luận lý, giúp phá bỏ cái trí an trụ nhị biên, hiển bày con đường Trung đạo, thâm nhập đạo lý vô sinh.  

 Chú thích

 (1) Bài tựa giới thiệu Trung luận của ngài Tăng Duệ.

(2) Sử 33 vị Tổ thiền Thiền tông Ấn Hoa - HT.Thích Thanh Từ. 

(3) Đại tạng kinh - cuốn 30 - Kinh hiệu số 1565.

(4) Nguồn thiền - Đại sư Tông Mật - HT.Thích Thanh Từ dịch giảng.

(5) Lăng-già tâm ấn ghi: “Từ 108 câu ở trên, như chư Phật đã nói: Câu “sinh” là bất sinh...”.  

(6) Ngoại đạo chấp có tánh thường nên nói vô thường.

(7) Luận Đại thừa khởi tín cuốn I - Bồ-tát Mã Minh.

(8) Kinh Thủ lăng nghiêm tông thông - Cư sĩ Tăng Phụng Nghi giải - Thiền sư Nhẫn Tế dịch - NXB.Tôn Giáo phát hành. 

(9) Luận đại thừa khởi tín cuốn II - Bồ-tát Mã Minh.

(10) Lăng-già tâm ấn ghi: “Phật tánh là nhân. Niết-bàn là quả”. 

(11) Bài tựa viết cho cuốn Trung luận của ngài Thanh Mục.

(12) Trung luận - phẩm Tứ đế - Bồ-tát Long Thọ.

(13) Thập nhị duyên sinh: Do “ái” và “thủ” mà đưa đến “hữu”. 

(14) Các đề tựa trong Trung luận.

Chân Hiền Tâm

 
Ý kiến bạn đọc
15/04/20166:30 SA
Member
- Này Kiều Thi Ca! Ở đời vị lai, thiện nam tửthiện nữ nhân, tùy theo ý hiểu của mình, vì người mà thuyết Bát-nhã Ba-la-mật. Người đó chỉ thuyết tương tợ Bát-nhã Ba-la-mật không phải là chân thật Bát-nhã Ba-la-mật.

Vua Đế Thích hỏi:

- Bạch Thế Tôn, thế nào là chân thật Bát-nhã Ba-la-mật mà thuyết thành tương tợ Bát-nhã Ba-la-mật?

Phật trả lời:

- Người đó thuyết sắc vô thường… cho đến thức vô thường. Như thế mà thuyết về khổ, vô ngã, bất tịch tĩnh, không, vô tướng, vô nguyện. Như thế mà thuyết cho đến Nhất thiết trí. Người như vậy chẳng biết phương tiện, vì có sở đắc.

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là chân thật Bát-nhã Ba-la-mật?

- Này Kiều Thi Ca! Sắc còn không có, chỗ nào có thường và vô thường? Như thế cho đến không có Nhất thiết trí, chỗ nào có thường cùng vô thường? Này Kiều Thi Ca ! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân dạy người tu hành Bát-nhã Ba-la-mật mà thuyết Bát-nhã Ba-la-mật thì nói như vầy: “Này thiện nam tử! Tu hành Bát-nhã Ba-la-mật, không có chút pháp có thể xả. Tâm ông chớ trụ trong chút pháp đó. Vì sao? Vì trong Bát-nhã Ba-la-mật như thế không có Chánh pháp. Nếu vượt ngoài pháp thì đó là không pháp, trụ ở chỗ nào? Vì sao? Này Kiều Thi Ca! Như tất cả pháp tự thể tánh không. Nếu tất cả pháp tự thể đã không thì pháp không có tự thể. Nếu không có tự thể, gọi là Bát-nhã Ba-la-mật. Nếu là Bát-nhã Ba-la-mật thì pháp đó không có chút pháp có thể thủ, có thể xả. Như sinh, như diệt, như thường, như đoạn, như nhất nghĩa, như dị nghĩa, như đến, như đi. Đó là chân thật Bát-nhã Ba-la-mật.
Có ai dám xác nhận đây là đoạn kinh Phật thuyết không .Tôi đọc mấy tạng kinh nguyên thủy không có chỗ nào hay đoạn nào Phật thuyết như vậy cả.Nếu không có thì là Phật không thuyết mà lại gán cho Phật thuyết thì là Đại vọng ngữ rồi.Riêng cá nhân tôi thì thấy không bao giờ Phật thuyết đoạn kinh trên vì Phật thuyết rõ ràng "KHỔ-TẬP-DIỆT-ĐẠO" là chân lý thế mà ở đây lại khác thế ra Phật nói 2 lời à điều này không bao giờ có ở Phật .
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 5203)
Buông xả là một sự thực tập quan trọng trong cuộc sống hằng ngày, cũng như con đường giải thoát của chúng ta.
(Xem: 2674)
Giá trị của tâm là sự thương yêuchân thực. Nếu một người mà tâm luôn tràn ngập tình thương đối với mọi người,
(Xem: 6152)
Cuộc sống hiện đại đưa đến nhiều vấn đề làm cho chúng ta phiền tâm mệt trí, thân tâm đều nặng nề.
(Xem: 3066)
Tầm quan trọng của một người là tính sáng tạo của tâm thức. Khi chúng ta đối xử với nhau như những người anh chị em, thì nó sẽ làm cho chúng ta hạnh phúc.
(Xem: 3114)
Nếu tỉnh thức, bạn có thể tự đặt mọi câu hỏi. Năng lực của trí tuệ sẽ giúp bạn tìm thấy câu trả lời cho mọi vấn đề mình đang gặp mỗi ngày.
(Xem: 3316)
Từ xưa đến nay tình ái luôn là thứ dễ làm con người mù quángsi mê.
(Xem: 3247)
Người sống được một-trăm-năm mà không hiểu-rõ cuộc-đời là vô-thường và sinh-diệt.
(Xem: 3308)
Thịnh suy nào cũng không quan trọng bằng nội tâm ta có dính mắc hay không, vì dính mắc đó là nguồn gốc luân hồi.
(Xem: 4570)
Hạnh phúc là khát vọng của nhân loại muôn đời, một trong “tiêu chí” có tính phổ quát nhất vượt hết thảy các gián cách về văn hóa, dân tộc và biên giới không gianthời gian.
(Xem: 2737)
Phân hóa là một hiện tượng tất yếu trong cuộc sống. Phân hóa để tăng trưởng, phân hóa để phát triển, phân hóa để hủy diệt, phân hóa để biến thái…
(Xem: 5230)
Theo truyền thống sách vở, hình như gắn liền với Thiền là trà, chớ không phải cà phê.
(Xem: 3884)
Cuộc sống trôi nhanh về phía cái chết, như điệu nhảy của vũ công, tia chớp trên bầu trời, hay dòng thác đổ
(Xem: 3852)
Bốn chân líchân lí về khổ, về nguồn gốc, về diệt tận và về đạo lộ.
(Xem: 3214)
Bài này trích dịch từ Quý San năm 2019 có chủ đề “Buddhadharma: The Practitioner’s Quarterly,” đăng ngày 14 tháng 5 năm 2019 trên trang mạng Lion’s Roar.
(Xem: 4152)
Ngày xưa Đức Phật trong suốt 45 năm giáo hóa tại khu vực rộng lớn dọc theo hai bên bờ Sông Hằng ngài chỉ sử dụng mỗi một phương tiện duy nhất là đi bộ.
(Xem: 5058)
Thế giớichúng ta đang sống là thế giới của dục vọng. Mọi chúng sanh được sinh ra và tồn tại như là một sự kết hợp của những dục vọng.
(Xem: 3523)
Tất nhiên đã làm người thì phải chịu khổ đau nhiều hay ít tùy thuộc vào trạng thái tâm lý, sự cảm thọnhận thức của mỗi người.
(Xem: 6759)
Trong cuộc đời mỗi người ai cũng có một dòng tộc huyết thống, người đời thì có huyết thống gia đình, người xuất gia thì có huyết thống tâm linh.
(Xem: 3971)
Trong kinh Phật dạy, “cái khổ lớn nhất của con người không phải do thiếu ăn, thiếu mặc, làm con trâu, con bò, kéo cày, kéo xe, chưa chắc là khổ;
(Xem: 3230)
Nói “thời chiến” nơi đây là nói về thời Đệ Nhị Thế Chiến. Có một phần chưa được khảo sát tận tường, chưa được biết rộng rãi trong lịch sử Đạo Phật tại Hoa Kỳ: đó là một thời chiến tranh trong thế kỷ 20
(Xem: 3110)
Con người luôn luôn bị cái tôi và cái của tôi thống trị, do đó đời sống của nó bị giới hạnđè nặng bởi cái tôi và cái của tôi.
(Xem: 2972)
Bà La Môn Giáo là một Đạo giáoxuất xứ từ Ấn Độ và Đạo nầy đã tồn tại ở đó cho đến ngày nay cũng đã trên dưới 5.000 năm lịch sử.
(Xem: 5879)
Tưởng tri, thức tri và tuệ tri được đức Phật chỉ ra nhằm mục đích phân biệt rõ các cấp độ nhận thức về sự vật hiện tượng.
(Xem: 4644)
Đức Phật không phải là một nhà chính trị theo nghĩa cổ điển, càng không phải là một nhà cách mạng hiểu theo phong cách của chữ nghĩa hôm nay.
(Xem: 3508)
Cái gì chưa biết, gặp lần đầu thấy cũng lạ. Cái gì chưa học, gặp lần đầu thấy cũng lạ. Cái gì chưa biết nói, học nói lần đầu thấy cũng lạ...
(Xem: 2905)
Cuộc sống, nhìn quanh đâu cũng thấy Thật. Bạo động cũng có thật, giả dối cũng là thật, tham dục cũng hiện hữu thật,sợ hải cũng có thậ ….
(Xem: 3320)
Thời nào cũng vậy, xã hội luôn có những biến đổi và khủng hoảng, chính sự đổi thay giúp điều mới mẻ ra đời hoặc phải diệt vong, như một hệ quả duyên khởi.
(Xem: 4437)
Tại Việt Nam, đại đa số các Chùa Bắc Tông đều có Tổ đường để phụng thờ chư liệt vị Tổ sư, Tổ khai sơn ngôi chùa đó và chư hiền Thánh Tăng.
(Xem: 5737)
Phật cũng nhắn nhủ: “Quý vị phải thực tập làm hải đảo tự thân, biết nương tựa nơi chính mình mà đừng nương tựa vào một kẻ nào khác.
(Xem: 6648)
Ở cấp độ đầu tiên của tu tập, trong bản chất con người, việc dâm dục sẽ bắt nguồn cho việc luân hồi (saṃsāric),
(Xem: 3735)
Ngài Huệ Khả xin Sơ Tổ Thiền Tông Bồ Đề Đạt Ma dạy pháp an tâm. Tích này có thể nhìn từ Kinh Tạng Pali ra sao?
(Xem: 4543)
Phật Giáo - Một Bậc Đạo Sư, Nhiều Truyền Thống - Đức Đạt Lai Lạc Ma đời thứ 14, Ni sư Thubten Chodren
(Xem: 4621)
Nhận thức luận trongTriết học cổ điển Ấn-độ và trongTriết học Phật giáo - Gs Nguyễn Vĩnh Thượng
(Xem: 3983)
Kinh Phật dạy có nhiều cách giải nghiệp. Sau đây là trích dịch một số kinh liên hệ tới nghiệp và giải nghiệp.
(Xem: 3413)
Hoàng đế A Dục chấp nhậnquốc giáo rồi đem vào Tích Lan và các nước lân cận, Phật giáo phát triển nhanh chóng ở Đông phươngcuối cùng trở thành tôn giáoảnh hưởng nhất trên thế giới.
(Xem: 4644)
Sự kiện cho kinh này, nói ngắn gọn, theo luận thư, là vì: thành phố Vesali bị nạn dịch, gây chết chóc, đặc biệt với người nghèo. Vì xác chết nằm la liệt, các vong hung dữ bắt đầu quậy phá thành phố...
(Xem: 6071)
Nhiều Phật tử tuy nói là tu theo Đại thừa nhưng thật ra rất ít người biết rõ tông chỉ của Đại thừa hoặc chỉ biết sơ sài, nên việc tu hành không đạt được kết quả.
(Xem: 5852)
Trong các kinh điển có nhiều định nghĩa khác nhau nhưng chữ Niết Bàn (Nirvana) không ngoài những nghĩa Viên tịch (hoàn toàn vắng lặng),
(Xem: 3647)
Nói đến giáo dục chính là xu hướng vươn lên của con người trong lý tính duyên sinh, nhằm đạt thành chân - thiện - mỹ cho cuộc sống chung cùng
(Xem: 4696)
Tinh túy của đạo Phật là: nếu có khả năng, ta nên giúp đỡ người khác; nếu không thể giúp họ, thì tối thiểu nên hạn chế việc gây hại cho họ.
(Xem: 4466)
àm thế nào để các lậu hoặc đoạn tận lập tức? Nghĩa là, không cần trải qua thời gian. Cũng không cần tu Tứ niệm xứ hay Tứ thiền bát định.
(Xem: 4545)
Các pháp không tự sinh Cũng không do cái khác sinh. Không do sự kết hợp cũng chẳng nhân nào sinh. Tất cả đều vô sinh.
(Xem: 4279)
Tới cuối kinh này, Đức Phật dạy về pháp Niết Bàn tức khắc, ngay trong hiện tại, giải thoát ngay ở đây và bây giờ.
(Xem: 4603)
Tôn giáo nào cũng có những nhà truyền giáo, phát nguyện rao giảng những điều mà họ tin là mang đến hạnh phúc cho nhân loại.
(Xem: 8232)
Ấn-độ là một bán đảo lớn ở phía Nam Châu Á. Phía Đông-Nam giáp với Ấn-độ dương (Indian Ocean), phía Tây-Nam giáp với biển Á-rập ( Arabian Sea).
(Xem: 3933)
Nguyên bản: The Inner Structure, Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D., Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 5730)
Thái tử Siddharta Gautama là người đầu tiên đã nghĩ rằng Ngài đã đạt được Giác ngộ. Ngài đã trở thành vị Phật lịch sử. Rồi Ngài đã đem những điều mình giác ngộgiáo hoá cho chúng sanh.
(Xem: 5220)
Căn Bản Hành Thiền - Bình Anson biên dịch 2018
(Xem: 6864)
Luận Duy thức tam thập tụng này được viết với mục đích khiến cho những ai có sự mê lầm ở trong nhân vô ngãpháp vô ngã mà phát sinh ...
(Xem: 6188)
Ba địa mỗi địa mười, Năm phiền não, năm kiến, Năm xúc, năm căn, pháp, Sáu: sáu thân tương ưng.
(Xem: 6003)
Bất cứ sắc gì thuộc quá khứ, vị lai, hiện tại;thuộc nội phần hay ngoại phần, thô hay tế, hạ liệt hay thắng diệu, xa hay gần, mà dồn chung lại, tổng hợp thành một khối. Gọi chung là sắc uẩn.
(Xem: 5818)
Kính lễ Nhất thiết trí, Vầng Phật nhật vô cấu, Lời sáng phá tâm ám Nơi nhân thiên, ác thú.
(Xem: 6311)
Trong cách nghĩ truyền thống, Tứ Thánh đế (Cattāri Ariyasaccāni) được xem là bài pháp đầu tiên khi Đức Phật chuyển pháp luân độ năm anh em Kiều-trần-như.
(Xem: 6801)
Suốt kinh Pháp hội Pháp giới Thể tánh Vô phân biệt, Bồ tát Văn-thù-sư-lợi là người thuyết pháp chính, Đức Phật chỉ ấn khả và thọ ký...
(Xem: 4982)
An cư” là từ không còn xa lạ đối với tín đồ Phật giáo; tuy nó không có nghĩa “an cư lạc nghiệp” của đạo Nho, nhưng khía cạnh nào đó, “lạc nghiệp” mang nghĩa...
(Xem: 5582)
Trung luận, còn gọi là Trung quán luận, bốn quyển, Bồ-tát Long Thọ trước tác kệ tụng, ngài Thanh Mục làm Thích luận, được dịch ra chữ Hán ...
(Xem: 6402)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào?
(Xem: 3796)
Trước tiên là về duyên khởi của Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Theo truyền thuyết, Kinh này được Phật giảng vào lúc cuối đời, được kết tập trong khoảng năm 200.
(Xem: 5429)
Phật và chúng sinh thật ra vẫn đồng một thể tánh chơn tâm, nhưng chư Phật đã hoàn toàn giác ngộ được thể tánh ấy.
(Xem: 10479)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant