Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thế Giới Vàng Ròng

24 Tháng Năm 201606:04(Xem: 7714)
Thế Giới Vàng Ròng

THẾ GIỚI VÀNG RÒNG

Nguyễn Thế Đăng

Thế Giới Vàng Ròng

 

Trong cái thấy của kinh Pháp Hoa thì tất cả vũ trụ là một. “Tất cả các cõi nước thông làm một cõi nước Phật” (phẩm Hiện Bửu tháp, thứ 11).

Tất cả các cõi nước thống nhất thành một cõi nước Phật, thành một Nhất Chân pháp giới, và hẳn là pháp giới ấy thì thanh tịnhthiêng liêng. Trong cái thấy Nhất Chân pháp giới này, sanh tử khổ đau biến mất. Nhất Chân pháp giới cũng là Niết-bàn, vì không có sanh tử.

Nhưng tại sao lại có sanh tử khổ đau? Đó là vì cái thấy mê lầm của người bình thường, hạn hẹp, phân chia, phân mảnh, xung đột ta người… khiến pháp giới vốn thông làm một trở thành một cõi hỗn loạn xung đột, chiến đấu triền miên không dứt. Chính cái thấy mê lầm tạo ra sanh tử.

Pháp giới Nhất Chân hay Niết-bàn tuy thoát khỏi mọi khổ đau sanh tử, nhưng luôn luôn hiện tại.

Phẩm Phương Tiện, thứ 2, nói:

               Ta tuy nói Niết-bàn

               Đó cũng chẳng thật diệt

               Các pháp từ xưa nay

               Tướng thường tự tịch diệt.

Tịch diệt là một nghĩa của chữ Niết-bàn. Các pháp từ xưa nay cho đến mãi mãi về sau “tướng thường tự tịch diệt”, nghĩa là thường Niết-bàn. Quá khứ, quá khứ tịch diệt. Hiện tại, hiện tại tịch diệt. Tương lai, tương lai tịch diệt. Tịch diệtvô sanh, đây là Niết-bàn luôn luôn hiện tại, hiện tiền. Nói rằng các pháp từ xưa nay tướng thường tự tịch diệt, nghĩa là các pháp đang Niết-bàn.

Các pháp từ xưa nay tướng thường tự tịch diệt, đó là chủ đề, là đề mục của Chỉ, Quán, và Chỉ Quán đồng thời của người thực hành. Cho đến lúc chúng ta trực tiếp thấy được sự thật ấy, không qua ý thức, không qua suy nghĩ hay trí nhớ. Thấy được sự thật ấy là thấy “thực tướng của tất cả các pháp”. Thực tướng ấy là tất cả các pháp vốn tự giải thoát, vốn là Niết-bàn.

Thấy trực tiếp được sự thật ấy, đấy là cái thấy đúng (chánh kiến). Duy trì cái thấy ấy một cách tương tục cho đến khi nó mở rộng và sâu thẳm đến độ sanh tử vô thường biến mất, chỉ còn pháp giới Nhất Chân hay Niết-bàn vô sanh tịch diệt. Đây là cái thấy biết của Phật (Phật tri kiến), mà chúng ta phải tu hành để chuyển hóa tâm thức phân mảnh, loạn tưởng của chúng ta thành tâm Phật hay tâm Niết-bàn, hay Nhất Chân pháp giới.Cũng trong bài kệ trên của phẩm Phương Tiện, Đức Phật nói tiếp:

Nếu có loài chúng sanh

Gặp chư Phật quá khứ

Nếu nghe pháp bố thí

Hoặc trì giới, nhẫn nhục

Tinh tấn, thiền, trí thảy

Các thứ tu phước huệ

Những người như vậy đó

Đều đã thành Phật đạo.

Tu pháp Phật, như sáu Ba-la-mật bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí huệ, các thứ phước huệ, dùng các cửa pháp (pháp môn) ấy đều đi vào pháp giới Nhất Chân, nên “đều đã thành Phật đạo”.

Các Phật diệt độ rồi

Người cúng dường xá-lợi

Dựng muôn ức thứ tháp…

Hoặc ở giữa đồng trống

Đắp đất thành tháp Phật

Nhẫn đến trẻ nhỏ giỡn

Nhóm cát thành tháp Phật

Những hạng người như thế

Đều đã thành Phật đạo.

Nếu người tâm tán loạn

Nhẫn đến dùng một hoa

Cúng dường nơi tượng vẽ

Dần thấy các Đức Phật

Hoặc có người lễ lạy

Hoặc lại chỉ chắp tay

Nhẫn đến đưa một tay

Hoặc lại hơi cúi đầu

Dùng đây để cúng dường

Dần thấy vô lượng Phật.

Nếu người tâm tán loạn

Bước vào trong tháp miếu

Một xưng Nam-mô Phật

Đều đã thành Phật đạo.

Trong hiện tại, chỉ một cử động nho nhỏ, gần như là hành động vô tình của trẻ nhỏ mà “đều đã thành Phật đạo”. Chỉ một tiếp xúc đơn sơ như vậy mà đều đã thành Phật đạo, vì pháp giới Nhất Chân vốn đã thành Phật đạo từ lâu xa, như Đức Phật đã giác ngộ từ vô lượng kiếp (phẩm Như Lai Thọ Lượng, thứ 16).

Trong cái thấy của kinh Pháp Hoa, quá khứ, hiện tại, tương lai “đều đã thành Phật đạo”:

               Nơi chư Phật quá khứ

               Tại thế hoặc diệt độ

               Có người nghe pháp này

               Đều đã thành Phật đạo.

Tất cả đều gói tròn trong một hiện tại “đều đã thành Phật đạo”, một hiện tại Nhất Chân pháp giới.

Tại sao quá khứ đều đã thành Phật đạo, hiện tại đều đã thành Phật đạo, mà vị lai chưa đến kia cũng đều đã thành Phật đạo?

Trước bài kệ này, Đức Phật có nói về cái thấy biết của Phật:

“Chỉ có Phật với Phật mới có thể thấu tột thật tướng của tất cả các pháp, nghĩa là các pháp: tướng như vậy, tánh như vậy, thể như vậy, lực như vậy, tác như vậy, nhân như vậy, duyên như vậy, quả như vậy, báo như vậy, đầu cuối rốt ráo như vậy”.

“Như vậy” (như thị) là Chân Như. Các pháp dù có biến hiện, đổi thay, nhân duyên sanh diệt thế nào thì cũng vẫn là Chân như, vẫn là Nhất Chân pháp giới, vốn là “đều đã thành Phật đạo”.

Con số “mười” của mười cái “như vậy” nói lên sự tròn vẹn, cái toàn thể dung nhiếp, không có cái gì ra ngoài, còn sót. Tóm lại, tất cả hiện hữu là như vậy, tất cả pháp giới vốn là như vậy, vốn “đều đã thành Phật đạo”. Đó là cái thấy biết của Phật.

Cái thấy biết này vốn có nơi chúng sanh, thế nên tiến trình tu hành của kinh Pháp Hoa là Khai, Thị, Ngộ, Nhập. Khai là khai mở, Thị là chỉ ra; khai mở và chỉ ra cái vốn có nơi mỗi chúng sanh; và chúng sanh Ngộ, Nhập cái thấy biết của Phật vốn có sẵn ấy. Kinh không nói tạo ra hay trừ bỏ, vì tất cả pháp giới “đều đã thành Phật đạo”.

Pháp giới Nhất Chân này là thọ mạng vô lượng (phẩm Như Lai Thọ Lượng, thứ 16) do đó luôn luôn hiện tại, hiện tiền. Pháp giới này không phải là Niết-bàn tịch diệt  mà là “tướng như vậy, tánh như vậy, lực như vậy, tác như vậy, nhân như vậy, duyên như vậy…”, nghĩa là sự thể hiện của năng lực của toàn bộ pháp giới. Phẩm Như Lai Thần Lực thứ 21 gọi năng lực này là năng lực Phật.

Trong pháp giới Nhất Chân này, tất cả là Phật, không có cái gì ngoài Phật, không có một năng lực nào không là thần lực Phật, nên chạm vào chỗ nào cũng là chạm vào cái “đều đã thành Phật đạo”, chạm vào Phật. Thế nên không chỉ những cửa pháp như sáu Ba-la-mật, cúng dường, xây tháp, ca ngâm… mà những cử chỉ nhỏ nhặt nhất, ít ý thức nhất hướng đến Phật cũng đều tiếp xúc, tương ưng với pháp giới Phật.

Tu hànhtìm hiểu được rằng mọi hành vi, cử chỉ, tâm ý bình thường của chúng ta với một lòng hướng về Phật thì đều là những Phật sự. Và những hành vi dù nhỏ nhặt của thân, khẩu, tâm ấy thì đều chạm đến pháp giới Phật và đều “đã trở thành Phật đạo”.   

 

Tạp chí Văn Hóa Phật Giáo số 244
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1631)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1560)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1491)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 1075)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1464)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1407)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1321)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 1375)
Khi học sinh từng người, từng người tốt nghiệp rời khỏi Phật học viện rồi, tôi bắt đầu xây dựng Biệt phân viện[1]khắp nơi, để ...
(Xem: 1708)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển. Phật thuyết từ chứng ngộ
(Xem: 1966)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định. Định có nghĩa là tâm hành giả trụ vào một đối tượng nào đó khiến cho ý không bị tán loạn, dần dần tâm ý trở nên trong sáng và phát sinh trí tuệ.
(Xem: 1432)
Chúng ta đau khổ do vì vô minh, cho nên chúng ta cần phải đoạn trừ những quan điểm lệch lạc sai lầm và phát triển quan điểm đúng đắn.
(Xem: 1088)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh, bất đoạn và bất thường, bất nhất và bất dị, bất lai và bất xuất, là sự tịch diệt mọi hý luận, và là an ổn.
(Xem: 1426)
Lý tưởng giáo dục và những phương pháp thực hiện lý tưởng này, hiển nhiên Phật giáo đã có một lịch sử rất dài.
(Xem: 2006)
Tuệ Trung Thượng Sĩ (慧中上士), Thiền sư Việt Nam đời Trần (1230-1291) có viết trong bài Phóng cuồng ngâm (放狂吟):
(Xem: 1464)
Nhân loại luôn luôn hướng về sự hoàn thiện của chính mình trong tất cả mọi mặt, vật chấttinh thần.
(Xem: 1549)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết nên quyết chí xuất gia học đạo. Đức Phật thành đạo tại thế gian này và cũng hoằng pháp bốn mươi chín năm cũng tại thế gian này.
(Xem: 1383)
Có phải bạn rất đỗi ngạc nhiên về tiêu đề của bài viết này? Có thể bạn nghĩ rằng chắc chắn có điều gì đó không ổn trong câu chuyện này, bởi vì lịch sử về cuộc đời của đức Phật xưa nay không hề thấy nói đến chuyện đức Phật đi tới Châu Âu và Châu Phi. Bạn nghĩ không sai.
(Xem: 2896)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1369)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông, như một số vị thầy hiện nay đã ngộ nhận, khi nói rằng pháp môn này xuất phát từ Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết
(Xem: 1405)
Trong quá trình phát triển, Phật giáo xuất hiện tư trào Đại thừa, nhấn mạnh lý tưởng Bồ tát đạo.
(Xem: 1713)
Tuy Phật giáo Nguyên thủyđại thừa có hai con đường đi đến giải thoát giác ngộ khác nhau.
(Xem: 1676)
Trong cuộc sống này, ai cũng muốn mình có được một sự nghiệp vẻ vang. Người đời thì có sự nghiệp của thế gian.
(Xem: 1628)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1463)
Nhận thức Phật giáo về chân lý có lẽ là một trong những mối quan tâm hàng đầu với những ai đang nghiên cứu hoặc tìm hiểu đạo Phật.
(Xem: 2630)
Con người sống do và bằng ý nghĩ. Ý nghĩ cao cấp thì cuộc sống trở nên cao cấp; ý nghĩ thấp kém thì cuộc sống thành ra thấp kém.
(Xem: 1599)
Đạo nghiệpsự nghiệp trong đạo. Tuy nhiên cái gì hay thế nào là sự nghiệp trong đạo thì cần phải phân tích cặn kẽ để hiểu đúng và thành tựu đúng như pháp.
(Xem: 1601)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1402)
Lục Tổ Huệ Năng, từ khi đến học với Ngũ Tổ một thời gian ngắn ngộ được bản tâm, rồi trải qua mười lăm năm với đám thợ săn
(Xem: 1421)
Của báu thế gian chỉ tồn tại khi ta còn thở. Ngay khi chúng ta nằm xuống, chúng sẽ thuộc về người khác.
(Xem: 1600)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả vinh hoa phú quý...
(Xem: 1547)
Trong cả Phật giáo Nguyên thủy lẫn Phật giáo Đại thừa đều có tư tưởng về Bồ tát. Các ngài xả thânhạnh nguyện mang lại lợi lạc cho chúng sanh
(Xem: 1441)
Một người đã phát tâm Bồ đề được gọi là một Bồ tát. Đời sống Bồ tát là chiến đấu chống lại sự xấu ác trong lòng người để giải thoát họ khỏi khổ đau.
(Xem: 1424)
Xung đột là một hiện tượng phổ biến. Nó hiện diện khắp mọi ngõ ngách của cuộc sống, từ trong những mối quan hệ ...
(Xem: 1514)
Trong Kinh tạng, khái niệm nghiệp thường được nhắc đến một cách đơn giản và khái quát như nghiệp thiện, ác hoặc nghiệp của thân, miệng, ý.
(Xem: 2196)
Đức Phật Dược sư là một đấng Toàn giác. Để hiểu rõ ngài là ai, bản thể của ngài là gì, vai trò của ngài như thế nào…, trước tiên chúng ta cần hiểu thế nào là một chúng sinh giác ngộ.
(Xem: 1543)
Chơn Thật Ngữ chính là Phật ngữ, là chánh pháp ngữ, là thanh tịnh ngữ vì nó đem lại niềm tin sự hoan hỷ an lạclợi ích chúng sanh.
(Xem: 1496)
Ý thức thì suy nghĩ như thế này, nếu sanh thì không phải là diệt, nếu thường thì không phải là vô thường, nếu một thì không phải khác
(Xem: 1617)
Theo kinh điển Phật giáo, việc lắng nghe chính xác, rõ ràng và đầy đủ là một trong những nền tảng quan trọng để thành tựu trí tuệ.
(Xem: 1831)
Chân lý Phật, vừa giản dị vừa rất thâm sâu. Vì thế, Đức Phật đã mượn những câu chuyện dụ ngôn, gắn với hình ảnh của ...
(Xem: 1529)
Tích Niêm Hoa Vi Tiếu kể rằng một hôm trên núi Linh Thứu, Đức Thế Tôn lặng lẽ đưa lên một cành hoa.
(Xem: 1405)
Kinh Pháp Hoa, hay Kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma Puṇḍarīka Sūtra), là một trong những bộ kinh quan trọng
(Xem: 1661)
Khi ánh sao mai vừa tỏ rạng cũng là lúc Đức Phật thành tựu chân lý tối thượng.
(Xem: 1413)
Tất cả các pháp tướng Như hay lìa tướng Như đều không thối chuyển đối với Vô thượng Giác ngộ
(Xem: 1693)
Tất cả chúng sinh mê hoặc điên đảo từ vô thỉ. Nay dùng giác pháp của Phật khai thị, khiến chúng sinh nghe mà ngộ nhập.
(Xem: 2373)
Người tu hành theo Phật Giáo nhắm mục đích là tự mình chứng ngộ và vận dụng cái Tâm đó.
(Xem: 1466)
Về cơ bản, lý duyên khởi giải thoát mô tả tâm lý của thiền, nghĩa là, những gì xảy ra trong tiến trình hành thiền được hành giả trải nghiệm từ lúc đầu cho đến lúc cuối.
(Xem: 1947)
Trong bài này sẽ trích vài đoạn kinh của Kinh Ma ha Bát nhã ba la mật, phẩm Đại Như thứ 54, do Pháp sư Cu Ma La Thập dịch để tìm hiểu về Chân Như.
(Xem: 1676)
Còn gọi là Quy Luật Duyên Khởi, vì đó là lý thuyết về quy luật tự nhiên, quy luật không thuộc về của riêng ai.
(Xem: 1753)
Hình thành tại Ấn Độ từ thế kỷ VI trước Công nguyên, Phật giáo đã phát triển việc truyền bá chánh pháp khắp xứ Ấn Độ và...
(Xem: 1613)
Khi hiểu được việc lành dữ đều có quả báo tương ứng, chỉ khác nhau ở chỗ đến sớm hay muộn mà thôi,
(Xem: 1948)
Tư tưởng chủ đạo của Thuyết nhất thiết Hữu Bộ là: “các pháp ba đời luôn thật có, bản thể luôn thường còn”,
(Xem: 1680)
Xa lìa tà hạnh (không tà dâm) có nghĩa chính yếu là nguyện chung thủy với người bạn đời của mình.
(Xem: 1434)
Người đệ tử Phật thực hành pháp thứ hai một cách hoàn hảo là không trộm cướp, chính xácxa lìa việc lấy của không cho.
(Xem: 1724)
Sau khi phát tâm quy y Tam bảo, người Phật tử được khuyến khích giữ giới (thực hành năm pháp), giới thứ nhất là xa lìa sát sinh.
(Xem: 1571)
Phải nói rằng Tăng đoàn là sự đóng góp rất lớn cho hạnh nguyện độ sanh của Đức PhậtTăng đoàn đã thay Phật để truyền bá Đạo
(Xem: 1533)
Đứng trước biến động khó khăn của cuộc đời, Phật giáo với tinh thần từ bitrí tuệ, lấy tôn chỉ Phật pháp bất ly thế gian pháp đã
(Xem: 1324)
Trong bài Kinh Devadaha, Đức Phật đã luận giải chi tiết về nghiệp. Trái ngược với quan điểm cho rằng nghiệp là định mệnh luận,
(Xem: 1251)
Trong kinh điển tiểu thừa có một điểm khác biệt rất rõ nét so với kinh điển đại thừa, đó là bối cảnh thuyết pháp của Đức Phật.
(Xem: 1295)
Lịch sử tư tưởngtôn giáo của nhân loại có lẽ sẽ đánh dấu một bước ngoặt vào ngày đức Phật, theo truyền thuyết,
(Xem: 1521)
Trong Jataka, tức là những câu chuyện tiền thân của Đức Phật khi ngài còn là một Bồ tát, ngài có nói về hạnh Bồ tát trong...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant