Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Vượt Qua Mọi Sự Đau Khổ (song Ngữ)

08 Tháng Năm 201611:05(Xem: 7119)
Vượt Qua Mọi Sự Đau Khổ (song Ngữ)

VƯỢT QUA MỌI SỰ ĐAU KHỔ
Câu Chuyện Về Các Câu Hỏi Của Vua Trời Đế Thích,
Kệ 354 - Kho Báu Sự Thật, Kinh Pháp Cú

Minh Họa - Weragoda Sarada Maha Thero
Chuyển Ngữ: Nguyễn Văn Tiến - Hình Vẽ: P. Wickramanayaka  
Source-Nguồn: www.buddhanet.net

(The Conquests Of All Suffering - The Story Of The Questions Raised By Sakka, Verse 354- Treasury Of Truth,
Illustrated Dhammapada - Weragoda Sarada Maha Thero - Illustrations by Mr. P. Wickramanayaka)

Vượt Qua Mọi Sự Đau Khổ (song Ngữ)


BÀI KỆ 354:

354. Sabbadānaṃ dhammadānaṃ jināti
sabbaṃrasaṃ dhammaraso jināti
sabbaṃratiṃ dhammaratī jināti
taṇhakkhayo sabbadukkhaṃ jināti. (24:21)

354. Món quà tặng về Phật Pháp, cao quý hơn tất cả những món quà tặng khác, Hương vị Phật Pháp, thơm ngọt hơn tất cả những hương vị khác, Hạnh phúc trong Phật Pháp, an lạc hơn tất cả những hạnh phúc khác, Chấm dứt được lòng tham muốn, là xa lìa tất cả mọi khổ đau.

Trong khi cư trú tại Tu Viện Kỳ Viên (Jetavana), Đức Phật đã nói bài kệ nầy, về bốn câu hỏi của Vua Trời Đế Thích (Sakka), vua của các thiên thần.

một lần, trong một buổi họp của các thiên thầncõi trời Tāvatiṃsa (cõi trời Ba Mươi Ba, hoặc là cõi trời Đao Lợi), bốn câu hỏi được đặt ra, và không thiên thần nào có câu trả lời chính xác. Cuối cùng, vua Trời Đế Thích dẫn các thiên thần đến gặp Đức Phật tại Tu Viện Kỳ Viên. Sau khi giải thích sự khó khăn của họ, vua Trời Đế Thích đã thưa hỏi Đức Phật bốn câu hỏi sau đây:

(1) Trong số tất cả những món quà tặng, món quà tặng nào là cao quý nhất?
(2) Trong số tất cả các hương vị, hương vị nào là thơm ngọt nhất?
(3) Trong số tất cả các niềm hạnh phúc, niềm hạnh phúc nào là an lạc nhất?
(4) Tại sao chấm dứt được lòng tham muốn, là việc làm xuất sắc nhất?

Đức Phật đã trả lời các câu hỏi nầy như sau, "Nầy, Đế Thích, Phật Pháp chính là món quà tặng cao quý nhất, là hương vị thơm ngon nhất, và là niềm hạnh phúc an lạc nhất. Chấm dứt được lòng tham muốn, là dẫn đến quả vị A La Hán, cho nên, điều nầy chính là việc làm xuất sắc nhất".

Vào cuối bài giảng, vua Trời Đế Thích nói với Đức Phật, "Bạch Thế Tôn, món quà tặng về Phật Pháp cao quý hơn tất cả các món quà tặng khác, thế thì, bất cứ khi nào những món quà Phật Pháp được biếu tặng, tại sao chúng ta không chia sẻ công đức nầy cho mọi người? Con nguyện cầu rằng, từ bây giờ trở đi, chúng ta có thể chia sẻ giá-trị của việc làm thiện-lành đến với mọi người." Sau đó, Đức Phật yêu cầu tất cả các nhà sư nhóm họp lại, và khuyến khích họ chia sẻ giá trị của việc làm thiện-lành đến cho mọi người (hồi hướng công đức). 

Kể từ ngày đó trở đi, điều nầy đã trở thành một thông lệ cho mọi chúng sanh trong ba-mươi-mốt cõi (bhumis), sau mỗi lần làm xong việc thiện (thí dụ như sau khi nghe Phật Pháp, hoặc tụng kinh), họ sẽ chia sẻ giá trị của việc làm thiện-lành đến cho mọi người (hồi hướng công đức).

BÀI KỆ 354, GIẢI THÍCH TỪ TIẾNG PALI:   

dhammadānaṃ sabbadānaṃ jināti sabbaṃ rasaṃ jināti dhammaratī sabbaṃ ratiṃ jināti
dhammaraso taṇhakkhayo sabbadukkhaṃ jināti

dhammadānaṃ: món quà tặng về Phật Pháp; sabbadānaṃ: tất cả những món quà tặng; jināti: chinh phục; dhammaratī: hương vị của Phật Pháp; ratiṃ sabbaṃ: thơm ngọt hơn tất cả các hương vị khác; jināti: chinh phục; dhammaratī: hạnh phúc trong Phật Pháp; sabbaṃ ratiṃ: an lạc hơn tất cả các hạnh phúc khác; taṇhakkhayo: chấm dứt được lòng tham muốn; sabbadukkhaṃ: tất cả mọi khổ đau; jināti: chinh phục.

Món quà tặng về Phật Pháp, cao quý hơn tất cả những món quà tặng khác; hương vị Phật Pháp, thơm ngọt hơn tất cả những hương vị khác; hạnh phúc trong Phật Pháp, an lạc hơn tất cả những hạnh phúc khác; chấm dứt được lòng tham muốn (nghĩa là, đạt được quả A La Hán), là xa lìa tất cả mọi khổ đau (đau khổ vì phải sống trong vòng sinh-tử).

Bài kệ 354 trong Kinh Pháp Cú nầy, đã được anh Tâm Minh Ngô Tằng Giao chuyển dịch thành thơ như sau:

(354) Coi như bố thí hàng đầu. Là đem Chân Lý nhiệm mầu tặng nhau, Coi như hương vị tối cao. Hương vị Chân Lý ngọt ngào dài lâu. Coi như hoan hỷ hàng đầu. Niềm vui Chân Lý thấm sâu tuyệt vời, Người nào ái dục diệt rồi. Vượt qua phiền não, xa rời khổ đau.

BÌNH LUẬN

sabbadānaṃ Dhammadānaṃ: Món quà tặng về Phật Pháp cao quý hơn tất cả các món quà tặng. Để làm sáng tỏ câu nói trên, Đức Phật còn nói thêm rằng, tất cả những món quà-tặng vật-chất tuyệt vờiấn tượng dâng lên cúng Phật, Pháp và Tăng Đoàn đã xảy ra tốt đẹp, bởi vì trước đó, món quà tặng về Phật Pháp đã xảy ra. Chính món quà tặng về Phật Pháp đã thuyết phục những người tài trợ hiến tặng các đóng góp về vật chất khác. Ngay cả các vị hiền thánh vĩ đại đạt được các quả vị tinh thần cao quý‎, hoàn toàn bởi vì trước đó, họ đã nhận được những món quà tặng về Phật Pháp.

Source-Nguồn: http://www.buddhanet.net/pdf_file/dhammapadatxt1.pdf

 

SHORT TITLE:

The Story Of The Questions Raised By Sakka, Verse 354, Treasury Of Truth

 FULL TITLE:

The Conquests Of All Suffering - The Story Of The Questions Raised By Sakka, Verse 354 - Treasury Of Truth, Illustrated Dhammapada - Weragoda Sarada Maha Thero - Illustrations by Mr. P. Wickramanayaka - Source-Nguồn: www.buddhanet.net

VERSE 354:

354. Sabbadānaṃ dhammadānaṃ jināti
sabbaṃrasaṃ dhammaraso jināti
sabbaṃratiṃ dhammaratī jināti
taṇhakkhayo sabbadukkhaṃ jināti. (24:21)

354. Gift of Dhamma surpasses all gifts,
the Dhamma, its taste all other tastes beats,
delight in the Dhamma bests other delights,
destruction of craving conquers all ill.

While residing at the Jetavana Monastery, the Buddha spoke this verse, with reference to four questions raised by Sakka, king of the devas.

On one occasion, at a meeting of the devas in the Tāvatiṃsa realm, four questions were raised, but the devas failed to get the correct answers. Eventually, Sakka took these devas to the Buddha at the Jetavana Monastery. After explaining their difficulty, Sakka presented the following four questions:

(1) Among gifts, which is the best?
(2) Among tastes, which is the best?
(3) Among delights, which is the best?
(4) Why is the eradication of craving said to be the most excellent?

To these questions, the Buddha replied, “O’ Sakka, the Dhamma is the noblest of all gifts, the best of all tastes and the best of all delights. Eradication of craving leads to the attainment of arahatship and is, therefore, the greatest of all conquests.”

At the end of the discourse, Sakka said to the Buddha, “Venerable, if the gift of the Dhamma excels all gifts why are we not invited to share the merit whenever gifts of the Dhamma are made? I pray that, from now on, we may be given a share in the merit of good deeds.” Then the Buddha asked all the monks to assemble and exhorted them to share the merit of all their good deeds with all beings.

Since then, it has become a custom to invite all beings from the thirty-one realms (bhumis) to come and share merit whenever a good deed is done.

EXPLANATORY TRANSLATION (VERSE 354)

dhammadānaṃ sabbadānaṃ jināti sabbaṃ rasaṃ jināti dhammaratī sabbaṃ ratiṃ jināti dhammaraso taṇhakkhayo sabbadukkhaṃ jināti

dhammadānaṃ: the gift of dhamma; sabbadānaṃ: all gifts; jināti: conquers; dhammaratī: the flavour of the dhamma; sabbaṃ ratiṃ: all flavours conquers; jināti: conquers; dhammaratī: the love of dhamma; sabbaṃ ratiṃ: all loves conquer; taṇhakkhayo: he who has got rid of craving; sabbadukkhaṃ: all sufferings; jināti: conquers.

The gift of the Dhamma excels all gifts; the taste of the Dhamma excels all tastes; delight in the Dhamma excels all delights. The eradication of craving (i.e., attainment of arahatship) overcomes all ills (saṃsāra dukkha).

COMMENTARY

sabbadānaṃ Dhammadānaṃ: The gift of Dhamma conquers all gifts. The Buddha, elucidating this statement, further stated all the great and impressive material gifts to the Buddha, the Dhamma and the Sangha were made possible because, initially, the gift of Dhamma had been made. The gift of Dhamma persuaded the donors to make these other material donations. Even great saints achieved their high spiritual conquests entirely because of the gift of Dhamma they received.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 13050)
Theo Luận Ðại thừa khởi tín, Nhứt Tâm có hai tướng: (1) tướng Chân như, chỉ riêng về phần thể tánh chơn tâm thanh tịnh; dụ như "tánh trong sạch" của nước...
(Xem: 26985)
Qua sự huân tậpảnh hưởng của tam độc tham, sân, si, ác nghiệp đã hình thành, thiết lập những mối liên kết với tâm thức qua những khuynh hướng có mục tiêu.
(Xem: 32831)
Acarya Nagarjuna (A Xà Lê Long Thọ) giữ một địa vị hầu như vô song trong hàng các bậc Thánh Phật giáo trình bày xiển dương lời dạy của Phật Thích Ca Mâu Ni cho lợi lạc của thế giới.
(Xem: 31622)
Bố thí là hạnh đầu tiên trong sáu hạnh của Bồ Tát. Nguyên âm chữ Phạn là Dàna có nghĩa là sự cho, dịch sang tiếng Hán Việt là Bố thí.
(Xem: 32546)
Bát Chánh Đạo rất dễ nhớ, nhưng ý nghĩa của chúng thâm sâu và đòi hỏi một sự hiểu biết về nhiều lãnh vực liên quan trong giáo lý của Đức Phật.
(Xem: 13001)
Có nhiều loại giác ngộ, nhưng bản chất của giác ngộ thì chỉ có một, đó là phá vỡ bức tường ngăn ngại của vô minh để ánh sáng của tự tánh, Phật tánh được dịp bùng lên.
(Xem: 12133)
Lời dạy của đức Phậtpháp môn phương tiện, chứ không phải là chân lý. Vì vậy, học Phật là học pháp môn để tu tập, để chuyển hóa tâm thức, lời nói...
(Xem: 17473)
Không gian nhận thức bị giới hạn, vì thế nó hữu hạn. Khi bạn ngồi trong lớp học, không gian nhận thức bị bao bọc bởi các bức vách, nền nhà và trần nhà.
(Xem: 18698)
Pháp Thân, tự biểu hiện ‘tính không’ và không có sự hiện hữu của thân thể vật lý, mà phải tự hiện thân trong một hình tướng và được biểu hiện như cây trúc...
(Xem: 12546)
Trong kinh Phật có dạy: Chúng ta phải cố gắng tu không thể chần chờ, bởi vì đâu có ai bảo đảm mình sống đến tám mươi tuổi mới chết. Trẻ có cái chết của trẻ...
(Xem: 11748)
Ý thứcvọng tưởng, là những mảnh vụn của tâm thể, là những áng mây đen che mờ mặt trăng tuệ giác, là những lượn sóng dấy động trên mặt biển chân tâm thanh tịnh...
(Xem: 13098)
Đức Phật dạy có năm sự khéo léo trong giao tiếp đem đến nhiều kết quả tốt đẹp. Theo ngài Xá Lợi Phất, không tuân theo năm cách xử sự này sẽ đem đến những hậu quả...
(Xem: 12179)
Trong đời sống chúng ta ai cũng có bản năng tự nhiên mong được hạnh phúc và thoát được đau khổ. Mong cầu được sung sướng là điều chính yếu của tất cả mọi người.
(Xem: 12471)
Khi ta cố chấp vào một sự việc thì tế bào thần kinh không có sự ráp nối dồi dào, khiến ta không nhận biết được những dữ kiện khác của sự thật. Ta trở thành người mù sờ voi...
(Xem: 11626)
Bằng Đạo Pháp, Phật mở ra cho ta một thế giới êm ả, an bìnhhạnh phúc, thay vì bước vào ta lại bước ra. Cái cánh cửa của thế giới đó ta không thấy...
(Xem: 11963)
Tôn chỉ Phật giáochí hướng cao siêu của một chân lý. Chí hướng của Phật là "Tự Giác Giác Tha", có nghĩa là tự mình giác ngộ, thức tỉnh trong giấc mộng vô minh...
(Xem: 10591)
Chúng ta tu Phật, nên biết nhân quả là một giáo lý căn bản của đạo Phật, không thể nào hiểu lơ là hay sơ sài, mà phải hiểu cho tường tận mới khỏi những ngờ vực.
(Xem: 10923)
Bởi con người mang sẵn tính tham lam, thói hèn nhát, nên khi muốn thỏa mãn sự mong cầu, muốn được bình an khi nguy hiểm, đều nảy sanh mê tín dị đoan.
(Xem: 28285)
Chúng ta theo đạo Phật là để tìm cầu sự giác ngộ, mà muốn được giác ngộ thì phải vào đạo bằng trí tuệ, bằng cái nhìn đúng như thật, chớ không thể nhìn khác hơn được.
(Xem: 11156)
Ðạo Phật đã thấm sâu, đâm chồi, mọc rễ và lớn mạnh qua các lãnh vực văn hóa, gia đình, xã hội, nghệ thuật, kiến trúc... để hòa quyện thành nếp sống tâm linh tối thượng.
(Xem: 11350)
Sau khi thành đạo, Đức Phật đã phổ biến con đường giác ngộ cho nhiều người. Giác ngộvô cùng quí báu vì đó là con đường đưa đến sự giải thoát tối thượng của Niết bàn.
(Xem: 13569)
Tất cả mọi phương tiện đều để phục vụ mục tiêu chân lý của cuộc sống, như ngón tay để chỉ mặt trăng; ngón tay phương tiện để hướng đến mặt trăng chân lý.
(Xem: 11031)
Đạo Phật từ Ấn Độ du nhập vào Việt Namhiện hữu với dòng lịch sử dân tộc gần 2000 năm. Trong thời gian ấy, có lúc Phật giáo đưọc các vua chúa ủng hộ...
(Xem: 11420)
Ðạo Phật quan niệm mỗi cấp bực của sự sống đều mang một Thức tương ứng: cấp vi trùng vi khuẩn cũng có Thức của nó, cũng như mỗi tế bào, mỗi mô sinh vật cũng thế...
(Xem: 10889)
Giáo lý Phật giáo thiết lập trên nền tảng đau khổ của con người. Mặc dầu nhấn mạnh vào hiện hữu của sự khổ, nhưng Phật giáo không bao giờ là một giáo lý bi quan.
(Xem: 11174)
Chính thái độ hóa thần thông để giáo hóa chúng sanh đã làm nổi bật giá trị tâm lý hoằng phápĐức Phật của chúng ta đã dùng để hoằng hóa độ sanh.
(Xem: 26307)
Đức Thích Ca Mâu Ni đã vì một đại nguyện lớn lao, một lòng từ vô lượng mà khước từ mọi hạnh phúc, quyền uy, tiện nghi vật chất để cầu đạo giài thoát.
(Xem: 12367)
Hôm nay Đạo Phật đang chuyển đến một hướng mới, và có hàng ngàn người phương Tây đang cố gắng thực hành lời dạy của Đức Phật như một phương pháp sống.
(Xem: 14871)
Nghiên cứu Phật giáo từ quan điểm Hindu là một sự nghiên cứu của Ấn Độ giáo chứ không phải là Phật giáo. Thật sai lầm khi vay mượn để hỗ trợ quan điểm Hindu hiện đại...
(Xem: 11040)
Các Luận sư A-tì-đàm đã thấy rõ những nạn đề đặt ra cho nhận thức về quan hệ nhân quả, cho nên họ đưa ra một khung đề nghị là có năm loại kết quả khác nhau...
(Xem: 20312)
Tâm đại từ bi có hai tính cách: Tính cách cứu khổ thì thay thế chúng sinh mà chịu mọi khổ não cho họ; tính cách cho vui thì có thể bỏ hết tất cả phước lạc mà cho chúng sinh.
(Xem: 12347)
Trong lịch sử tư tưởng của Tánh Không luận, khởi đầu là sự tranh luận về điểm: có nên thừa nhận có một Bản ngã (Pdugala) hay không? Sự tranh luận này được khởi đầu...
(Xem: 11455)
Trước khi nói đến lộ trình của sự tạo nghiệp, cũng cần đề cập đến câu “nhất thiết duy tâm tạo” trong tư tưởng kinh Hoa Nghiêm của Phật giáo để thấy rõ bản chất của nghiệp...
(Xem: 10750)
Con người thoát khỏi tham lam, thù hận và si mê nhiều chừng nào thì hạnh phúc càng gia tăng chừng đó. Niết-bàn sẽ hiện hữu ngay từ bước khởi đầu và rồi thăng tiến...
(Xem: 23886)
Nguyên-thỉ hay cận-đại Phật-giáo vẫn là Phật-giáo, nghĩa là vẫn có mục-đích giải-thoát diệt khổ, vẫn tôn trọng sự sống và chân-lý, vẫn chủ trương từ-bi tế-độ.
(Xem: 11830)
A-hàm còn gọi là A-cấp-ma, A-hàm-mộ. Hán dịch: Pháp quy, nghĩa là nơi quy thú của muôn pháp (Bài tựa KINH TRƯỜNG A-HÀM), còn dịch là "Vô tỷ pháp"...
(Xem: 12279)
Đức Phật tướng hảo trang nghiêm, kim dung từ bi, hàng sơ học chỉ có thể dựa vào thánh tượng mới có thể nhận thức được Phật. Chủng loại thánh tượng của Đức Phật rất nhiều...
(Xem: 12801)
Là đóa hoa ưu tú, tinh ba của dân tộc, là bậc kiệt xuất anh tài của Phật Giáo Việt Nam, sử gia Lê Mạnh Thát đã khai quật những nguồn tài liệu vô cùng quý giá...
(Xem: 11033)
Phong trào phục hưng đạt được động lực khi một số người con của đất nước trở thành những Tăng sĩ Phật giáophục sinh lại sự quang vinh cổ thời của Tăng già.
(Xem: 38687)
Nhà Phật dạy chúng ta giác thẳng nơi con người, chớ đừng tìm cầu bên ngoài. Nếu giác thẳng con người rồi thì ở ngoài cũng giác, nếu mê con người thì ở ngoài cũng mê.
(Xem: 10522)
Ngài luôn luôn cổ súy tinh thần tự lực của mỗi người để tìm lấy sự giải thoát cho chính mình và điều này như là một sợi chỉ xuyên suốt trong toàn bộ hệ thống giáo lý của Phật...
(Xem: 12166)
Giữa thế kỷ thứ I trước công nguyên đến thế kỷ thứ I sau công nguyên, hai thuật ngữ Đại thừa (Mahayana) và Tiểu thừa (Hinayana) xuất hiện trong Diệu pháp liên hoa kinh...
(Xem: 17684)
Lòng bi mẫn thật sự của bạn sẽ tạo ra một bầu không khí yên bình cho người hấp hối nghĩ đến chiều hướng tâm linh cao cả và con đường tu tập của họ trong tương lai.
(Xem: 24998)
Con đường của Đức Phật không phải chỉ có chánh niệm, các pháp hành thiền Chỉthiền Quán, nhưng bao gồm các Giới đức, bắt đầu bằng năm giới căn bản.
(Xem: 10532)
Những kẻ bị phiền não khổ đau, Phật giáo đã chỉ cho họ con đường dẫn đến hòa bình, và hạnh phúc vĩnh cữu cùng giúp họ giải quyết mọi vấn đề phiền toái của cuộc sống.
(Xem: 10732)
Giáo lý đạo Phật được xem là một nền giáo lý thực nghiệm, nhằm giải quyết những vấn đề về con người, đưa con người thoát khỏi những khổ đau trói buộc...
(Xem: 12031)
Trước tiên đề cập vấn đề trên, có lẽ cũng nên xác định lại niên đại đản sinh của thái tử Tất Đạt Đa (Siddhartha) và niên đại nhập diệt của đức Thích Ca Mâu Ni (Sakya Muni).
(Xem: 11296)
Hỷ là một trong bốn vô lượng tâm của nhà Phật. Hỷ là hoan hỷ, vui vẻ. Lòng người Phật tử bao giờ cũng hoan hỷ, và sẵn sàng san sẻ niềm hoan hỷ đó cho mọi người.
(Xem: 11568)
Tam pháp ấn và lý Tứ đế thì tương ứng nhau: chư hành vô thườngKhổ đế; nhân sanh khổ ở nơi không biết chư pháp vô ngã, là Tập đế; Niết bàn tịch tĩnhDiệt đế...
(Xem: 14717)
Trong kinh Chuyển Pháp Luân ngay sau khi Phật giác ngộ và kinh Di Giáo ngay trước khi Phật Niết-bàn, Ngài khuyên các đệ tử của Ngài là không nên xem bói toán, xem quẻ...
(Xem: 21421)
Hoa sen (tên khoa học là Nelumbo Nucifera) là loại hoa mọc lên từ rễ củ nằm dưới lớp bùn đất ở dưới nước, hoa thường có màu trắng, hồng, có khi phơn phớt vàng, xanh...
(Xem: 9879)
Sự chết của con người là một giai đoạn trong chu trình biến thiên bất tận sinh-lão-bệnh-tử. Đầu tiên, tim ngừng đập rồi đến phổi, sau đó đến não; cuối cùng cơ thể phân hủy.
(Xem: 11251)
Trong giáo lý căn bản của đức Phật, vô minh (avijja) là điểm khởi đầu của vòng tròn mười hai nhân duyên (paticca-samuppada) đưa tới sinh tử, khổ đau...
(Xem: 27343)
Thắng Man Phu nhân điển hình cho phụ nữ thực hành Bồ tát đạo bằng cung cách trang nhã, từ ái, khiêm cung. Môi trường thực hành bao gồm từ giới hạn thân thuộc...
(Xem: 11171)
Chúng sanh bị đọa địa ngục, đó là chúng sanh tâm bị đọa lạc vào địa ngục tham, sân, si phiền não. Muốn giải phóng chúng sanh tâm, phải dùng tự tánh Địa Tạng của chính mình.
(Xem: 11820)
Nhà Phật có xác định sáu nguyên tắc để sống trong hòa hợp (Lục hòa). Vốn là để cho tăng già, nhưng nới rộng ra, đối với bất cứ một nhóm người nào cùng chung sống...
(Xem: 11000)
Chân dung toàn cảnh về Học phái Phật giáo cho chúng ta cái nhìn mà qua đó Phân kỳ Phật giáo có thể chia làm 3 thời kỳ, đó là Phật giáo Nguyên thủy, Phật giáo Phát triển...
(Xem: 14287)
Đàn tràng chẩn tế cũng gọi là Trai đàn vì lấy sự trang nghiêm thanh tịnh làm gốc để nhất tâm hồi hướng cho cô hồn, ngạ quỷ được ân triêm công đức.
(Xem: 11464)
Thông thường xá lợi dùng để chỉ cho di cốt của Phật, nên gọi là Phật cốt hay Phật xá lợi. Chữ này về sau cũng dùng để chỉ cho phần xương đầu của các bậc cao tăng...
(Xem: 12622)
Phật giáo không chen chủ quan của mình vào trước hay trong khi suy nghiệm sự thật, và chân lý của đạo Phật là lời kết luận sau sự suy nghiệm chung thực ấy.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant