Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Bản Chất Của Cầu Nguyện

19 Tháng Năm 201611:10(Xem: 7983)
Bản Chất Của Cầu Nguyện

Bản Chất Của Cầu Nguyện

Thích Châu Viên

Bản Chất Của Cầu Nguyện

 

Cầu nguyện là một phương pháp tâm linh giúp cho con người chúng ta có thể tháo gỡ một phần nào những nỗi khổ niềm đau, những bế tắc và khủng hoảng bị vấp phải trong cuộc sống thường ngày. Thông qua con đường cầu nguyện, mỗi cá nhân như được tiếp thêm năng lượng để làm cho cuộc sống bản thân lạc quan, yêu đời hơn và cá nhân đó có thêm sức mạnh niềm tin hơn vào cuộc sống, khi biết mình đã có bến đỗ bình yên vào một đấng thần linh nào đó. Có thể xem rằng sự thực tập cầu nguyện là chất liệu không thể thiếu trong đời sống tâm linh mỗi người, đặc biệt hơn nó thường được ứng dụng vào đời sống hành trì của các tín đồ tôn giáo.

Trong Đạo Phật, phương pháp cầu nguyệnvai trò không thể thiếu cho bậc xuất gia cũng như tại gia, nó là năng lượng từ trường vô biên giúp cho người hành giả có thể an tâm và yên vui trong đời sống thường nhật. Cầu nguyện trong Phật Giáo được xem là sợi dây vô hình có thiết lập tình thân thương giữa người cầu nguyện và người được hướng đến trên tinh thần từ bitrí tuệ.

Tuy nhiên câu hỏi người viết muốn nêu ra ở đây là: Cầu nguyện có thực sự là con đường cứu cánh (hướng giải quyết tối ưu) để dứt trừ hay tháo gỡ những nỗi khổ niềm đau, bế tắc, tuyệt vọng như: ghen chồng, giận vợ, khủng hoảng kinh tế, bạo lực gia đình, tình yêu lận đận, tình bạn rạn nứt, cầu về một thế giới xa xôi nào đó sau khi chết...? Câu trả lời ở đây chắc chắn là không, bởi vì cầu nguyện là một phương pháp chữa bệnh tạm thời, nó chỉ giống như một liều thuốc mê để giúp cho bệnh nhân giảm đau tức thời. Ví dụ như khi  ta dùng máy cắt cỏ để tỉa đi những ngọn cỏ dày lưa thưa tạm thời, khu vườn bây giờ chỉ còn là đóa hoa khoe sắc, tuy nhiên những cây cỏ dại kia sẽ bắt đầu đâm chồi nảy nở sau đó một thời gian. Nguyên nhân chính yếu là gốc rễ của cỏ dại vẫn còn ăn sâu dưới lòng đất, trừ khi nào chúng ta đào rễ nó lên, phơi khô rồi đốt nó đi, thì cây cỏ dại sẽ không còn làm mất đi cái vẻ đẹp tự nhiên của khu vườn hoa nữa. Cầu nguyện cũng vậy, phương pháp này chỉ giúp chúng ta xoa dịu những khó chịu, giận hờn đố kị, khủng hoảng trong một thời gian ngắn thôi. Nhưng trên thực tế nó không thể tháo gỡ hoàn toàn trái bom khổ đau trong con người chúng ta được.

 Ngày nay rất nhiều người đến Lễ Phật với mong ước Đức Phật sẽ mang lại nhiều may mắn, tiền tài, nhà cửa hoặc con cái, thực ra đây là một quan niệm không đúng với tinh thần của đạo phật. Việc thờ phượng Đức Phật dưới hình thức một tôn giáo là do người đời sau bày vẽ ra, thậm chí quên mất việc quan trọng chánh yếu là tự nổ lực tu tập, hành đạo, ứng dụng giáo pháp trong đời sống thực tế để giác ngộgiải thoát.

Nhiều người có quan niệm rằng, cầu nguyệnphương pháp có thể giải trừ hết phiền não, ác nghiệp của họ. Cho nên cứ đến rằm 30, mồng 1 thì người dân đến chùa để làm lễ sám hối thật đông đúc, họ tụng kinh và lạy sám hối với một ước nguyện là xin đức phật hiển linh hãy tha thứ tội lỗi cho con và họ thầm nghĩ rằng hành động bất thiện của mình đã được giải bày. Trên thực tế khi trở về với đời sống gia đình, họ không tiếc những lời cay đắng giành cho chồng con, nói xấu người này người nọ, họ không ngoại trừ dùng những thủ đoạn để vì những lợi nhuận kinh tế cá nhân trước mắt.

Đức Phật dạy rằng;

"Tự mình, điều ác làm,
Tự mình làm nhiễm ô,
Tự mình không làm ác,
Tự mình làm thanh tịnh,
Tịnh, không tịnh, tự mình,
Không ai thanh tịnh ai". (Pháp Cú 165)

Tất cả mọi khổ đau hay hạnh phúc đều do chúng ta tự tao ra và tự nhận lấy kết quả. Người Phật Tử phải biết lấy giáo lý nhân quả để làm hệ quy chiếu mà hướng về, chứ không nhất thiết phải giành thời gian vô ích để cầu này cầu nọ, đừng đợi đến chết mà có thể về tây phương cực lạc, tất cả mỗi hành giả hãy xây dựng cho riêng mình một cõi tây phương tịnh độ ngay tại nhân gian, thay vì đi tìm những thứ xa xôi hão huyền sau khi chết, thì hãy ứng dụng lời phật dạy vào cuộc sống để chuyển hóa những tâm lý bất an, nỗi phiền muộn, khổ đau để đạt được hạnh phúc thiết thực trong tự tánh của mỗi chúng ta.

Hơn nữa, thay vì cầu nguyện một cách thiếu tuệ giác, chúng ta cần phải áp dụng chân lý tứ diệu đế (Cattāri ariyasaccāni) hay còn gọi là tứ thánh đếĐức Phật đã giác ngộ với tuệ giác của mình để giải quyết vấn đề một cách sâu sắc và thực tiễn;

   - Thứ nhất là khổ đế (Dukkha sacca): Chúng ta phải ý thức rõ được những bế tắc, khủng hoảng mà chúng ta đang bị gặp phải là gì?

   - Thứ hai là tập đế (Samudaya sacca): Nguyên nhân chính và phụ dẫn đến khổ đau là gì?

   - Thứ ba là diệt đế (Nirodha sacca): Để có một đời sống hạnh phúc an vui, thì phải cần tháo gỡ những nỗi khổ niềm đau đó.

   - Cuối cùngđạo đế (Magga sacca): con đường đưa đến chấm diệt khổ đau và khủng hoảng thông qua bát chánh đạo (8 con đường dẫn đến hạnh phúc tối hậu). Điều quan trọng ở đây mỗi hành giả chúng ta cần phải có nhìn chánh kiến (hay cái nhìn đúng đắn) và có chánh tư duy (hay cái suy nghĩ sâu sắc) về những hành động mà mình đang làm, phải có ý thức rằng điều đó có đúng với tinh thần từ bivô ngã của phật giáo không? Nếu không, phải nhận diệnchuyển hóa hành động đó theo một chiều hướng tích cựcđúng đắn.

Mặt khác, thay vì ta giành thời gian để liên tưởng những thứ không tốt đẹp trong quá khứcầu nguyện trước tượng của chư Phật và chư vị Bồ Tát về một tương lai xa vời ngoài tầm tay, thì tốt nhất mỗi người phật từ hãy quán chiếu sự sống trong giây phút hiện tại, mỗi người con phật hãy nỗ lực tinh tấn tu tập để chuyển hóa ác nghiệp (hành động xấu) thành thiện nghiệp (hành động tốt) và thực tập hạnh bố thí, bởi vì bố thí là nhịp cầu thiết lập tình thân thương giữa ta và người trên nền tảng hiểu rõ vô ngã sở hữu để đạt được Hạnh phúcgiá trị thiết thực cho bản thân, gia đìnhxã hội.

Cuối cùng người viết muốn nhấn mạnh rằng; cầu nguyệnvấn đề không thể thiếu trong tôn giáo nói chung, trong Đạo Phật nói riêng. Tuy nhiên, trong Đạo Phật cầu nguyện không phải là phương pháp cứu cánh (Phương pháp tối ưu) giải quyết tất cả các phiền não, tuyệt vọng, bế tắc và khủng hoảng do gặp phải trong đời sống hằng ngày. Phương pháp tối ưu nhất là chúng ta phải áp dụng tứ diệu đế; thứ nhất ý thức được khổ đâu, thứ hai phải nhận diện được nguyên nhân, thứ ba là muốn hạnh phúc an vui phải chuyển hóa được khổ đau và cuối cùng là phải đưa ra được con đường chấm diệt khổ đau. Thêm vào đó, hãy giành thời gian sống trong giây phút hiện tại, thay vì đi cầu nguyện những thứ xa vời mà thiếu đi tuệ giác theo tinh thần đạo phật để có thể đạt đươc hạnh phúc đích thực và lợi ích thiết thực cho bản thân, gia đìnhxã hội.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 44)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(Xem: 163)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 216)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 410)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 310)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 338)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 386)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 623)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 679)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 640)
Tóm tắt: Phật giáo là tôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 687)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 600)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 546)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 594)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 686)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 702)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 800)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 598)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 492)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 575)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 670)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 589)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 591)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 695)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 711)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 704)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 769)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 795)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 770)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 962)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 829)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1389)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 914)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1080)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 832)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1063)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 994)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 981)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1122)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1400)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 1750)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 971)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1161)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 972)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 827)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 950)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 973)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1395)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1145)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1175)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 925)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1070)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1521)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1398)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1392)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 981)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1375)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1290)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1213)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant