Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Người Ác Gánh Hậu Quả Ác Do Mình Làm

10 Tháng Năm 201609:12(Xem: 8289)
Người Ác Gánh Hậu Quả Ác Do Mình Làm
NGƯỜI ÁC GÁNH HẬU QUẢ ÁC DO MÌNH LÀM 
Câu Chuyện Về Người Thợ Săn Koka, Kệ 125 - Kho Báu Sự Thật,

Kinh Pháp Cú Minh Họa - Weragoda Sarada Maha Thero -

Chuyển Ngữ: Nguyễn Văn Tiến - Hình Vẽ: P. Wickramanayaka  -
Source-Nguồn: www.buddhanet.net
(Wrong Done To Others Returns To Doer - The Story Of Koka The Huntsman, Verse 125 - Treasury Of Truth,
Illustrated Dhammapada - Weragoda Sarada Maha Thero - Illustrations by Mr. P. Wickramanayaka)

Người Ác Gánh Hậu Quả Ác Do Mình Làm


BÀI KỆ 125:

125. Yo appaduṭṭhassa narassa dussati
suddhassa posassa anaṅgaṇassa
tam’eva bālaṃ pacceti pāpaṃ
sukhumo rajo paṭivātaṃ’va khitto. (9:10)

Khi người ác xúc-phạm người hiền lành và vô tội,
thì hậu-quả của hành-động ác nầy, đánh ngược lại người làm-ác,
cũng giống như khi ném bụi bẩn ngược chiều gió, bụi bẩn bay ngược lại người ném.

Trong khi cư trú tại Tu Viện Kỳ Viên (Jetavana), Đức Phật đã nói bài kệ nầy, về người thợ săn Koka.

Vào một buổi sáng, người thợ săn Koka đi săn mang theo một đàn chó săn, ông ta gặp một nhà sư đi vào thành phố để khất thực. Ông ta cho là một điềm xấu, nên ông ta càu nhàu với chính mình, "Tôi nghĩ tôi sẽ không săn được con thú nào ngày hôm nay đâu, bởi vì tôi đã gặp nhà sư nghèo khổ nầy," rồi ông ta tiếp tục đi săn. Đúng như dự đoán của ông, ông chẳng săn được con thú nào. Trên đường ông về nhà, ông lại gặp nhà sư lúc nẫy, trên đường nhà sư trở về tu viện, và người thợ săn trở nên rất là tức giận. Vì vậy, ông thúc giục những con chó săn đuổi theo cắn nhà sư. Thật là nhanh nhẹn, nhà sư leo lên cành cây cao, vượt ra khỏi tầm với của các con chó săn. Sau đó, người thợ săn đi đến gốc cây, dùng đầu nhọn của mũi tên đâm vào hai gót chân của nhà sư. Nhà sư vì quá đau đớn, cho nên tay nhà sư không thể nào giữ được tấm y choàng; và do đó tấm y của nhà sư bị tuột ra, rơi xuống, rồi choàng ngay lên thân thể của người thợ săn, lúc đó đang đứng ở dưới gốc cây.

Những con chó nhìn thấy tấm y choàng mầu vàng, và nghĩ rằng nhà sư đã rơi xuống từ ngọn cây, nên chúng vồ lấy thân thể người thợ săn, cắn xé, và lôi kéo kịch liệt. Nhà sư, từ chỗ núp trên ngọn cây, bẻ một cành khô và ném cành khô về phía các con chó. Lúc đó, các con chó phát hiện ra rằng chúng đã tấn công nhầm ông chủ của chúng thay vì nhà sư, nên chúng bỏ chạy vào trong rừng. Nhà sư leo xuống cây, rồi nhận thấy rằng người thợ săn đã chết, nhà sư cảm thấy rất tội nghiệp cho người thợ săn. Nhà sư tự hỏi rằng ông có phải chịu trách nhiệm gì về cái chết nầy không, bởi vì người thợ săn đã chết do tấm y của nhà sư choàng lên thân thể của ông ta.

Vì thế, nhà sư đi gặp Đức Phật để ngài làm sáng tỏ những nghi ngờ của nhà sư. Đức Phật nói rằng: "Con ơi, con hãy yên tâm, và đừng có lo lắng gì cả; con sẽ không phải chịu trách nhiệm gì về cái chết của người thợ săn; hạnh kiểm đạo đức (sīla) của con cũng không bị dơ bẩn bởi vì cái chết nầy. Thật thế, người thợ săn nầy đã làm một điều rất là ác đức, vì xúc phạm đến một người hiền lành, và vô tội, do đó, người thợ săn đã phải gánh chịu một kết thúc đau thương như thế nầy."

BÀI KỆ 125, GIẢI THÍCH TỪ TIẾNG PALI:

125. yo appaduṭṭhassa suddhassa anaṅgaṇassa narassa posassa
dussati (taṃ) pāpaṃ paṭivātaṃ khitto sukhumo rajo iva
taṃ bālaṃ eva pacceti

yo: nếu một người nào đó; appaduṭṭhassa: là (thì) không-có tì vết, không-có tính xấu; suddhassa: là (thì) tinh khiết; anaṅgaṇassa: là người không-còn sự nhơ-nhuốc; narassa posassa: đối với một người như vậy; dussati: một người trở nên ác độc; pāpaṃ: hành động xấu xa đó; paṭivātaṃ: ngược gió; khitto: ném; sukhumo rajo iva: giống như bụi bẩn; taṃ bālaṃ eva: đến người thiếu hiểu biết (đó) ; pacceti: ngược lại

Nếu một người thiếu hiểu biết có hành-động ác độc, và thô-tục đến một người trong sạch, không có tì vết, và hiền lành, thì hậu quả của hành-động ác nầy sẽ đánh ngược lại người làm-ác. Cũng giống như khi ném bụi bẩn ngược chiều gió. Bụi bẩn bay ngược lại người ném.

Bài kệ 125 trong Kinh Pháp Cú nầy, đã được anh Tâm Minh Ngô Tằng Giao chuyển dịch thành thơ như sau:

(125) Khi mà kẻ ác hại người. Tâm tư trong sạch, cuộc đời hiền lương, Ác kia trở lại thảm thương. Gây cho kẻ ác trăm đường khổ thay. Tựa như ngược gió vung tay. Tung ra bụi bẩn, bụi bay lại mình.

BÌNH LUẬN:

anaṅgaṇassa: đến (tới) một người không-còn sự nhơ-nhuốc - aṅganas. Aṅganas là các sự nhơ-nhuốc mà được sinh ra từ rāga (lòng tham muốn, sự đam mê), dosa (sân hận, ý xấu), và moha (si mê, thiếu hiểu biết). Ba điều trên (tham sân si) được mô tả như là aṅganas (nghĩa đen, là khoảng không gian rộng lớn; là sân chơi đùa rông lớn) bởi vì điều-ác có thể chơi đùa với tham-sân-si hoàn toàn tự do, mà không bị cản trở. Đôi khi, 'các vết bẩn', cũng được gọi là aṅgana. Nguyên thủy của từ ngữ aṅgana, cũng có nghĩa là khả năng làm xấu xa, một người bị nhơ nhuốc bởi vì các tật xấu. Trong một số trường hợp, aṅgana có nghĩa là bụi đất, sự dơ bẩn. Một người nào không-còn sự nhơ-nhuốc được gọi là anaṅgana.

Source-Nguồn: http://www.buddhanet.net/pdf_file/dhammapadatxt1.pdf

 

Wrong Done To Others Returns To Doer
 The Story Of Koka The Huntsman,
Verse 125 - Treasury Of Truth, Illustrated Dhammapada - Weragoda Sarada Maha Thero - Illustrations by Mr. P. Wickramanayaka - Source-Nguồn: www.buddhanet.net

VERSE 125:

125. Yo appaduṭṭhassa narassa dussati
suddhassa posassa anaṅgaṇassa
tam’eva bālaṃ pacceti pāpaṃ
sukhumo rajo paṭivātaṃ’va khitto. (9:10)

Who offends the inoffensive,
the innocent and blameless one,
upon that fool does evil fall
as fine dust flung against the wind.

While residing at the Jetavana Monastery, the Buddha spoke this verse, with reference to Koka the huntsman.

One morning, as Koka was going out to hunt with his pack of hounds, he met a monk entering the city for almsfood. He took that as a bad omen and grumbled to himself, “Since I have seen this wretched one, I don’t think I would get anything today,” and he went on his way. As expected by him, he did not get anything. On his way home also, he saw the same monk returning to the monastery, and the hunter became very angry. So he set his hounds on the monk. Swiftly, the monk climbed up a tree to a level just out of reach of the hounds. Then the hunter went to the foot of the tree and pricked the heels of the monk with the tip of his arrow. The monk was in great pain and was not able to hold his robes on; so the robes slipped off his body on to the hunter who was at the foot of the tree.

The dogs seeing the yellow robe thought that the monk had fallen off the tree and pounced on the body, biting and pulling at it furiously. The monk, from his shelter in the tree, broke a dry branch and threw it at the dogs. Then the dogs discovered that they had been attacking their own master instead of the monk, and ran away into the forest. The monk came down from the tree and found that the hunter had died and felt sorry for him. He also wondered whether he could be held responsible for the death, since the hunter had died for having been covered up by his yellow robes.

So, he went to the Buddha to clear up his doubts. The Buddha said, “My son, rest assured and have no doubt; you are not responsible for the death of the hunter; your morality (sīla) is also not soiled on account of that death. Indeed, that huntsman did a great wrong to one to whom he should do no wrong, and so had come to this grievous end.”

EXPLANATORY TRANSLATION (VERSE 125)

yo appaduṭṭhassa suddhassa anaṅgaṇassa narassa posassa
dussati (taṃ) pāpaṃ paṭivātaṃ khitto sukhumo rajo iva
taṃ bālaṃ eva pacceti

yo: if someone; appaduṭṭhassa: is unblemished; suddhassa: is pure; anaṅgaṇassa: is free of defilements; narassa posassa: to such a human being; dussati: a person were to become harsh; pāpaṃ: that evil act; paṭivātaṃ: against the wind; khitto: thrown; sukhumo rajo iva: like some fine dust; taṃ bālaṃ eva: to that ignorant person himself; pacceti: returns

If an ignorant person were to become harsh and crude towards a person who is without blemishes, pure, and is untouched by corruption, that sinful act will return to the evil-doer. It is very much like the fine dust thrown against the wind. The dust will return to the thrower.

COMMENTARY

anaṅgaṇassa: to one bereft of defilements – aṅganas. Aṅganas are defilements that are born out of rāga (passion), dosa (ill-will), and moha (ignorance). These are described as aṅganas (literally, open spaces; play-grounds) because evil can play about in these without inhibition. At times, ‘stains’, too, are referred to as aṅgana. Etymologically, aṅgana also means the capacity to deprave a person defiled by blemishes. In some contexts, aṅgana implies dirt. An individual who is bereft of defilements is referred to as anaṅgana.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1614)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển. Phật thuyết từ chứng ngộ
(Xem: 1737)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định. Định có nghĩa là tâm hành giả trụ vào một đối tượng nào đó khiến cho ý không bị tán loạn, dần dần tâm ý trở nên trong sáng và phát sinh trí tuệ.
(Xem: 1304)
Chúng ta đau khổ do vì vô minh, cho nên chúng ta cần phải đoạn trừ những quan điểm lệch lạc sai lầm và phát triển quan điểm đúng đắn.
(Xem: 993)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh, bất đoạn và bất thường, bất nhất và bất dị, bất lai và bất xuất, là sự tịch diệt mọi hý luận, và là an ổn.
(Xem: 1304)
Lý tưởng giáo dục và những phương pháp thực hiện lý tưởng này, hiển nhiên Phật giáo đã có một lịch sử rất dài.
(Xem: 1781)
Tuệ Trung Thượng Sĩ (慧中上士), Thiền sư Việt Nam đời Trần (1230-1291) có viết trong bài Phóng cuồng ngâm (放狂吟):
(Xem: 1353)
Nhân loại luôn luôn hướng về sự hoàn thiện của chính mình trong tất cả mọi mặt, vật chấttinh thần.
(Xem: 1458)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết nên quyết chí xuất gia học đạo. Đức Phật thành đạo tại thế gian này và cũng hoằng pháp bốn mươi chín năm cũng tại thế gian này.
(Xem: 1284)
Có phải bạn rất đỗi ngạc nhiên về tiêu đề của bài viết này? Có thể bạn nghĩ rằng chắc chắn có điều gì đó không ổn trong câu chuyện này, bởi vì lịch sử về cuộc đời của đức Phật xưa nay không hề thấy nói đến chuyện đức Phật đi tới Châu Âu và Châu Phi. Bạn nghĩ không sai.
(Xem: 2575)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1276)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông, như một số vị thầy hiện nay đã ngộ nhận, khi nói rằng pháp môn này xuất phát từ Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết
(Xem: 1303)
Trong quá trình phát triển, Phật giáo xuất hiện tư trào Đại thừa, nhấn mạnh lý tưởng Bồ tát đạo.
(Xem: 1583)
Tuy Phật giáo Nguyên thủyđại thừa có hai con đường đi đến giải thoát giác ngộ khác nhau.
(Xem: 1562)
Trong cuộc sống này, ai cũng muốn mình có được một sự nghiệp vẻ vang. Người đời thì có sự nghiệp của thế gian.
(Xem: 1529)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1361)
Nhận thức Phật giáo về chân lý có lẽ là một trong những mối quan tâm hàng đầu với những ai đang nghiên cứu hoặc tìm hiểu đạo Phật.
(Xem: 2500)
Con người sống do và bằng ý nghĩ. Ý nghĩ cao cấp thì cuộc sống trở nên cao cấp; ý nghĩ thấp kém thì cuộc sống thành ra thấp kém.
(Xem: 1511)
Đạo nghiệpsự nghiệp trong đạo. Tuy nhiên cái gì hay thế nào là sự nghiệp trong đạo thì cần phải phân tích cặn kẽ để hiểu đúng và thành tựu đúng như pháp.
(Xem: 1498)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1282)
Lục Tổ Huệ Năng, từ khi đến học với Ngũ Tổ một thời gian ngắn ngộ được bản tâm, rồi trải qua mười lăm năm với đám thợ săn
(Xem: 1331)
Của báu thế gian chỉ tồn tại khi ta còn thở. Ngay khi chúng ta nằm xuống, chúng sẽ thuộc về người khác.
(Xem: 1493)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả vinh hoa phú quý...
(Xem: 1450)
Trong cả Phật giáo Nguyên thủy lẫn Phật giáo Đại thừa đều có tư tưởng về Bồ tát. Các ngài xả thânhạnh nguyện mang lại lợi lạc cho chúng sanh
(Xem: 1333)
Một người đã phát tâm Bồ đề được gọi là một Bồ tát. Đời sống Bồ tát là chiến đấu chống lại sự xấu ác trong lòng người để giải thoát họ khỏi khổ đau.
(Xem: 1300)
Xung đột là một hiện tượng phổ biến. Nó hiện diện khắp mọi ngõ ngách của cuộc sống, từ trong những mối quan hệ ...
(Xem: 1413)
Trong Kinh tạng, khái niệm nghiệp thường được nhắc đến một cách đơn giản và khái quát như nghiệp thiện, ác hoặc nghiệp của thân, miệng, ý.
(Xem: 2064)
Đức Phật Dược sư là một đấng Toàn giác. Để hiểu rõ ngài là ai, bản thể của ngài là gì, vai trò của ngài như thế nào…, trước tiên chúng ta cần hiểu thế nào là một chúng sinh giác ngộ.
(Xem: 1442)
Chơn Thật Ngữ chính là Phật ngữ, là chánh pháp ngữ, là thanh tịnh ngữ vì nó đem lại niềm tin sự hoan hỷ an lạclợi ích chúng sanh.
(Xem: 1409)
Ý thức thì suy nghĩ như thế này, nếu sanh thì không phải là diệt, nếu thường thì không phải là vô thường, nếu một thì không phải khác
(Xem: 1502)
Theo kinh điển Phật giáo, việc lắng nghe chính xác, rõ ràng và đầy đủ là một trong những nền tảng quan trọng để thành tựu trí tuệ.
(Xem: 1746)
Chân lý Phật, vừa giản dị vừa rất thâm sâu. Vì thế, Đức Phật đã mượn những câu chuyện dụ ngôn, gắn với hình ảnh của ...
(Xem: 1425)
Tích Niêm Hoa Vi Tiếu kể rằng một hôm trên núi Linh Thứu, Đức Thế Tôn lặng lẽ đưa lên một cành hoa.
(Xem: 1290)
Kinh Pháp Hoa, hay Kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma Puṇḍarīka Sūtra), là một trong những bộ kinh quan trọng
(Xem: 1565)
Khi ánh sao mai vừa tỏ rạng cũng là lúc Đức Phật thành tựu chân lý tối thượng.
(Xem: 1307)
Tất cả các pháp tướng Như hay lìa tướng Như đều không thối chuyển đối với Vô thượng Giác ngộ
(Xem: 1595)
Tất cả chúng sinh mê hoặc điên đảo từ vô thỉ. Nay dùng giác pháp của Phật khai thị, khiến chúng sinh nghe mà ngộ nhập.
(Xem: 2208)
Người tu hành theo Phật Giáo nhắm mục đích là tự mình chứng ngộ và vận dụng cái Tâm đó.
(Xem: 1373)
Về cơ bản, lý duyên khởi giải thoát mô tả tâm lý của thiền, nghĩa là, những gì xảy ra trong tiến trình hành thiền được hành giả trải nghiệm từ lúc đầu cho đến lúc cuối.
(Xem: 1847)
Trong bài này sẽ trích vài đoạn kinh của Kinh Ma ha Bát nhã ba la mật, phẩm Đại Như thứ 54, do Pháp sư Cu Ma La Thập dịch để tìm hiểu về Chân Như.
(Xem: 1574)
Còn gọi là Quy Luật Duyên Khởi, vì đó là lý thuyết về quy luật tự nhiên, quy luật không thuộc về của riêng ai.
(Xem: 1664)
Hình thành tại Ấn Độ từ thế kỷ VI trước Công nguyên, Phật giáo đã phát triển việc truyền bá chánh pháp khắp xứ Ấn Độ và...
(Xem: 1514)
Khi hiểu được việc lành dữ đều có quả báo tương ứng, chỉ khác nhau ở chỗ đến sớm hay muộn mà thôi,
(Xem: 1856)
Tư tưởng chủ đạo của Thuyết nhất thiết Hữu Bộ là: “các pháp ba đời luôn thật có, bản thể luôn thường còn”,
(Xem: 1565)
Xa lìa tà hạnh (không tà dâm) có nghĩa chính yếu là nguyện chung thủy với người bạn đời của mình.
(Xem: 1352)
Người đệ tử Phật thực hành pháp thứ hai một cách hoàn hảo là không trộm cướp, chính xácxa lìa việc lấy của không cho.
(Xem: 1626)
Sau khi phát tâm quy y Tam bảo, người Phật tử được khuyến khích giữ giới (thực hành năm pháp), giới thứ nhất là xa lìa sát sinh.
(Xem: 1483)
Phải nói rằng Tăng đoàn là sự đóng góp rất lớn cho hạnh nguyện độ sanh của Đức PhậtTăng đoàn đã thay Phật để truyền bá Đạo
(Xem: 1444)
Đứng trước biến động khó khăn của cuộc đời, Phật giáo với tinh thần từ bitrí tuệ, lấy tôn chỉ Phật pháp bất ly thế gian pháp đã
(Xem: 1240)
Trong bài Kinh Devadaha, Đức Phật đã luận giải chi tiết về nghiệp. Trái ngược với quan điểm cho rằng nghiệp là định mệnh luận,
(Xem: 1165)
Trong kinh điển tiểu thừa có một điểm khác biệt rất rõ nét so với kinh điển đại thừa, đó là bối cảnh thuyết pháp của Đức Phật.
(Xem: 1207)
Lịch sử tư tưởngtôn giáo của nhân loại có lẽ sẽ đánh dấu một bước ngoặt vào ngày đức Phật, theo truyền thuyết,
(Xem: 1432)
Trong Jataka, tức là những câu chuyện tiền thân của Đức Phật khi ngài còn là một Bồ tát, ngài có nói về hạnh Bồ tát trong...
(Xem: 1541)
Giáo lý Duyên khởi là nền tảng của triết học Phật giáo, do đó luôn là tâm điểm của những nghiên cứu về sự uyên nguyên của đạo Phật.
(Xem: 1515)
Đức Phật khẳng định: “Trong giáo pháp nào nếu khôngtám Thánh đạo thời ở đó không có quả vị Sa-môn thứ nhất, thứ nhì, thứ ba, thứ tư.
(Xem: 956)
Duyên khởi có nghĩa là hết thảy hiện tượng đều do nhân duyên mà phát sinh, liên quan mật thiết với nhau, nương vào nhau mà tồn tại. Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính,” không có yếu tính quyết định.
(Xem: 1402)
Trong các kinh điển thuộc Hán tạng, ‘Phật thị hiện thuyết pháp’ có thể được xem như là một ‘thuật ngữ’ quen thuộc, phổ biến đối với quý Phật tử Đại Thừa.
(Xem: 1415)
Con người được sinh ra đời, sống trong cuộc đời nhưng càng lớn lên càng cảm thấy mình như vẫn thiếu thốn cái gì, như vẫn là một người thất lạc.
(Xem: 1553)
Có lần khi nói về tám thức tâm vương trong Duy thức học, một người hỏi rằng “con người lo sợ là do thức nào?”.
(Xem: 1798)
Giác ngộ cũng tức là giải thoát. Giải thoát cái gì ? Giải thoát khỏi sinh tử luân hồi, điên đảo mộng tưởng, giống như người đang nằm mơ chợt tỉnh dậy,
(Xem: 1402)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant