Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Câu Chuyện Về Ma Vương, Kệ 385, Kho Báu Sự Thật

17 Tháng Bảy 201619:41(Xem: 8874)
Câu Chuyện Về Ma Vương, Kệ 385, Kho Báu Sự Thật
CÂU CHUYỆN VỀ MA VƯƠNG,
KỆ 385, KHO BÁU SỰ THẬT

(The Story of Māra, Verse 385, Treasury Of Truth)
Người Có Tâm Giải-Thoát Là Một Vị A La Hán Kinh Pháp Cú Minh Họa - Weragoda Sarada Maha Thero
Chuyển Ngữ: Nguyễn Văn Tiến - Hình Vẽ: P. Wickramanayaka - Source-Nguồn: www.buddhanet.net
(The Unfettered Person Is A Brāhmaṇa - The Story of Māra, Verse 385 - Treasury Of

Truth, Illustrated Dhammapada - Weragoda Sarada Maha Thero - Illustrations by Mr. P. Wickramanayaka)

Câu Chuyện Về Ma Vương, Kệ 385, Kho Báu Sự Thật

BÀI KỆ 385:

385. Yassa pāraṃ apāraṃ vā
pārāpāraṃ na vijjati
vītaddaraṃ visaṃyuttaṃ
tamahaṃ brūmi brāhmaṇaṃ. (26:3)

385. Người mà ta tìm-thấy không ở bờ bên nầy, hoặc bờ bên kia,
người nầy không ở bờ bên nầy (gần), và bờ bên kia (xa),
người nầy không còn sợ hãi, người nầy đã tự do, vượt ra ngoài mọi sự trói buộc,
người nầy ta gọi là một vị A La Hán (Bà La Môn)

Trong khi cư trú tại tu viện Kỳ Viên (Jetavana), Đức Phật đã nói bài kệ nầy về Ma Vương.

một lần, Ma Vương hóa trang thành một người đàn ông, rồi đến thưa hỏi Đức Phật, "Bạch Thế Tôn, ngài thường hay dùng từ ngữ bờ-bên-kia (pāraṃ), ý nghĩa của từ ngữ nầy là gì?" Đức Phật biết rằng người đàn ông nầy là Ma Vương, nên ngài đã khiển trách Ma Vương, "Nầy Ma Vương hung dữ! Các từ ngữ bờ-bên-nầy và bờ-bên-kia không liên hệ gì đến ông cả. Pāraṃ, có nghĩa là bờ bên kia, mà chỉ có thể đạt tới bởi các vị A La Hán, bởi vì tâm của họ không còn tì vết, không còn dơ bẩn."

BÀI KỆ 385, GIẢI THÍCH TỪ TIẾNG PALI:

yassa pāraṃ apāraṃ vā pārāpāraṃ na vijjati vītaddaraṃ
visaṃyuttaṃ taṃ ahaṃ brūmi brāhmaṇaṃ

Yassa: đối với người; pāraṃ: bờ bên kia (bờ xa); apāraṃ: bờ bên nầy (bờ gần); pārāpāraṃ: bờ biển ở đây, và bờ biển ở kia; na vijjati: không tồn tại; vītaddaraṃ: không tì-vết; visaṃyuttaṃ: tâm không còn tì vết, không còn dơ bẩn; taṃ: vị thiện thần đó; ahaṃ: Tôi; brūmi brāhmaṇaṃ: mô tả như là một vị A La Hán (Bà La Môn)

Đối với người nầy, không có bờ bên kia. Đối với người nầy, cũng không có bờ bên nầy. Đối với người nầy, cả hai bờ đều không có mặt. Bởi vì, người nầy đã tự do, vượt ra ngoài mọi sự trói buộc, người nầy chẳng còn gì để lo âu nữa. Ta gọi người nầy là một vị A La Hán (Bà La Môn).

Bài kệ 385 trong Kinh Pháp Cú nầy, đã được anh Tâm Minh Ngô Tằng Giao chuyển dịch thành thơ như sau:

(385) Không bờ này với lục căn, Cũng không ôm giữ lục trần bờ kia. Hai bờ mau chóng thoát ly. Buông cho phiền não trôi đi nhạt nhòa. Buộc ràng dục vọng lìa xa. Như Lai gọi họ là Bà La Môn.

BÌNH LUẬN

pāraṃ: các lãnh vực của giác quan. Có mười hai lãnh vực giác quan, sáu lãnh vực thuộc về bên trong (sáu căn), sáu lãnh vực còn lại hướng ra bên ngoài (sáu trần). Những lãnh vực nầy được mô tả như là āyatanas - các cõi, là tên gọi của bốn tầng thiền. Mười hai nền tảng (hoặc là nguồn) tùy-thuộc vào các quá-trình tinh-thần, bao gồm năm giác quan (thuộc về vật chất) và cái-biết (ý thức), là sáu giác quan (sáu căn, ajjhattika), và sáu đối tượng, gọi là các nền tảng bên ngoài (sáu trần, bāhira):

mắt, hoặc cơ quan thị giác; đối tượng là vật trông thấy,
tai, hoặc cơ quan thính giác; âm thanh, hoặc đối tượng là âm thanh,
mũi, hoặc cơ quan khứu giác; mùi vị, hoặc đối tượng là mùi vị,
lưỡi, hoặc cơ quan vị giác; hương vị, hoặc đối tượng là hương vị,
cơ thể, hoặc cơ quan xúc giác; sự xúc chạm của cơ thể, hoặc đối tượng là xúc giác,
nền tảng của ý, hoặc cái-biết, ý thức; đối tượng của ý (manayatana)

(dhammāyatana),

Qua cơ quan thị giác (cakkhāyatana) có nghĩa là phần nhạy cảm của mắt (cakkhu-pasāda) tạo nên do bốn yếu tố ... đáp ứng với sự kích thích của giác quan (sa-ppaṭigha). Lời giải thích tương tự cho bốn giác quan (thuộc về vật chất) còn lại.

Nền tảng của ý (manāyatana) là một thuật ngữ chung cho tất cả cái-biết (ý thức), vì thế không nên nhầm lẫn với yếu-tố của ý (ý giới, mano-dhātu), mà chỉ thực hiện các chức năng của sự nhắm đến (vajjana) đối-tượng của giác quan, và nhận lấy (sampaṭicchana) đối-tượng của giác quan. Về chức năng của ý (viññāṇa-kicca):

Các đối tượng nhìn thấy (rūpāyatana) được mô tảhiện tượng mà được tạo nên do bốn yếu tố vật chất, và xuất hiện như là các mầu sắc. Những gì được trông thấy nhờ sự nhận-thấy bằng mắt, chúng ta hãy nói rằng cái-biết của mắt (cakkhu-viññāṇa) là mầu sắc, và các sự tương-phản về ánh sáng, chứ không phải là các vật chất có ba-chiều.

Nền tảng đối tượng của ý (dhammāyatana) thì giống y-hệt như yếu-tố đối tượng của ý (dhamma-dhātu và dhammārammaṇa). Nền tảng nầy có thể là vật chất, hoặc là tinh thần, và thuộc về quá-khứ hiện-tại hoặc tương-lai, có thể là sự thật hoặc là sự tưởng tượng.

Năm giác quan (thuộc về vật chất) cũng được gọi là các giác quan (indriya), và chúng ta có thể nói về các giác quan như sau: Mỗi một trong năm giác quan có một lãnh vực khác nhau, và không có giác quan nào tham dự vào lãnh vực của các giác quan khác ...; các giác quan có sự hỗ trợ của ý‎ nghĩ ..., các giác quan bị hạn chế bởi năng-lượng ..., nhưng năng-lượng lại bị hạn chế bởi sức-nóng (nhiệt) ..., sức-nóng lại bị hạn chế bởi năng-lượng, giống như ánh sáng và ngọn lửa của ngọn đèn dầu, cái nầy bị hạn chế bởi cái kia.

Source-Nguồn: http://www.buddhanet.net/pdf_file/dhammapadatxt1.pdf

 

SHORT TITLE:
The Story of Māra, Verse 385, Treasury Of Truth
FULL TITLE:
The Unfettered Person Is A Brāhmaṇa - The Story of Māra, Verse 385 - Treasury Of Truth, Illustrated Dhammapada - Weragoda Sarada Maha Thero - Illustrations by Mr. P. Wickramanayaka - Source-Nguồn: www.buddhanet.net


VERSE 385:

385. Yassa pāraṃ apāraṃ vā

pārāpāraṃ na vijjati

vītaddaraṃ visaṃyuttaṃ

tamahaṃ brūmi brāhmaṇaṃ. (26:3)

385. For whom is found no near or far,

for whom’s no near and far,

free of fear and fetter-free,

that one I call a Brahmin True.

While residing at the Jetavana Monastery, the Buddha spoke this verse with reference to Māra.

On one occasion, Māra came to the Buddha disguised as a man and asked him, “Venerable! You often say the word pāraṃ; what is the meaning of that word?” The Buddha, knowing that it was Māra who was asking that question, chided him, “O’ wicked Māra! The words pāraṃ and apāraṃ have nothing to do with you. Pāraṃ, which means the other shore, can be reached only by the arahats who are free from moral defilements.”

EXPLANATORY TRANSLATION (VERSE 385)

yassa pāraṃ apāraṃ vā pārāpāraṃ na vijjati vītaddaraṃ

visaṃyuttaṃ taṃ ahaṃ brūmi brāhmaṇaṃ

Yassa: for whom; pāraṃ: the farther shore; apāraṃ: the near shore; pārāpāraṃ: hither and thither shores; na vijjati: do not exist; vītaddaraṃ: blemishless; visaṃyuttaṃ: free of all defilements; taṃ: that saint; ahaṃ: I; brūmi brāhmaṇaṃ: describe as a Brāhmaṇa

To him there is no further shore. To him there is no near shore either. To him both these shores are nonexistent. He is free of anxiety and is freed from bonds. That person I describe as a Brāhmaṇa.

COMMENTARY

pāraṃ: sense fields. Sense fields are twelve, six of which are personal sense-fields, the other six are external sense-fields. These are described as āyatanas – spheres, which is a name for the four immaterial absorptions. The twelve bases or sources on which depend the mental processes, consist of five physical sense-organs and consciousness, being the six personal (ajjhattika) bases; and six objects, the so-called external (bāhira) bases:

eye, or visual organ; visible object,

ear, or auditory organ; sound, or audible object,

nose, or olfactory organ; odour, or olfactive object,

tongue, or gustatory organ; taste, or gustative object,

body, or tactile organ; body-impression, or tactile object,

mind-base, or consciousness; mind-object (manayatana)

(dhammāyatana),

By the visual organ (cakkhāyatana) is meant the sensitive part of the eye (cakkhu-pasāda) built up of the four elements… responding to sense-stimuli (sa-ppaṭigha). Similar is the explanation of the four remaining physical sense-organs.

The mind-base (manāyatana) is a collective term for all consciousness, whatever, and should therefore not be confounded with the mindelement (mano-dhātu), which latter performs only the functions of adverting (vajjana) to the sense-object, and of receiving (sampaṭicchana) the sense-object. On the functions of the mind (viññāna-kicca):

The visible object (rūpāyatana) is described as that phenomenon which is built up of the four physical elements and appears as colours. What is seen by visual perception, let’s say eye-consciousness (cakkhu-viññāna), are colours and differences of light, but not three dimensional bodily things.

Mind-object-base (dhammāyatana) is identical with mind-object-element (dhamma-dhātu and dhammārammaṇa). It may be physical or mental, past present or future, real or imaginary.

The five physical sense organs are also called faculties (indriya), and of these faculties it is said: Each of the five faculties owns a different sphere, and none of them partakes of the sphere of another one…; they have mind as their support… are conditioned by vitality… but vitality again is conditioned by heat… heat again by vitality, just as the light and flame of a burning lamp are mutually conditioned.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 7351)
“Thừa Tự”, theo quan niệm phong kiến xưa, có nghĩa là thọ hưởng của “hương hỏa” với trách nhiệm nối dõi việc thờ cúng Tổ tiên.
(Xem: 4519)
Nhà nghiên cứu phật học K.SCHMIDT1 đã có lần nêu lên những điểm tương đồng giữa tri thức luận của Kant và của Phật học,
(Xem: 4564)
Theo đức Phật, vũ trụ không có khởi nguyên, không có tận cùng và khoảng không vũ trụ vốn vô tận, gồm vô số thế giới như cát sông Hằng (Gangânadivâlukopama).
(Xem: 7332)
Phàm tất cả vạn pháp, vạn hữu trong vũ trụ được sanh ra và có mặt trên thế gian này đều có nguyên nhân, nguyên do đầu mối của nó.
(Xem: 2963)
Chữ khám phá ở đây rất chính xác. Không có sự truyền giáo của đạo Phật đến người Tây phương. Và, tuy người Âu châu khám phá đạo Phật rất trễ, nhưng đó là sự khám phá vô cùng lý thú.
(Xem: 12219)
“Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao Tăng làm sáng cho Phật giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ 6 mãi đến nay đều là các Thiền sư.”
(Xem: 3992)
“Nguyên nhân hình thành Phật giáo Đại Thừa” là một đề tài có phạm trù không rộng lắm, nên ít có người khảo sát và nguồn tư liệu về nó cũng rất hạn chế.
(Xem: 3807)
Những gợi ý dưới đây có thể giúp chúng ta lĩnh hội được ý nghĩa thâm sâu, khó hiểu của kinh một cách hiệu quả, đồng thời giữ gìn sự trung thực với nội dung của ý kinh.
(Xem: 4221)
Giải thoát nghĩa là cởi mở những dây ràng buộc mình vào một hoàn cảnh đau khổ nghịch ý.
(Xem: 3686)
Trong hệ thống kinh tạng Đại thừa, Pháp Hoa là một trong những bộ kinh quan trọng và phổ biến nhất.
(Xem: 5064)
Niết-bàn (Nirvana, Nibbana) là khái niệm của Phật giáo, một tôn giáo không công nhận và không thừa nhậnThượng Đế, có thần, có linh hồn trường cửu.
(Xem: 6683)
Bài này sẽ khảo sát một số khái niệm về các hiện tướng của tâm, dựa theo lời dạy của Đức Phật và chư Tổ sư
(Xem: 4005)
Tôi ngồi đây lắng nghe quý thầy cô tụng bài kinh Bát Nhã thật hay. Ví như ngài Huyền Trang ngày xưa tuyển dịch nhiều bài Tâm kinh như thế này để ...
(Xem: 4123)
Như Lai ngài đã du hành Đạo lộ tối thắng vượt trên các ca tụng Nhưng với tâm tôn kínhhoan hỷ Tôi sẽ ca tụng Đấng vượt trên ca tụng.
(Xem: 5337)
Quy nghĩa là “quay về, trở về” hay “hồi chuyển (tâm ý)”. Y là “nương tựa”. Quy Y cũng có nghĩa là “Kính vâng” hay “Phục tùng”. Tam là chỉ ba ngôi Phật, Pháp, Tăng.
(Xem: 3786)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả
(Xem: 4526)
Từ xưa đến nay, hàng xuất gia (Sa-môn, Bà-la-môn) tu hành không trực tiếp lao động sản xuất để tạo ra của cải vật chất nên đời sống phụ thuộc vào sự bố thí, cung cấp, cúng dường của hàng tín đồ tại gia.
(Xem: 3551)
Sống chếtvấn đề lớn nhất của đời người. Trong đạo Phật, chữ sanh tử (sống chết) là một từ được nhắc đến thuộc loại nhiều nhất
(Xem: 3930)
Kinh Kim Cang Bát Nhã được ngài Cưu Ma La Thập (344-413) dịch từ tiếng Phạn sang Hán văn, và được thái tử Chiêu Minh (499-529) chia bố cục ra 32 chương.
(Xem: 4389)
Đức Phật xuất hiện trên thế gian như mặt trời phá tan màn đêm u tối. Giáo pháp của Ngài đã mang lại những giá trị phổ quát cho...
(Xem: 5393)
Khái niệm Niết-Bàn không phải là sản phẩm bắt nguồn từ Phật Giáo, mà nó đã xuất hiện từ thời cổ đại Ấn Độ khoảng hơn 4,000 năm trước Tây Lịch.
(Xem: 3841)
Quán Thế Âm tiếng Sanskrit là Avalokitésvara. Thuật ngữ Avalokitésvara vốn bắt nguồn từ hai chữ Avalokita và isvara
(Xem: 3940)
Trong khi thế giới đang có nhiều biến động phức tạp, chiến tranh, khủng bố, thù hận diễn ra khắp nơi, mâu thuẩn chính trị, kinh tế, và văn hóa luôn là vấn đề nan giải.
(Xem: 3871)
Trong cõi đời, chúng ta phải chịu đựng những sự đau đớn, khổ não nơi thân và tâm, nhưng tâm bệnh có thể được chữa khỏi bằng Phật pháp.
(Xem: 4825)
Thiên Trúc (天竺) là tên mà người Trung Quốc thường gọi cho Ấn Độ cổ đại. Nó cũng được dịch “Trung tâm của cõi trời”, (nghĩa là trung tâm tinh thần);
(Xem: 4524)
Thông thường hai chữ tu hành đi đôi với nhau; sử dụng quá quen nên hiểu một cách chung chung, đã giảm tầm mức quan trọng mà tự thân nó mang một ý nghĩa sâu sắc.
(Xem: 4257)
Đã hơn 2500 năm kể từ khi Đức Phật Thích Ca đã nhập Niết Bàn. Hiện tại chúng ta sống trong thời đại gọi là “Mạt Pháp”, trong đó ta không thể nào thấy Đức Phật thực sự được nữa.
(Xem: 3828)
Pháp thân của chư Phật, là muốn nhấn mạnh đến loại pháp thân không còn ẩn tàng trong thân ngũ uẩn như pháp thân của chúng sinh.
(Xem: 4634)
Giáo lý Tam thân (trikāya), như đã được tất cả các tông phái Phật giáo Đại thừaTrung QuốcNhật Bản chấp nhận hiện nay
(Xem: 4206)
Ngày xưa chúng đệ tử của Đức Phật có nhiều hạng người khác nhau. Tùy theo căn cơ của mỗi người, Đức Phật áp dụng phương pháp giáo hóa khác nhau.
(Xem: 6109)
Ngày nay, chúng ta thấy hầu hết các ảnh, tượng của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đều được tạo hình có tóc, điều này khiến
(Xem: 4608)
“Chiếc đồng hồ của tôi không đánh số 1 đến 12 mà chỉ có ‘now’, ‘now’, ‘now’ để nhắc nhở rằng ta đang sống”,
(Xem: 4946)
Trong tác phẩm Jataka, truyện số 238 đã đề cập về chuyện một chữ (ekapadaṃ) nhưng có nhiều nghĩa (anekatthapadassitaṃ).
(Xem: 4191)
Về tiểu sửcông nghiệp của Huyền Trang (602-664) chúng ta đã có phần viết riêng trong phần phụ lục của sách Kinh Phật
(Xem: 4823)
Đã sanh làm kiếp con người, có ai mà không khổ? Cái khổ nó theo mình từ nhỏ đến khi khôn lớn, và sẽ khổ hoài cho tới...
(Xem: 5669)
Khi Bồ-tát Long Thọ nói “bất sanh bất diệt” thì hẳn nhiên trước đó phải có cái gì đó có sanh và diệt.
(Xem: 3649)
Trong nghĩa đơn giản nhất, tu Hạnh Bồ Tát là những người ra sức hoằng pháp và không muốn Chánh pháp bị đoạn đứt, bất kể người này có thọ giới Bồ Tát hay không.
(Xem: 4032)
Bài viết này sẽ khảo sát về Vô Tướng Tam Muội, một pháp môn ít được chú ý hiện nay.
(Xem: 4590)
Cứ mỗi lần chúng ta chứng kiến người thân qua đời là mỗi lần chúng ta đau xót, buồn rầu, vì từ nay chúng ta vĩnh viễn sẽ không bao giờ được nhìn thấy người thân yêu đó trên cõi đời này nữa.
(Xem: 5285)
Như các phần trước đã nói, chân tâm không sinh diệt và vọng tâm sinh diệt luôn tồn tại nơi mỗi con người chúng ta.
(Xem: 3146)
Thiền học là một môn học nhằm mục đích đào luyện trí tuệ để được giác ngộgiải thoát sanh tử mong đạt đến niết bàn tịch tịnh
(Xem: 4764)
Khi đức Phật đản sinh, trên trời có chín rồng phun hai dòng nước ấm mát tắm rửa cho Ngài
(Xem: 4556)
Mỗi độ tháng Tư về, trong tâm thức của những người con Phật đều hiển hiện hình ảnh huy hoàng Phật đản sinh bước đi trên bảy đóa sen
(Xem: 4290)
Phật giáo Đại thừa có cách nhìn nhận mới về đức Phật và lời dạy của ngài.
(Xem: 4740)
Đức Phật Thích Ca là một đức Phật lịch sử xuất hiện giữa thế gian để dẫn dắt chúng sinh thoát khỏi khổ đau, đạt đến an lạc giải thoát.
(Xem: 4490)
Con người được sanh ra từ đâu là một nghi vấn vô cùng nan giải cho tất cả mọi giới và mãi cho đến thế kỷ 21 này vấn đề con người vẫn còn phức tạp chưa được ai minh chứng cụ thể.
(Xem: 4606)
Kinh Pháp Cú dành riêng hẳn một phẩm gọi là “Phẩm Tỳ kheo” để đề cập tới các người xuất gia.
(Xem: 7217)
Cuộc sống biến đổi không ngừng, mỗi một thời gian, mỗi một thế hệ có cách sống và nghĩ suy ứng xử có khác nhau.
(Xem: 5212)
Trước hết, thời gian vật lý là khách quan và tồn tại bên ngoài tâm trí con người và là một phần của thế giới tự nhiên, thứ hai, thời gian tâm lý chủ quan và có sự tồn tại phụ thuộc vào ý thức.
(Xem: 5006)
Hôm nay nhân ngày đầu năm, tôi có vài điều nhắc nhở tất cả Tăng Ni, Phật tử nghe hiểu ráng ứng dụng tu để xứng đáng với sở nguyện của mình.
(Xem: 4594)
Huyễn: Có nhiều nghĩa như tạm bợ, hư dối, phù du, huyễn hoặc, ảo ảnh, thay đổi luôn luôn, có đó rồi mất đó, biến dịch hoài trong từng sát-na.
(Xem: 5618)
Ngạ quỷ nghe kinh là một trong những đề tài khá quen thuộc trong kinh Phật. Người phàm thì không ai thấy loài ngạ quỷ, trừ một vài trường hợp đặc biệt.
(Xem: 5271)
Từ thế kỷ trước, người ta đã tìm được rải rác các thủ cảo (manuscripts) kinh Phật cổ xưa nhất viết bằng văn tự Kharosthi chôn ở các di tích Phật giáo ở Gandhāra, Bắc Afghanistan.
(Xem: 4161)
Thư Viện Quốc Hội Mỹ đã công bố một văn bản quí hiếm từ 2.000 năm trước của Phật Giáo và văn bản cổ này đã giúp cho chúng ta ...
(Xem: 6008)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 4716)
Trước hết xin giới thiệu sơ lược những nét chính của hai bộ kinh Đại thừa lớn ở Ấn Độ mà chúng đã trở nên đặc biệt quan trọng trong Phật Giáo Đông Á.
(Xem: 4876)
Từ khi Đức Như Lai Thế Tôn thị hiện cho đến hiện tại là 2019, theo dòng thời gian tính đếm của thế nhân thì cũng đã gần 2600 năm.
(Xem: 5482)
Tôn giả Tịch Thiên (Shantideva) là con của vua Surastra, sinh vào khoảng thế kỷ thứ VII ở Sri Nagara thuộc miền Nam nước Ấn.
(Xem: 5617)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 5819)
Này các Tỳ-kheo, ta cho phép học tập lời dạy của Đức Phật bằng tiếng địa phương của chính bản thân (sakāya niruttiyā)
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant