Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Đứa Con Cùng Khổ Trở Về Nhà

13 Tháng Chín 201613:17(Xem: 7337)
Đứa Con Cùng Khổ Trở Về Nhà

ĐỨA CON CÙNG KHỔ TRỞ VỀ NHÀ

Nguyễn Thế Đăng

Đứa Con Cùng Khổ Trở Về Nhà

 

“Có người lúc tuổi còn bé, bỏ cha trốn đi ở lâu nơi xứ khác, hoặc mười, hai mươi năm cho đến năm mươi năm, tuổi đã lớn lại thêm nghèo khổ, rong ruổi khắp nơi để tìm cơm ăn áo mặc, lang thang tình cờ hướng về nước mình” (Kinh Pháp Hoa, phẩm Tín Giải, thứ 4).

Đây là thân phận con người của mỗi chúng ta, lưu lạc xa nhà, đói khát về tâm linh mà thậm chí chưa hề đặt ra câu hỏi: Ta là ai? Quê nhà ta ở đâu? Ta lang thang cùng khổ ở chốn này để làm gì? Rồi chết ta về đâu?

Tại sao chúng ta thế này mà cho là nghèo khổ? Nghèo khổ vì để có một chỗ ở, để có thức ăn, để có những nhu cầu hàng ngày, chúng ta phải làm việc mỗi ngày. Khi sinh ra, chúng ta không có gì, và dầu làm việc cả đời, tích trữ được một khối tài sản lớn, khi chết chúng ta cũng không mang theo được gì, dù chỉ một xu nhỏ.

Trong khi đó, người cha giàu cóquyền uy vô lượng, vẫn hằng nhớ con, cho đến một hôm, gã cùng khổ lần hồi đến lãnh địa cha ở.

“Bấy giờ, kẻ cùng khổ trong bước đường kiếm ăn lần hồi tình cờ đến nhà người cha, bèn đứng ngoài cổng; xa thấy người cha ngồi giường sư tử; chuỗi ngọc châu báu nghìn vạn để trang nghiêm; xung quanh là các hàng Bà-la-môn, Sát-đế-lợi, cư sĩ cung kính bao quanh, kẻ hầu người hạ… oai đức thế lực rất lớn, bèn sanh lòng lo sợ, hối hận đã đến nhà này”.

Chúng ta đã nghe nói từ kinh điển, từ các vị thầy, rằng “tất cả chúng sanh đều có Phật tánh”, nghĩa là chúng ta cùng một Phật tánh với Phật, chúng ta là con ruột của Phật. Nhưng khi đứng trước ngôi nhà của chính mình, thấy từ xa người cha của mình, tất cả nằm ngoài trí tưởng tượng, cho nên lo sợ và hối hận đã đến trước nhà Như Lai.

thói quen, tức là nghiệp, lâu đời cùng khổ của mình, đứng từ xa thấy Phật tánh quá sức xán lạn, quá nhiều thứ quý báu và đầy thế lực, phần nhiều chúng ta đều lo sợ, hối hận. Lo sợ vì cái hạnh bao đời bao kiếp nay đi ngược với sự vinh quangthế lực của Phật tánh. Nhà mình, chỗ ngồi của mình chỉ cách trăm bước mà lo sợ vì đã quên nhà, quên mình quá lâu, cứ tưởng mình là người cùng khổ, không cha không nhà. Cái làm cho mình nghèo cũng chính là ý tưởng rằng ta là một cuộc đời hữu hạn, từ đó những gì là của ta đều ít ỏi và vô thường.

“Chàng cùng khổ vội bỏ chỗ ấy để đi đến xóm nghèo kiếm sống. ‘Nếu ta đứng đây lâu họ sẽ bức bách ta làm’, gã nghĩ như thế liền bỏ chạy. Trưởng giả sai người hầu đuổi theo bắt lại, gã cùng khổ lớn tiếng kêu oan, sợ quá ngất xỉu ngã xuống đất. Người cha bảo chớ cưỡng ép đem đến, lấy nước lạnh tưới trên mặt cho tỉnh lại, đừng nói gì với nó. Vì người cha biết con mình ý chí hạ liệt, biết sự giàu sang oai quyền làm con khiếp sợ”.

Sợ hãi đến ngất xỉu vì không thể từ bỏ niềm tin sai lầm đã được huân tập từ bao đời nay rằng mình chỉ là kẻ thấp hèn, hạ liệt. Vì đã lâu tin rằng bản chất của mình là bốn tướng ta, người, chúng sanh, thọ mạng hạn hẹp nên sợ hãi cái bản chất Phật tánh bao la vô hạn của mình. Ta, ta là người, ta là chúng sanh, ta có một thọ mạng giới hạn chính là sự nghèo nàn khốn khổ của kiếp người lang thang nổi trôi kiếm ăn qua ngày trong sanh tử.

“Sau đó ông trưởng giả bày ra phương tiện, thuê đứa con khốn cùng ấy hốt phân. Một ngày muốn đến gần con, ông phải cởi chuỗi ngọc, y phục tốt đẹp, giả dạng bần cùng mới gần con được. Lần lần, cung cấp thêm cho gã cùng khổ tiền, đồ ăn và nói với anh ta rằng ông xem anh như con. Nhưng gã cùng khổ vẫn còn tự cho mình là khách. Liên tục như vậy hai mươi năm làm nghề hốt phân, mới dần dần tin mà ra vào không ngại sợ, nhưng vẫn ở nguyên chỗ cũ”.

Cái ta và cái của ta càng được củng cố thì tự ti mặc cảm đối với Phật tánh của chính mình càng lớn, do đó mà có sự sợ hãi hối hận. Sự bám chấp vào cái ta và cái của ta hạn hẹp càng lớn thì sự nghèo khổ càng lớn; như bỏ khoảng không gian bao la mà nhận lấy khoảng không gian trong một tổ tò vò. Cái mặc cảm tự ti thấp kém này phải nhờ những phương tiện Phật giáo mới dần dần xóa bỏ được.

Những thành công vô thường lại còn tạo ra nghiệp mới của con người sanh tử chúng ta so với địa vịtài sản thật sự trong Phật tánh của chúng ta thì chỉ là nghề “hốt phân”.

“Rồi Trưởng giả có bệnh, tự biết không còn sống bao lâu nữa, bảo với đứa con cùng khổ rằng: ‘Ta có rất nhiều vàng bạc châu báu, kho chứa dầy dẫy, cần có người để giao cho, giữ gìn, ngươi phải biết tất cả. Lòng ta như vậy ngươi nên thể theo ý ta. Vì sao thế? Nay ta cùng ngươi bèn là không khác, nên gắng dụng tâm, chớ để mất mát’. Khi ấy gã cùng khổ nhận lời, nhưng không có ý mong lấy dù chỉ đáng bữa ăn. Gã vẫn ở tại chỗ cũ, tâm hạ liệt vẫn chưa bỏ được”.

Sự sợ sệt chính mình là do tâm hạ liệt bao đời. Đó là tự vọng tưởng ra một cái ta hữu hạn, một trung tâm giả tạo trong đời sống chân thật không có trung tâm. Cái ta trung tâm ấy vì là một phần tử giới hạn nên có sống có chết, có lên xuống, chuyển dời. Rồi để phục vụ cho cái ta giả tạo ấy lại sanh ra tham, sân, si, kiêu mạn, đố kỵ. Thế giới bao la được nhìn từ cái ta ấy trở thành phân mảnh, theo một chiều kích cái ta hạn hẹp để thành một thế giới của ta, xung đột với thế giới chân thật không có chiều kích.

Sự chấp ngã chấp pháp đã tạo ra một cái ta nhỏ hẹp và thế giới nhỏ hẹp của cái ta. Đây là điều kinh nói là sự nghèo khổ bần cùng của gã cùng khổ lang thang phiêu dạt. Sự chấp ngã chấp pháp tạo thành những thói quen kiên cố giới hạn lại đời sống bao la vô hạn mà kinh nói là Như Lai thọ lượngNhư Lai thần lực. Nghiệp chướng là những thói quen làm che chướng chúng ta với thực tại viên mãn toàn khắp mà kinh gọi là Như Lai.

Như một giọt nước trong đại dương tự vọng tưởng mình là một giọt nước riêng biệt, khác biệt với tất cả, mà lâu đời quên mình vốn là đại dương. Một giọt nước thì có trôi nổi, tan rã, có ta và cái của ta, có khổ đau vì ta và vì cái của ta. Những lời dạy thành kinh điển của Đức Phật là để chúng ta thôi vọng tưởng ấy, để nhìn ra sự thật muôn đời rằng chúng ta không phải là những giọt nước, mà chúng tađại dương. Giọt nước là một với đại dương.

Tóm tắt, chính chấp ngãchấp pháp là những che chướng do mỗi người tự xây tự tạo đã ngăn cản không cho chúng ta là một với thế giới Pháp Hoa giàu có vô lượngquyền lực vô lượng. Cho nên tất cả các pháp môn Phật giáo là để giúp chúng ta phá bỏ những che chướng này. Đạo Phậtvô ngãvô pháp. Chúng ta càng vô ngã vô pháp bao nhiêu, thế giới Pháp Hoa sẽ hiện ra cho chúng ta bấy nhiêu.

“Khi biết rằng tâm ý con đã dần dần thông thái, thành tựu chí lớn, tự chê tâm mình ngày trước. Đến giờ sắp chết, ông gọi tất cả mọi người đến để tuyên bố, các người nên rõ, đây là con ta, do ta sanh ra. Đã ở trong thành của ta lại bỏ ta trốn đi trôi nổi khổ sở hơn năm mươi năm. Nó vốn tên ấy, còn ta tên ấy. Xưa ta ở tại thành này lo lắng tìm kiếm bỗng giờ đây gặp được nó. Nó thật là con ta, ta thật là cha nó. Nay ta có tất cả bao nhiêu của cải đều là của con ta.

Khi ấy, gã cùng khổ nghe cha nói như thế liền rất hoan hỷ, được điều chưa từng có, nghĩ rằng: Ta vốn không có lòng mong cầu, nay kho tàng quý báu này tự nhiên mà đến”.

Chúng ta thấy quá trình nhận dạng lại chính mình quả rất khó khăn, dù luôn luôn có phương tiện của người cha trong mỗi giai đoạn. Chúng ta là những gã cùng khổ lang thang, và Đức Phật với đại tríđại bi, người cha không thể nào bỏ con, không thể nào bỏ chúng sanh, đã làm tất cả phương tiện để dìu dắt chúng ta về lại quê nhà, bước vào nhà của mình, chấp nhận mình thật sự là Phật tánh, không phải là một thân giới hạn trong khoảng trăm năm, không phải là một tâm bị trói buộc trong vũng lầy của phiền não khổ đau không dứt.

Trong phần người xưa gọi là Bổn môn giảng về bản tánh vốn có của chúng ta, chúng ta thấy rằng mình đang sống không chỉ trong thọ mạng một trăm năm của nghiệp riêng của mình, mà trong Như Lai thọ lượng, nghĩa là trong thọ lượng vô cùng vì không có bắt đầu và chấm dứt. Tâm chúng ta không phải chỉ kinh nghiệm môt khoảng rất nhỏ của đời sống, mà là tất cả vũ trụ, là Như Lai thần lực, sức năng động của tất cả vũ trụ.

Tin hiểu được như thế, đó là con đường trở về nhà cha.

Thế giới Pháp Hoa hay nhà cha vốn như vậy (Mười Như thị, phẩm Phương tiện, thứ 2), nghĩa là vốn có sẵn, cho nên sự trở về nhà nhanh hay chậm là tùy nơi chúng ta. Cái trì kéo, đeo nặng nơi thân tâm chúng tachấp ngãchấp pháp. Tin hiểu thế giới Pháp Hoa vốn có sẵn, đang bao bọc chúng ta và tin hiểu rằng ngã và pháp là không thật có, sự tin hiểu ấy khiến chúng ta thấy xưa nay mình vẫn ở quê nhà, vẫn là con của Trưởng giả Đức Phật, và chuyện lang thang cùng khổ suốt mấy chục năm chỉ là “giấc mộng hôm qua”. 

(Tạp chí Văn Hóa Phật Giáo số 250)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1405)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1225)
Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn, còn gọi là Bồ-đề Tát-đa,… Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn (sanskrit), còn gọi là Bồ-đề Tát-đa
(Xem: 1279)
Kính lễ Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn Nay con đem tâm phàm phu suy diễn thánh pháp Là nhờ những bậc tiền bối đã khai triển Pháp này Xin Ngài gia bị cho tâm phàm phu chuyển thành thánh trí
(Xem: 1439)
Con xin đê đầu kính lễ Phật – bậc Nhất thiết trí – đấng Mặt trời tròn thanh khiết. Những tia sáng lời dạy của Ngài đã phá tan bóng đêm trong bổn tâm của chư thiên, loài người và các đường ác.
(Xem: 1067)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau trong suốt nhiều thế kỷ liền đã nỗ lực lý giải khái niệm này bằng cách tận dụng sự hiểu biết hạn chế của mình.
(Xem: 1172)
Dưới đây là một vài dẫn khởi có tính cách thực tiễn đối với sự tu tập công án, được đề ra do các Thiền sư qua nhiều thời đại; từ đó, chúng ta có thể thấy rõ một công án sẽ làm được việc gì để khai triển ý thức Thiền và cũng thấy rõ sự tu tập công án đã bộc lộ cho khuynh hướng nào theo thời gian.
(Xem: 1188)
Có hai hình ảnh quen thuộc gợi lên ý tưởng biến dịch: như dòng sông và như ngọn lửa bốc cháy trên đỉnh núi. Mỗi hình ảnh lại gợi lên một ý nghĩa tương phản: tác thành và hủy diệt.
(Xem: 1590)
Thời gian là một hiện tượng bí ẩn nhất và cũng là sít sao nhất với cuộc sống mỗi người.
(Xem: 1552)
Một thời Thế Tôn trú ở Nālandā, tại rừng Pāvārikamba. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta bạch Thế Tôn:
(Xem: 2720)
Duyên khởi cho bài viết này là từ một bản tin BBC News có nhan đề “Thiền định chánh niệm có thể khiến con người xấu tính đi?”— và từ một số cuộc nghiên cứu khác đã giúp chúng ta có cái nhìn đa diện hơn về Thiền chánh niệm, một pháp môn nhà Phật đang thịnh hành khắp thế giới.
(Xem: 1727)
Khi sinh ra và lớn lên trong cuộc đời này mỗi người đều mang trong mình một huyết thống mà tổ tiên bao đời đã hun đúc, giữ gìntruyền thừa qua nhiều thế hệ.
(Xem: 1268)
Vấn đề tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni phạm tội ba-la-di, thời Phật nghiêm khắc không cho sám hối đều có lý do. Với những lý do đó giống với xã hội bây giờ, cho nên trong chương này chúng tôi thảo luận chung cả hai giai đoạn thời Phật và cuộc sống hiện tại.
(Xem: 1135)
Hiện nay trong nguồn văn hiến hệ Hán truyền, chúng ta tìm thấy nhiều từ ngữ liên quan đến ý nghĩa sám hối như “hối quá 悔過”, “sám hối 懺悔”, “sám-ma 懺摩”, “phát lồ 發露”, thực chất tất cả đều xuất thân từ nghĩa gốc Phạn ngữ (Sanskrit) là từ: kṣama, kṣamayati.
(Xem: 1179)
Trong dòng chảy tâm thức của nhân loại từ xa xưa và cho đến nay luôn chia thành hai hướng, một hướng chảy theo dòng chảy Luân hồi (Saṃsāra), là số chúng sinh tâm tư cấu bẩn phiền não, ngụp lặn trong bùn lầy ố trược.
(Xem: 1300)
Những người con Phật chơn chính, thì lúc nào và ở đâu, họ cũng thực hành phápchánh pháp trở thành đời sống của chính họ. Họ được nuôi dưỡng ở trong chánh pháp và họ vui sống trong chánh pháp mỗi ngày.
(Xem: 1235)
Sự ra đời của Đức Phật nghiễm nhiên đã trở thành sự kiện quan trọng nhất trong suốt mấy ngàn năm tư tưởng Đông phương. Hiện tượng Lâm-tỳ-ni, chính vì thế, đã trở thành một hiện tượng đặc sắc đáng để mọi người nghiên cứu Phật học quan tâm.
(Xem: 1837)
Tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi đau khổ lớn. Đây là động cơ lớn thúc đẩy Thái tử ra đi tìm chân lý.
(Xem: 1580)
Như huyễn là một tính cách, một phương diện của tánh Không. Tánh Khôngvô tự tánh của mọi cái hiện hữu, và vì vô tự tánh nên như huyễn.
(Xem: 1787)
Theo quan niệm nhà Phật thì con người tự ràng buộc mình trong nỗi khổ đau do chính mình gây ra.
(Xem: 1715)
Trên lộ trình hướng về Phật đạo, tôi có duyên được “làm người đưa đò” tại ...
(Xem: 2255)
Bình đẳng tánh trí là gì? Là tánh bình đẳng của đại viên cảnh trí, nghĩa là tánh bình đẳng của tất cả mặt gương và của tất cả bóng hình in vào đó.
(Xem: 1671)
Theo truyền thống Phật giáo Nam tông, y cứ theo lịch Ấn Độ cổ đại, Vũ kỳ An cư (Vassavāsa) bắt đầu từ ngày 16 tháng 6 (tháng Āsālha) và kết thúc vào ngày 16 tháng 9 (tháng Āssina).
(Xem: 2006)
Vào thời Đức Phật, xã hội Ấn Độ rất nhiều học thuyết ra đời, mỗi học thuyết là một quan điểm chủ trương.
(Xem: 1996)
Trong bài này chúng ta sẽ tìm hiểu sơ lược về Đại viên cảnh trí, và trích toàn bộ đoạn nói về trí này trong Kinh Phật Địa, do Tam tạng Pháp sư Huyền Trang dịch ra tiếng Hán.
(Xem: 2159)
am Vô Lậu Học là môn học thù thắng gồm: Giới, Định và Tuệ trong đạo Phật.
(Xem: 1750)
Khi đạo Phật nói về tánh chất của khổ, có nhiều mức độ khổ khác nhau.
(Xem: 1865)
Dân gian thường nói, không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời. Rất khó giải thích về“ba họ” và “ba đời”.
(Xem: 1929)
Chúng ta đã thấy nguồn gốc của kinh tạng Phật giáo phát khởi từ ba kỳ kết tập kinh điển (saṅgīti).[1]
(Xem: 1847)
“Tất cả là vô thường” là một trong ba nguyên lý căn bản của Phật giáo (vô thường, vô ngã và niết-bàn tịch tịnh)
(Xem: 1998)
Không có kinh sách nào, Đức Phật dạy: Phải cầu nguyện, hay nương tựa vào một ai đó, ngay cả việc nương nhờ vào chính Ngài.
(Xem: 1831)
Bản tâm, tự tâm, bản tánh, tự tánh là những danh từ được Lục Tổ Huệ Năng sử dụng trong những lời thuyết pháp của ngài để...
(Xem: 1765)
Muốn thực hiện một đời sống đạo đức, mang lại hạnh phúc cho bản thân cũng như tha nhân thì trước hết con người ấy phải được giáo dục.
(Xem: 1844)
Như chúng ta đã biết, từ xưa lắm các triết gia và sử gia phương Tây từng đưa ra những định nghĩa về con người,
(Xem: 1783)
Sám hối là một thực hành tu tập quan trọng và phổ biến trong Phật giáo. Sám hối là...
(Xem: 2053)
Chúng ta hãy khởi đầu đọc kinh Kim-cang như một tác phẩm văn học. Giá trị văn học là sự biểu hiện thẩm mỹ của nội dung tư tưởng.
(Xem: 2151)
“Bà lão nghèo ngộ pháp Duyên khởi” là bản kinh chúng tôi giới thiệu kỳ này. Nguyên tác “Phật thuyết lão nữ nhơn kinh 佛說老女人經
(Xem: 1863)
“Kinh Căn Tu Tập / Indriya bhàvanà sutta” là bài kinh cuối cùng trong số 152 bài kinh đăng trong Trung Bộ Kinh do...
(Xem: 1976)
Theo Phật giáo, pháp có nghĩa là giáo pháp của Phật. Những lời dạy của Đức Phật chuyên chở chân lý.
(Xem: 1739)
Như Đức Phật đã dạy, một đặc điểm của Giáo Pháp thuần túy là những hiệu ứng phải được thể nghiệm tức khắc lúc này và nơi này, ngay trong cuộc đời này
(Xem: 1793)
Căn cứ thông tin từ tác phẩm Ni trưởng Huỳnh Liên - cuộc đờiđạo nghiệp do Ni giới hệ phái Phật giáo Khất sĩ ấn hành vào năm 2016 thì...
(Xem: 2294)
Từ khi đạo Phật du nhập vào Việt Nam, chúng ta thấy rõ là bất cứ khi nào truyền thống dân tộc nép mình để đi trong dòng sinh mệnh của đạo Phật thì...
(Xem: 2191)
Dựa vào lịch sử Đức Phật, chúng ta được biết, Thái tử Sĩ Đạt Ta (Siddhattha) khi chào đời, bước đi bảy bước, có bảy hoa sen đỡ chân
(Xem: 3691)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2343)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 3004)
Bốn mươi chín ngày sau khi đạt giác ngộ, Đức Phật bi mẫn và thiện xảo đã thuyết Tứ Diệu Đế cho năm vị đệ tử may mắn tại Varanasi.
(Xem: 2373)
Nếu có ai đó yêu cầu tóm tắt toàn bộ giáo lý Phật giáo trong một vài từ ngữ gọn gàng, không cần dài dòng văn tự, tôi sẽ không do dự trả lời rằng, đó là : Ngũ uẩn giai không.
(Xem: 1947)
Bằng sự tu tập lâu dài, vượt qua vách sắt thành đồng của địa ngục Thiết Vi hay sự co duỗi của bàn tay trước mắt mà ta vươn tới sự giải thoát thời đoạn, cuối cùngsự giải thoát hoàn toàn.
(Xem: 1709)
Đức Di Lặc tiếp tục giảng cho đồng tử Thiện Tài về Bồ đề tâm: “Tại sao vậy? Vì nhân nơi Bồ đề tâm mà xuất sanh tất cả Bồ tát hạnh.
(Xem: 3204)
Cộng đồng Tăng Già gồm tứ chúng Tăng NiPhật tử tại gia Nam Nữ với một hội đồng gồm ít nhất là bốn vị Tăng, hay một cộng đồng Tăng Ni sống hòa hiệp với nhau trong tinh thần lục hòa.
(Xem: 2238)
Đến nay, vấn đề xác định kinh điển Phật thuyết hay phi Phật thuyết vẫn là nội dung được các học giả quan tâm nghiên cứu
(Xem: 2926)
Nhiều học giả phương Tây nhận định rằng khái niệm Niết bàn, tức nirvāṇa trong Sanskrit hay nibbāna trong Pali, có thể xem là ...
(Xem: 2591)
Hãy thử tưởng tượng một đoàn người đang ngồi trên một chiếc thuyền trôi giữa biển, trong đêm tối. Sự nhỏ nhoi của con thuyền...
(Xem: 1939)
Vũ trụ này thực sự là gì? Tại sao có những thế giới nhiễm ô của chúng sanh? Làm gì để “chuyển biến” thế giới nhiễm ô thành thế giới thanh tịnh?
(Xem: 2901)
Tôi không cần giải thích tại sao bạn cần phải thực hành Pháp; tôi nghĩ bạn hiểu điều đó.
(Xem: 2539)
Thế giới chúng ta đang sinh sống ắt phải nằm trong “Hoa tạng thế giới”, tức là thế giới Hoa Nghiêm
(Xem: 3427)
Việc thẳng tiến bước trên con đường đạo lý thanh cao hầu đạt đến chân lý hạnh phúc chẳng khác nào bơi ngược dòng đời là một vấn đề...
(Xem: 3279)
Chúng ta thấy một sự vật bằng cách thấy màu sắc của nó và nhờ màu sắc ấy mà phân biệt với những sự vật có màu sắc khác
(Xem: 4104)
Tiếng Sankrit là Drama (tiếng Tạng là: cho) nghĩa là giữ lấy hoặc nâng đỡ. Vậy Pháp nâng đỡ hoặc duy trì cái gì?
(Xem: 3593)
Trong những nhà phiên dịch kinh điểnthời kỳ đầu của Phật giáo Trung Quốc, ngài Đàm-vô-sấm (曇無讖) hiện ra như một nhà phiên kinh trác việt[1].
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant