Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Như Lai Thọ Lượng

14 Tháng Năm 201607:07(Xem: 8020)
Như Lai Thọ Lượng

NHƯ LAI THỌ LƯỢNG

Nguyễn Thế Đăng

Như Lai Thọ Lượng

 

Như Lai thọ lượng là phẩm thứ 16 của kinh Pháp Hoa.

Trước khi nói về thọ lượnggiác ngộ của Như Lai, Đức Phật đã nói ba lần: “Các ông phải tin hiểu lời nói chắc thật của Như Lai”. Chữ “thật” này còn được nhắc lại năm lần nữa trong phẩm ngắn chưa tới mười trang này.

Lời nói chắc thật của Đức Phật là: “Thật ta thành Phật đến nay đã vô lượng vô biên trăm nghìn muôn ức vô số kiếp”. Như Lai đã thành Phật từ vô lượng vô biên kiếp, nghĩa là thọ lượng của Như Lai cũng đã vô lượng vô biên kiếp. Thọ lượnggiác ngộ của Như Lai là một, và sẽ trải dài đến tương lai vô lượng vô biên. Đức Phật nói “sẽ diệt độ, chỉ vì chúng sanh mà dùng phương tiện nói”.

Đến nay vô lượng kiếp
Vì độ chúng sanh vậy
Phương tiện hiện Niết-bàn
thật không diệt độ
Thường trụ đây thuyết pháp.

Thọ lượng giác ngộPháp thân của Đức Phật Thích-ca và cũng là của tất cả chư Phật thì luôn luôn hiện hữu từ vô thủy đến vô chung.

Với chúng ta, tin là tin rằng cuộc đời chúng ta, dù có thế nào, luôn luôn nằm trong thọ lượnggiác ngộ vô lượng vô biên của Như Lai. Thật ra, chúng ta đang sống trong thọ lượng giác ngộ vô lượng vô biên của Như Lai. Cuộc đời của mỗi chúng ta, dù ngắn ngủi, bấp bênh, lên xuống, thành bại thế nào đi nữa thì cũng luôn luôn trùng khít với thọ lượng giác ngộ vô lượng vô biên của Như Lai. Nghiệp riêng của mỗi chúng ta có là gì đi nữa, nghiệp của thế giới chúng sanh, của tất cả sự vật, của tất cả chư thánh hiền có là gì đi nữa, thì vẫn nằm trong và luôn luôn trùng khít với thọ lượng giác ngộ vô hạn của Như Lai. Như một giọt nước trong đại dương thì luôn luôn nằm trong và trùng khít với đại dương.

Tin nghĩa là hiểu, hiểu tức là tin. Tin hiểu cuộc đời hữu hạn vô thường, với hạnh phúc và khổ đau của chúng ta và tất cả mọi chúng sanh, luôn luôn là một với thọ lượng giác ngộ vô biên không giới hạn của Như Lai. Tin hiểu là thấy biết được rằng cuộc sống của mỗi chúng tathọ lượng giác ngộ vô tận. Tin hiểu là thấy biết được rằng sự hiện hữu của mỗi chúng ta, của thế giới, chúng sanh và sự vật là thọ lượng giác ngộ vô tận. Tất cả là sự thị hiện của thọ lượng giác ngộ vô lượng vô biên của Như Lai.

Thế nên kinh Hoa Nghiêm nói: “Ba nghiệp thân khẩu ý trở thành vô biên” (Phẩm Thập định, thứ 27).

Không có sự vật nào, không có chúng sanh nào có thể nằm ngoài, tách biệt với thọ lượng giác ngộ vô biên của Như Lai. Một sát-na là một khoảnh khắc. Trong một sát-na có ít nhất 60 lần sanh diệt. Những sanh diệt trong khoảng sát-na đó vẫn là thọ lượng giác ngộ vô biên của Như Lai. Mỗi vi trần là một không gian nhỏ nhất, không thể nằm ngoài, tách biệt với thọ lượng giác ngộ vô biên của Như Lai, nên chính nó là thọ lượng giác ngộ vô biên của Như Lai.

Phẩm Thí Dụ, thứ ba, đức Phật nói: “Hiện nay ba cõi này, đều là của ta cả”. “Của ta”, nghĩa là ba cõi này, cho đến mỗi sát-na và mỗi vi trần, đều của thọ lượng giác ngộ Như Lai và là thọ lượng giác ngộ vô biên của Như Lai.

“Ba cõi là của ta”, không có sự vật nào, chúng sanh nào nằm ngoài, khác biệt với cái của ta này. Không có sự vật nào không là cái của ta này. Của ta là thọ lượng giác ngộ của Như Lai.

Vì trong cái thấy biết của Đức Phật thì ba cõi chính là “thật tướng của tất cả các pháp”:

“Vì Như Lai như thật thấy biết tướng của ba cõi, không có sanh tử, hoặc lùi mất, hoặc xuất hiện, cũng không ở đời hay diệt độ, chẳng có thật, chẳng không hư, chẳng phải như, chẳng phải khác, chẳng như ba cõi mà thấy ba cõi. Các việc như vậy, Như Lai thấy rõ, không có sai lầm”. (Phẩm Như Lai thọ lượng, thứ 16).

Tất cả các pháp là thọ lượng giác ngộ vô biên của Như Lai:

Vì tất cả các pháp
Thảy đều là không tịch
Không sanh cũng không diệt
Không lớn cũng không nhỏ
Vô lậuvô vi.
(Phẩm Tin Hiểu, thứ 4).

Tất cả các pháp, con ngườithế giớithọ lượng giác ngộ của Như Lai, đây là tính cách thiêng liêng rốt ráo của thế giới.

Thấy tất cả chúng sanh trong thọ lượng giác ngộ của Như Lai, đây là tâm từ rốt ráo.

Tất cả chúng sanhthọ lượng giác ngộ của Như Lai mà họ không hay biết, đây là đồng thể đại bi.

Tin hiểu sanh mạng mình là thọ lượng giác ngộ Như Lai vô biên vô tận, đây là giải thoát.

Thấy tất cả những lỗi lầm của mình đều xảy ra trên và trong thọ lượng giác ngộ của Như Lai, đây là chân sám hối…

(Tạp chí Văn Hóa Phật Giáo số 242+243)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 7323)
“Thừa Tự”, theo quan niệm phong kiến xưa, có nghĩa là thọ hưởng của “hương hỏa” với trách nhiệm nối dõi việc thờ cúng Tổ tiên.
(Xem: 4503)
Nhà nghiên cứu phật học K.SCHMIDT1 đã có lần nêu lên những điểm tương đồng giữa tri thức luận của Kant và của Phật học,
(Xem: 4550)
Theo đức Phật, vũ trụ không có khởi nguyên, không có tận cùng và khoảng không vũ trụ vốn vô tận, gồm vô số thế giới như cát sông Hằng (Gangânadivâlukopama).
(Xem: 7285)
Phàm tất cả vạn pháp, vạn hữu trong vũ trụ được sanh ra và có mặt trên thế gian này đều có nguyên nhân, nguyên do đầu mối của nó.
(Xem: 2946)
Chữ khám phá ở đây rất chính xác. Không có sự truyền giáo của đạo Phật đến người Tây phương. Và, tuy người Âu châu khám phá đạo Phật rất trễ, nhưng đó là sự khám phá vô cùng lý thú.
(Xem: 12178)
“Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao Tăng làm sáng cho Phật giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ 6 mãi đến nay đều là các Thiền sư.”
(Xem: 3979)
“Nguyên nhân hình thành Phật giáo Đại Thừa” là một đề tài có phạm trù không rộng lắm, nên ít có người khảo sát và nguồn tư liệu về nó cũng rất hạn chế.
(Xem: 3792)
Những gợi ý dưới đây có thể giúp chúng ta lĩnh hội được ý nghĩa thâm sâu, khó hiểu của kinh một cách hiệu quả, đồng thời giữ gìn sự trung thực với nội dung của ý kinh.
(Xem: 4177)
Giải thoát nghĩa là cởi mở những dây ràng buộc mình vào một hoàn cảnh đau khổ nghịch ý.
(Xem: 3663)
Trong hệ thống kinh tạng Đại thừa, Pháp Hoa là một trong những bộ kinh quan trọng và phổ biến nhất.
(Xem: 5020)
Niết-bàn (Nirvana, Nibbana) là khái niệm của Phật giáo, một tôn giáo không công nhận và không thừa nhậnThượng Đế, có thần, có linh hồn trường cửu.
(Xem: 6640)
Bài này sẽ khảo sát một số khái niệm về các hiện tướng của tâm, dựa theo lời dạy của Đức Phật và chư Tổ sư
(Xem: 3985)
Tôi ngồi đây lắng nghe quý thầy cô tụng bài kinh Bát Nhã thật hay. Ví như ngài Huyền Trang ngày xưa tuyển dịch nhiều bài Tâm kinh như thế này để ...
(Xem: 4106)
Như Lai ngài đã du hành Đạo lộ tối thắng vượt trên các ca tụng Nhưng với tâm tôn kínhhoan hỷ Tôi sẽ ca tụng Đấng vượt trên ca tụng.
(Xem: 5321)
Quy nghĩa là “quay về, trở về” hay “hồi chuyển (tâm ý)”. Y là “nương tựa”. Quy Y cũng có nghĩa là “Kính vâng” hay “Phục tùng”. Tam là chỉ ba ngôi Phật, Pháp, Tăng.
(Xem: 3776)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả
(Xem: 4512)
Từ xưa đến nay, hàng xuất gia (Sa-môn, Bà-la-môn) tu hành không trực tiếp lao động sản xuất để tạo ra của cải vật chất nên đời sống phụ thuộc vào sự bố thí, cung cấp, cúng dường của hàng tín đồ tại gia.
(Xem: 3538)
Sống chếtvấn đề lớn nhất của đời người. Trong đạo Phật, chữ sanh tử (sống chết) là một từ được nhắc đến thuộc loại nhiều nhất
(Xem: 3920)
Kinh Kim Cang Bát Nhã được ngài Cưu Ma La Thập (344-413) dịch từ tiếng Phạn sang Hán văn, và được thái tử Chiêu Minh (499-529) chia bố cục ra 32 chương.
(Xem: 4383)
Đức Phật xuất hiện trên thế gian như mặt trời phá tan màn đêm u tối. Giáo pháp của Ngài đã mang lại những giá trị phổ quát cho...
(Xem: 5384)
Khái niệm Niết-Bàn không phải là sản phẩm bắt nguồn từ Phật Giáo, mà nó đã xuất hiện từ thời cổ đại Ấn Độ khoảng hơn 4,000 năm trước Tây Lịch.
(Xem: 3837)
Quán Thế Âm tiếng Sanskrit là Avalokitésvara. Thuật ngữ Avalokitésvara vốn bắt nguồn từ hai chữ Avalokita và isvara
(Xem: 3921)
Trong khi thế giới đang có nhiều biến động phức tạp, chiến tranh, khủng bố, thù hận diễn ra khắp nơi, mâu thuẩn chính trị, kinh tế, và văn hóa luôn là vấn đề nan giải.
(Xem: 3856)
Trong cõi đời, chúng ta phải chịu đựng những sự đau đớn, khổ não nơi thân và tâm, nhưng tâm bệnh có thể được chữa khỏi bằng Phật pháp.
(Xem: 4815)
Thiên Trúc (天竺) là tên mà người Trung Quốc thường gọi cho Ấn Độ cổ đại. Nó cũng được dịch “Trung tâm của cõi trời”, (nghĩa là trung tâm tinh thần);
(Xem: 4501)
Thông thường hai chữ tu hành đi đôi với nhau; sử dụng quá quen nên hiểu một cách chung chung, đã giảm tầm mức quan trọng mà tự thân nó mang một ý nghĩa sâu sắc.
(Xem: 4235)
Đã hơn 2500 năm kể từ khi Đức Phật Thích Ca đã nhập Niết Bàn. Hiện tại chúng ta sống trong thời đại gọi là “Mạt Pháp”, trong đó ta không thể nào thấy Đức Phật thực sự được nữa.
(Xem: 3819)
Pháp thân của chư Phật, là muốn nhấn mạnh đến loại pháp thân không còn ẩn tàng trong thân ngũ uẩn như pháp thân của chúng sinh.
(Xem: 4615)
Giáo lý Tam thân (trikāya), như đã được tất cả các tông phái Phật giáo Đại thừaTrung QuốcNhật Bản chấp nhận hiện nay
(Xem: 4175)
Ngày xưa chúng đệ tử của Đức Phật có nhiều hạng người khác nhau. Tùy theo căn cơ của mỗi người, Đức Phật áp dụng phương pháp giáo hóa khác nhau.
(Xem: 6084)
Ngày nay, chúng ta thấy hầu hết các ảnh, tượng của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đều được tạo hình có tóc, điều này khiến
(Xem: 4589)
“Chiếc đồng hồ của tôi không đánh số 1 đến 12 mà chỉ có ‘now’, ‘now’, ‘now’ để nhắc nhở rằng ta đang sống”,
(Xem: 4933)
Trong tác phẩm Jataka, truyện số 238 đã đề cập về chuyện một chữ (ekapadaṃ) nhưng có nhiều nghĩa (anekatthapadassitaṃ).
(Xem: 4145)
Về tiểu sửcông nghiệp của Huyền Trang (602-664) chúng ta đã có phần viết riêng trong phần phụ lục của sách Kinh Phật
(Xem: 4795)
Đã sanh làm kiếp con người, có ai mà không khổ? Cái khổ nó theo mình từ nhỏ đến khi khôn lớn, và sẽ khổ hoài cho tới...
(Xem: 5642)
Khi Bồ-tát Long Thọ nói “bất sanh bất diệt” thì hẳn nhiên trước đó phải có cái gì đó có sanh và diệt.
(Xem: 3621)
Trong nghĩa đơn giản nhất, tu Hạnh Bồ Tát là những người ra sức hoằng pháp và không muốn Chánh pháp bị đoạn đứt, bất kể người này có thọ giới Bồ Tát hay không.
(Xem: 4018)
Bài viết này sẽ khảo sát về Vô Tướng Tam Muội, một pháp môn ít được chú ý hiện nay.
(Xem: 4576)
Cứ mỗi lần chúng ta chứng kiến người thân qua đời là mỗi lần chúng ta đau xót, buồn rầu, vì từ nay chúng ta vĩnh viễn sẽ không bao giờ được nhìn thấy người thân yêu đó trên cõi đời này nữa.
(Xem: 5260)
Như các phần trước đã nói, chân tâm không sinh diệt và vọng tâm sinh diệt luôn tồn tại nơi mỗi con người chúng ta.
(Xem: 3128)
Thiền học là một môn học nhằm mục đích đào luyện trí tuệ để được giác ngộgiải thoát sanh tử mong đạt đến niết bàn tịch tịnh
(Xem: 4738)
Khi đức Phật đản sinh, trên trời có chín rồng phun hai dòng nước ấm mát tắm rửa cho Ngài
(Xem: 4524)
Mỗi độ tháng Tư về, trong tâm thức của những người con Phật đều hiển hiện hình ảnh huy hoàng Phật đản sinh bước đi trên bảy đóa sen
(Xem: 4272)
Phật giáo Đại thừa có cách nhìn nhận mới về đức Phật và lời dạy của ngài.
(Xem: 4731)
Đức Phật Thích Ca là một đức Phật lịch sử xuất hiện giữa thế gian để dẫn dắt chúng sinh thoát khỏi khổ đau, đạt đến an lạc giải thoát.
(Xem: 4479)
Con người được sanh ra từ đâu là một nghi vấn vô cùng nan giải cho tất cả mọi giới và mãi cho đến thế kỷ 21 này vấn đề con người vẫn còn phức tạp chưa được ai minh chứng cụ thể.
(Xem: 4584)
Kinh Pháp Cú dành riêng hẳn một phẩm gọi là “Phẩm Tỳ kheo” để đề cập tới các người xuất gia.
(Xem: 7197)
Cuộc sống biến đổi không ngừng, mỗi một thời gian, mỗi một thế hệ có cách sống và nghĩ suy ứng xử có khác nhau.
(Xem: 5186)
Trước hết, thời gian vật lý là khách quan và tồn tại bên ngoài tâm trí con người và là một phần của thế giới tự nhiên, thứ hai, thời gian tâm lý chủ quan và có sự tồn tại phụ thuộc vào ý thức.
(Xem: 4983)
Hôm nay nhân ngày đầu năm, tôi có vài điều nhắc nhở tất cả Tăng Ni, Phật tử nghe hiểu ráng ứng dụng tu để xứng đáng với sở nguyện của mình.
(Xem: 4571)
Huyễn: Có nhiều nghĩa như tạm bợ, hư dối, phù du, huyễn hoặc, ảo ảnh, thay đổi luôn luôn, có đó rồi mất đó, biến dịch hoài trong từng sát-na.
(Xem: 5590)
Ngạ quỷ nghe kinh là một trong những đề tài khá quen thuộc trong kinh Phật. Người phàm thì không ai thấy loài ngạ quỷ, trừ một vài trường hợp đặc biệt.
(Xem: 5255)
Từ thế kỷ trước, người ta đã tìm được rải rác các thủ cảo (manuscripts) kinh Phật cổ xưa nhất viết bằng văn tự Kharosthi chôn ở các di tích Phật giáo ở Gandhāra, Bắc Afghanistan.
(Xem: 4152)
Thư Viện Quốc Hội Mỹ đã công bố một văn bản quí hiếm từ 2.000 năm trước của Phật Giáo và văn bản cổ này đã giúp cho chúng ta ...
(Xem: 5993)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 4702)
Trước hết xin giới thiệu sơ lược những nét chính của hai bộ kinh Đại thừa lớn ở Ấn Độ mà chúng đã trở nên đặc biệt quan trọng trong Phật Giáo Đông Á.
(Xem: 4861)
Từ khi Đức Như Lai Thế Tôn thị hiện cho đến hiện tại là 2019, theo dòng thời gian tính đếm của thế nhân thì cũng đã gần 2600 năm.
(Xem: 5465)
Tôn giả Tịch Thiên (Shantideva) là con của vua Surastra, sinh vào khoảng thế kỷ thứ VII ở Sri Nagara thuộc miền Nam nước Ấn.
(Xem: 5601)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 5798)
Này các Tỳ-kheo, ta cho phép học tập lời dạy của Đức Phật bằng tiếng địa phương của chính bản thân (sakāya niruttiyā)
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant