Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Đi Tìm Lại Đám Mây Trắng Trên Mái Chùa Xưa

30 Tháng Mười 201614:05(Xem: 3880)
Đi Tìm Lại Đám Mây Trắng Trên Mái Chùa Xưa
  ĐỨC PHẬT TRÊN CÕI PHÙ DU

HT Thích Phước An
Nhà xuất bản Hồng Đức Việt Nam 2012

Đức Phật trên cõi phù du
Đi tìm lại đám mây trắng trên mái chùa xưa

Cách làng quê tôi chừng năm cây số có một ngôi chùa dù có tên chính thức là chùa Linh Phong, nhưng người dân sống quanh vùng núi này từ bao đời nay vẫn thường quen gọi là chùa ông Núi. Hồi còn là chú tiểu ở vùng quê này, hễ cứ mỗi lần Tết hoặc cái ngày kỵ tổ thì thầy tôi vẫn thường dẫn tôi đi theo. Vì chùa nằm tận trên đỉnh núi, từ chân núi lên đến chùa đi bộ phải mất chừng nửa tiếng. Với cái nhìn của tuổi thơ thì đường lên núi chừng ấy giờ quả thật là đường quá dài và núi quá cao. Nhưng nếu đến chùa vào những ngày cuối năm thì thấy chùa lại càng cao hơn nữa. Vì vào những ngày cuối đông ấy chùa lúc nào gần như cũng bao phủ bởi mây trắng và sương mù. Cái hình ảnh ngôi chùa và những tháp cổ chìm ngập trong khói sương và mây trắng từ những ngày còn thơ ấy lúc nào cũng đậm đà trong ký ức xa xôi của tôi. Bởi vậy, khi lớn lên, mỗi lần đọc được bài thơ nào có nhắc đến chùa và mây trắng thì bài thơ ấy tất nhiên đối với tôi phải là bài thơ hay nhất.

Nhưng bây giờ, thỉnh thoảng có những lúc tâm thức hoang mang tôi đâm ra nghi ngờ và băn khoăn tự hỏi, liệu cái hình ảnh đầy thi ca ấy, cái hình ảnh một nhà sư sống trên núi cao trong một thảo am mà một nửa thì cho những đám mây trời, còn một nửa nữa thì để cho nhà sư, như một bài thơ của một nhà thơ Trung Quốc nào đó đã mô tả, hay Nguyễn Du của Việt Nam cũng có hai câu tương tự như vậy.

Cổ tự vô danh nan vấn tấn

Bạch vân thâm xứ ngọa sơn tăng

(Chùa cổ không có tên, khó hỏi thăm

Trong tầng núi cao đầy mây trắng che, có nhà sư đang nằm ngủ)

 Chỉ có một hình ảnh mơ mộng hảo huyền của những kẻ đa sầu đa cảm, một hình ảnh đã hoàn toàn lạc điệu giữa một xã hội quá thực dụng như xã hội hiện nay chăng? Những lúc mà tâm hồn bị xao động như vậy, thì lập tức tôi lại viện dẫn đến hai câu thơ khác cũng của Nguyễn Du:

Tri giao quái ngã sầu đa mộng

Thiên hạ hà nhân bất mộng trung

(Những người bạn thân tình quen biết đều chê trách tôi sao hay sầu, hay mộng

Tuy nhiên, có ai trong cõi người ta mà không ở trong mộng?)

Như vậy là tôi tự lý luận rằng, tiền tài, danh vọng, quyền hành, địa vịsắc dục, tức là những thứ mà người có đầu óc thực dụng phải tốn biết bao công sức để đạt cho kỳ được, chắc chắn một ngày nào đó không xa cũng phải tan tành theo mây khói. Đã biết như vậy mà vẫn cố bám víu giữ lấy một cách tuyệt vọng thì không gọi là kẻ đang ở trong mộng thì còn gọi là gì nữa chứ? Còn hạng người thứ hai biết cuộc đời là mộng, nên họ cố đưa tâm hồn mình vươn lên khỏi những phiền toái của cuộc sống hàng ngày bằng cách nói theo D.T. Suzuki:

"Quả thực, đó há không phải là cái mà người ta có thể tìm kiếm trong thế giới cạnh tranhhư ngụy này. Một góc phòng, dù nhỏ nhoi, mà nơi đó người ta có thể vượt lên những giới hạn của tương đối để có một thoáng nhìn vào vĩnh cửu sao?"

(Thiền Luận quyển hạ - Tuệ Sỹ dịch)

Ông Núi thuộc vào mẫu người trên, nghĩa là một mẫu người từ trong hữu hạn cố vươn lên để bước vào cánh cửa của vô hạn. Nhưng vì sao gọi là chùa Ông Núi? Theo Quách Tấn, trong Nước Non Bình Định thì:

“Người địa phương gọi là Ông Núi, vì thấy nhà sư ở tu trên núi suốt năm. Truyền rằng, ông Núi dùng vỏ cây làm y phục, và ít khi xuống đồng bằng. Thỉnh thoảng cần lương thực thì gánh một gánh củi xuống chân núi để nơi ngã ba đường rồi trở lên. Người quanh vùng đem muối gạo đến để đó rồi gánh củi về dùng. Hôm sau nhà sư đến nhận muối gạo, nhiều ít không biết, mất còn không bận. Nhưng những khi trong hạt có bệnh dịch, thì tự nhiên nhà sư đem thuốc xuống núi cứu chữa. Chữa xong đi ngay, một cái vái chào cũng không nhận.

Nhưng rồi một hôm, những người đốn củi, những đứa trẻ chăn trâu lên núi nhìn vào hang đá nơi ông Núi tu Thiền, thì không thấy ông nữa. Tương truyền rằng, ông Núi vì cảnh lầm than của nhân dân trước sự chuyên quyền của nịnh thần Trương Phúc Loan mà bất lực không làm gì được để chia xẻ bớt cảnh lầm than cơ cực ấy của dân, nên đành phải đau lòngbỏ ra đi."  

Năm 1885, Đào Tấn đang làm Thượng Thư Bộ Công cho triều đình Huế thì đột ngột từ quan về quê lên chùa Ông Núi tu Thiền gần cả năm. Đào Tấn tự nhận mình là Tiểu Linh Phong Mai Tăng. Trong thời gian ẩn tu ở đây Đào Tấn có để lại bài thơ được khắc trên một tảng đá hiện vẫn còn, bài thơ ấy như thế này:

 Bách bát chung thinh khước thọ diên

Ngưu tùy ngâm tuyết khấu đàn Thiền

Thập niên hồ hải quy lai mộng

Nhất cảnh yên hà tự tại Thiên

Giai sĩ từ bi ninh thị Phật

Sơn ông danh tự bán nghi tiên

Thanh tuyền tế ẩm chân tri sự

Bất phụ nhân gian phất diễm truyền

Đặng Quý Dịch, một nhà sưu tầm và nghiên cứu Đào Tấn ở Bình Định, đã dịch ý bài thơ ấy như thế này:

Một trăm lẻ tám tiếng chuông của hồi chuông Bát Nhã lướt nhanh trên đám cây

Ta chợt hứng, vừa ngâm thơ bạch tuyết vừa theo hướng tiếng chuông phát ra mà đến làm lễ trước thạch đàn của Thiền Sư

Ta mười năm lăn lóc trong chốn hồ biển thường ước mơ được trở về với cảnh điền viên

Nay đứng trước cảnh khói sớm ráng chiều ngỡ rằng trời dành riêng cõi này cho lòng ta tự tại

Ta là kẻ sĩ hiền lành, thì nết na cũng như tánh Phật

Còn Thiền Sư tên gọi là ông Núi khiến lòng ta ngỡ là Tiên

Ta uống từng ngụm nhỏ nước trong lành ở con suối này mà ngẫm biết sự thật về cuộc đời của bậc Thiền Sư

Thiền Sư đã không phụ với người đời nên hương thơm vẫn được truyền khắp từ xưa đến nay.

Sau đó không lâu, Đào Tấn lại bị triệu ra Huế làm quan trở lại. Dù sống trong cảnh vinh hiển giữa chốn triều đình nhưng mỗi lần cúi xuống nhìn lại chính mình thì Đào Tấn vẫn xem đó như là thứ bụi đường bẩn đang bám vào chiếc áo phong trần của ông mà thôi, và lúc nào cũng mong ước quay về lại ngôi Chùa xưa, nơi mà dường như một lần Đào Tấn đã thoáng thấy được cánh cửa huyền vi của đạo Thiền:

 Vi tiếu lậu Thiền cơ

Phong trần phong mãn y

Linh Phong tam thập tải

Vị kiến thử Tăng quy

 (Miệng mỉm cười như để lộ lẽ huyền vi trong đạo Thiền

Mà gió bụi đã bám đầy áo

Chùa Linh Phong đã ba chục năm nay

Chưa thấy lão Tăng này trở về)

(Mai Tăng Tiểu Chiếu)

Sau Đào Tấn gần một thế kỷ là Quách Tấn, người mà Phạm Công Thiện đã gọi là: "Một Phật Tử trọn vẹn, đã thu tóm tắt cả những thơ mộng của Phật Giáo vào trong cuộc đời trầm lặng của mình. Quách Tấn đã đi ngược lại tất cả phong trào thời thượng” Quách Tấn đến chùa Ông Núi vào một buổi chiều mùa hè, đến để tìm lại cho được cái hang đá mà ông Núi đã từng tham Thiền nhập định, nhưng “hang bỏ vắng đã lâu đời đường vào hang gai lấp, cửa vào hang mây phong". Chẳng tìm thấy vết tích của Ông Núi đâu hết, chỉ còn lại cái tháp vọng Ông Núi đứng trơ vơ trong nắng chiều:

Có chăng? Chăng mất: người trong tháp

Có đó mà không: khói ẩn cây

(Nước Non Bình Định)

Bởi vậy, nên thi nhân chỉ biết:

Đành gởi nhớ thương trong ký ức

Nghìn sau khói nhạt mối tình xưa

(Nước Non Bình Định)

Dù không tìm thấy dấu chân của Ông Núi đâu hết, nhưng Quách Tấn đã tìm thấy được một buổi chiều, một buổi chiều mà Quách Tấn đã ghi lại bằng những câu rất đơn giản, nhưng sau những câu đơn giản đó, ta có cảm tưởng như có một màu xanh vĩnh cửu đã chớm dậy trong hồn thi nhân:

"Người đến viếng chùa, lòng không rửa mà trong, thân không cánh mà nhẹ. Ngồi tựa bóng cây đón mát, tưởng chừng mình đã xa hẳn cõi trần tục:

Gió thu hồn mộng thiu thiu

Chuông chùa rơi rụng bóng chiều đầy non.

 Nếu khôngtiếng chuông lay mộng, thì mộng còn mãi trong bóng mây ráng..”.

(Nước Non Bình Định)

Đọc mấy dòng đơn giản trên, tôi chợt nhớ có một người yêu thơ Quách Tấn đã nhận xét"Người thơ chỉ sống trong một thoáng cũng bằng kẻ phàm trần sống một đời dài khi lòng mất đi cái bản chất thanh tịnh của thiên nhiên..”.

(Trích Hương Thơ Quách Tấn)

Đúng là dù ta có sống đến một vạn buổi chiều đi nữa cũng không bằng Quách Tấn đã sống trong một buổi chiều trên chùa Ông Núi cách đây hơn nửa thế kỷ.  Ông Núi như vậy có lẽ cũng giống như bao nhiêu bậc hiền nhân vô danh khác đã đến và đi trên cuộc đời này như con nhạn bay qua giữa bầu trời trong xanh (Nhạn quá trường không) mà không hề lưu lại vết tích. Mặc dù vậy, trên đường đến cũng như lúc viếng chùa trở về, Quách Tấn dường như lắng nghe được bước chân của Ông Núi gánh củi xuống núi qua tấm lòng nhớ thương của bao thế hệ người dân đã sanh ra và lớn lên ở vùng núi này đối với ngôi chùa cũng như đối với Ông Núi: 

"Dọc đường khi đi cũng như khi về, thường nghe các em mục đồng, các chàng ngư phủ, với một giọng hát thật thà hồn hậu. Hát những bài hát về chùa Ông Núi, khi thì thánh thoát như:

Cây che đá chất chập chùng

Biển giăng đầu núi chùa lồng trong mây

Bụi đời không gợn mảy may

Chút thân rộng tháng ngày dài thảnh thơi

Khi ngậm ngùi chứa nỗi u hoài như:

"Ông Núi đi đâu

Bỏ bầu sơn thủy

Đủ nhân đủ trí

Thêm vĩ thêm kỳ

Chùa xưa nhạt bóng tà huy

Xui lòng non nước nặng vì nước non”

(Nước Non Bình Định)

 Sự phát triển và tiến bộ của thế giới công nghiệp hiện đại đã đưa con người đối mặt với sự nghèo đói khác còn nguy hiểm hơn cả sự nghèo đói về vật chất nữa. Đó là sự nghèo đói về tinh thần. Giáo sư Lê Triều Phương, hiện đang sống và làm việc tại Đức một nước công nghiệp hàng đầu của thế giới hiện nay đã viết rằng:

“Trong thế giới công nghiệp, người ta thường nghe nói đến ý tưởng “tiến về quá khứ" Tại sao không “quay lui về quá khứ, mà lại "tiến về quá khứ"? Tại sao bao nhiêu thế hệ thanh niên các nước công nghiệp khi trưởng thành, đều nhận thức rằng, mình đã dầm người đến độ chán chường trong đời sống máy móc ào ạt, ồn ào, tiêu thụbị bắt buộc phải tiêu thụ dù mình muốn hay không. Họ thấy mình bị đánh mất và bị cướp mất sự thanh tịnhtự tại của quá khứcố gắng đi tìm chúng trở lại...”

(Trích Hương Thơ Quách Tấn ) .

Điều giáo sư Lê Triều Phương nói đúng như nhan đề của một quyển sách viết bằng tiếng Anh mà tôi đã ngẫu nhiên vừa mới đọc được là Hunger in the time of plenty. Bởi thế, những ngôi chùa tiêu biểu như chùa Ông Núi chẳng hạn thì ngày nay dường như đã không còn nữa. Hay nói đúng hơn là bốn vách tường của chùa thì vẫn đứng đó nhưng “cái hồn” của những ngôi chùa xưa này thì đã mất rồi.

Quách Tấn băn khoăn đi tìm "cái hồn” của những ngôi chùa đã mất ấy.

Có ai ngờ được rằng, giữa một thành phố Nha Trang tân tiến và hiện đại, giữa dòng “ngựa xe như nước áo quần như niêm” này, có một buổi chiều Quách Tấn đã một mình ngơ ngác đi tìm “cái hồn” của những ngôi chùa ấy:

 Đi ngang qua đường Hai Chùa

Nhìn cây me cỗi, lòng chua xót lòng!

Hai Chùa xưa đứng song song

Đường Hai Chùa đó sao không thấy chùa

(Xứ Trầm Hương)

Hoặc có khi trong 'những đêm buồn tỉnh giấc, Quách Tấn bàng hoàng nhợt hỏi:

 Chùa đâu? Chuông trở lạnh!

(Giọt Trăng)

 Nỗi ngậm ngùi này dường như cứ đeo đuổi mãi trong suốt toàn bộ những tác phẩm của Quách Tấn.

Trong một chuyến về thăm quê mới đây, tôi có lên thăm lại chùa Ông Núi. Buổi chiều trên núi vắng vẻ, tôi đứng lại nhìn cổng Tam Quan, vẫn như thuở nào, nghĩa là vẫn con đường đất nhỏ dẫn vào chùa, vẫn mấy cây đa già đứng đó như không hề biết rằng đã có biết bao lớp người đến rồi ra đi không bao giờ trở lại để cùng với chúng lắng nghe niềm tịch mịch của những buổi chiều heo hút ở đây. Tôi đi lên phía Tây của chùa, lội qua con suối nhỏ. Con suối mà tôi tin chắc rằng hồi xưa thế nào khi đốn củi hoặc ngồi Thiền xong, Ông Núi cũng ra đây rồi ngồi trên những hòn đá nhỏ này để nghỉ mệt. Qua khỏi con suối nhỏ, tôi leo lên một tảng đá lớn, hòn đá mà lần viếng chùa cách đây hơn nửa thế kỷ Quách Tấn thế nào cũng đã ngồi để nhìn về phía trước mặt như một câu thơ của Trần Nhân Tông:

Bán vô bán hữu tịch dương biên

(Bên bóng chiều (cảnh vật) nửa như có nửa như không)

“...Lẫn trong màu sắc của đồng ruộng mênh mông, từng chùm từng khoảnh nổi lên màu lục đậm của cây, màu xam xám hoặc đo đỏ của chợ quán, nhà cửa, chùa chiền.. ẩn hiện dưới bóng mây làn khói".

(Nước Non Bình Định)

 Ngồi trên tảng đá rồi nhìn buổi chiều đang xuống chậm trên núi rừng u tịch, lòng tôi bỗng chợt u hoài nhớ về những năm cuối đời nhiều phong ba bão táp của Quách Tấn. Nhưng chừng như càng bão táp bao nhiêu, thì tâm hồn của ông càng hướng về chùa chiền bấy nhiêu, dù chùa chiền lúc ấy (sau 1975) cũng đầy bất an chẳng khác gì cuộc đời của thi nhân:

Nhớ chùa lòng muốn lên thăm

Sườn non đã dốc lại nhiều đá dăm

Lắng tai nghe tiếng chuông chiều

Mặt hồ gợn sóng mây điều bay qua

(Vô Tư)

Lúc đó anh Tuệ Sỹ vẫn còn ở tại chùa Hải Đức trên đồi Trại Thủy của thành phố Nha Trang. Tôi nhớ thỉnh thoảng vào buổi chiều tôi và anh thường xuống nhà thăm Quách Tấn. Những lần viếng thăm như vậy, đã an ủi tâm hồn Quách Tấn rất nhiều:

Bạn thơ rày chẳng còn ai

Tới lui trò chuyện chỉ vài nhà Sư

Chung trà hớp ngụm vô tư

Chia tay nhìn bóng thanh hư gởi lòng

 Khi tiễn chúng tôi về chùa rồi thì Quách Tấn ngồi một mình nhìn đôi chim én đùa giỡn với đám mây trắng trên bầu trời cao trước hiên nhà:

Gặp nhau nửa buổi chuyện trò

Người về am vắng gió ngàn thơm tho

Một mình ngồi tựa lan can

Nhìn đôi chim én cặp làn mây bay

(Một Mình)

 Có trải qua những năm tháng sau 1975 thì mới thấy thấm thía những từ như “vô tư", "thanh hư" hay “nhìn đôi chim én cặp làn mây bay” trong hai bài thơ trên. Chúng nói lên hết tất cả tâm trạng của một người đang ngụp lặn giữa một xã hội bưng bít và hận thù nhưng lúc nào cũng khao khát vươn lên với bầu trời cao rộng. Quách Tấn có hai người bạn (vong niên), cả hai cùng ở chùa Hải Đức Nha Trang, và cả hai đều là những tên tuổi lẫy lừng của văn họctư tưởng Phật Giáo Việt Nam hiện đại. Trong Mộng Ngân Sơn, Quách Tấn có bài tặng Phạm Công Thiện:

 Áo giũ ngày sương gió

Lên chùa thăm cố nhân

Non nghiêng thềm bóng xế

Lịu địu bóng nhàn vân

(Lịu Địu)

Đó là thời gian của những năm cuối thập niên 50 và những năm đầu thập niên 60, đất nước chưa ly loạn, bởi vậy nên chốn Thiền Môn cũng được sống trong không khí êm đềmđạo vị mà ta có thể thấy được qua bài thơ trên. Nhưng đến bài tặng Tuệ Sỹ thì không khí lại hoàn toàn khác, vì đó là khoảng thời gian sau 1975:

 Ngoài trời những gió cùng mưa

Bâng khuâng nhớ bạn cửa chùa viết văn

Hoa đèn nở nhụy chuông ngân

Từng trang giấy lật hương xuân ngọt ngào

(Nhớ Bạn)

Thật là cảm động vì Tuệ Sỹ đến sau Quách Tấn gần nửa thế kỷ mà Quách Tấn vẫn xem như “bạn”, thì đủ biết tấm lòng của Quách Tấn trang trọng với Tuệ Sỹ biết chừng nào. Tôi còn nhớ, có một lần Quách Tấn giảng cho tôi nghe hai câu cuối trong bài thơ Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hạo:

 Nhật mộ hương quan hà xứ thị

Yên ba giang thượng sử nhân sầu

 (Trời tối quê nhà đâu tá nhỉ?

Trên sông khói sóng khiến ai sầu!)

Ông nói rằng, vì Thôi Hạo là một nhà nho, nên mới hoang mang không biết quê mình ở đâu? Chứ mình là Phật Tử thì mình biết rõ quê hương của mình rồi, không cần phải băn khoăn thắc mắc gì nữa. Tất nhiên trong tinh thần của thi ca thì quê hương trong bài thơ trên, ta có thể hiểu nhiều cách khác nhau. Có thể đó là tâm trạng của một người đang lang thang phiêu bạt tận nơi chân trời góc bể khi chiều xuống thì chạnh lòng nhớ về quê hương, chứ không hẳn là quê hương tâm linh theo như cách hiểu của Quách Tấn.

Nhưng cách giải thích như vậy đã khẳng định rằng, Quách Tấn là một Phật Tử trọn vẹn, một Phật Tử đặt niềm tin tuyệt đối của mình vào một quê hương tâm linh theo nghĩa của Phật Giáo. Và theo tôi, Quách Tấn đã khẳng định quê hương tâm linh ấy qua bài thơ sau đây:

 Nghìn xưa không còn nữa

Nghìn sau rồi cũng không

Phảng phất bờ trăng rạng

Hương ưu đàm trổ bông

(Thoáng Hiện)

Và tôi vẫn cầu mong rằng hiện nay Quách Tấn đang đứng ngắm hoa ưu đàm trổ bông ở một quốc độ nào đó. Nơi đó tất nhiên không còn sự đau khổ và dằn vặt như kiếp người mà ông vừa vứt bỏ để ra đi.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 13014)
Tu hành Duy thứcđạt đến hai vô ngã bằng cách biết ngã và pháp không là gì ngoài sự biến hiện của tâm thức. Nói cách khác, ngã và pháp chỉvọng tưởng không thật.
(Xem: 17062)
Ý thức là cái hoạt động mạnh nhất ở nơi con người; cho nên, cái gì tốt đẹp nhất cũng như cái gì xấu xa nhất của con người đều do ý thức tạo ra. Cũng ý thức là cái thức biến đổi...
(Xem: 13112)
Đức Phật đến với cuộc đời không gì khác ngoài việc chỉ bày cho con người một nếp sống hạnh phúc an lạc. Những lời dạy của Ngài thật giản dị nhưng lại hết sức thiết thực...
(Xem: 17278)
Chữ Phật không phải là một danh từ riêng, mà là một danh hiệu. Trong truyền thống Phật giáo, có nhiều vị Phật trong quá khứ, hiện tại cũng như tương lai.
(Xem: 21510)
Đối với đạo Phật, học thuyết âm dương chỉ là tưởng tri của các học giả, không thể là chân lý. Vậy chân lý của đạo Phật là gì? Có thể gói gọn trong một chữ “Khổ”.
(Xem: 13115)
Ở trong Tứ thánh đế, Diệt thánh đếchân lý cứu cánh, là chân lý tuyệt đối, là chân lý duy nhất, là chân lý tối hậu được chứng nhập bằng Đệ nhất nghĩa trí.
(Xem: 14303)
Phật Giáo, nhấn mạnh vào tầm quan trọng của kinh nghiệm trực tiếp trong vấn đề nghiên cứu tâm lý học. Nếu chỉ chú trọng duy nhất vào lý thuyết thì sẽ đánh mất đi những điều căn bản.
(Xem: 12717)
Nhiều người muốn tạo sinh vì nhiều lý do khác nhau. Hoặc là họ muốn làm sống lại một người thân yêu đã chết. Hoặc là họ muốn mình trường sanh bất tử.
(Xem: 13543)
Phật giáo cho rằng sự li hợp thành bại của hết thảy việc người trên thế gian này, đều không tách rời nguyên tắc “Nhân duyên quả báo”, kệ nhân quả ba đời nói rằng...
(Xem: 28442)
Tác phẩm này là công trình nghiên cứu mang tính khoa học, nhưng nó có thể giúp cho các nhà nghiên cứu về Phật giáo tìm hiểu thêm về lịch sử Phật giáo...
(Xem: 23250)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34171)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 28734)
Nguyễn Du cho chúng ta thấy rằng Cụ không những là một người am hiểu sâu xa về Phật giáo mà còn là một hành giả tu tập Thiền tông qua Kinh Kim Cương... Đại Lãn
(Xem: 32035)
Đức Phật khi còn tại thế đã luôn luôn từ chối việc dùng giáo lý để thỏa mãn khao khát kiến thức con người... Nguyễn Điều
(Xem: 11234)
Chỗ ấy chính là Niết Bàn Diệu Tâm Thật Tướng, Vô Tướng, là Như Lai tạng, là Chơn Như, tịch diệt... HT Thích Như Điển
(Xem: 11903)
Trong kinh A Hàm, Đức Phật đã chỉ dạy các đệ tử không nên để tâm rong ruổi đến những cảnh giới viễn vông xa rời thực tế. Phật pháp là những gì thân thiết...
(Xem: 26135)
‘Sự quyến rũ của Đạo Phật Trong Thế Giới Mới’ được tuyển dịch từ những bài viết và pháp thoại của nhiều bậc Tôn túc và các học giả Phật Giáo nổi tiếng thế giới...
(Xem: 17245)
Phật Giáo khuyên chúng ta phải luôn giữ sự chính xác và phải chú tâm đến từng cảm nhận của mình trong cuộc sống, trong mỗi tư duy, trong từng xúc cảm, và mỗi hành động của mình.
(Xem: 14429)
Ta có thể tìm thấy thông tin về bức hình trên của Phật Thích-ca trong hai tài liệu sau đây. Một là, trong tác phẩm Vrai Zen của thiền sư Taisen Deshimaru (1914-1982).
(Xem: 34309)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 13025)
Chuyển ngữ kinh không chỉ sẽ thuận lợi trong việc hoằng pháp, mà còn dễ dàng đưa giáo pháp Đức Phật vào nền văn hóa dân gian qua các dạng khác như chuyện cổ tích, ca dao...
(Xem: 12196)
Tóm lại Phật Giáo Nguyên ThủyPhật Giáo Đại Thừa không phải là hai "học phái" hay "tông phái" khác nhau, mà đúng ra chỉ là hai thái độ hay hai chủ trương tu tập khác nhau, và cùng tiến bước trên một Con Đường chung.
(Xem: 13304)
Sự tái sinh có đúng là một sự tiếp nối liên tục của nhiều kiếp sống sinh học khác nhau hay là trái lại đấy chỉ là các thể dạng tâm thần khác nhau có thể (hay không có thể)...
(Xem: 40364)
Đa số dân chúng là Phật tử thuần thành và số lượng tu sĩ khá đông đảo nên Miến Điện mệnh danh xứ quốc giáo với hai đường lối rõ rệt cho chư Tăng Ni: PHÁP HỌC (Pariyattidhamma) và PHÁP HÀNH (Patipattidhamma).
(Xem: 26794)
Tập sách nhỏ này, là một tập tài liệu vô cùng quí giá, do sự tham khảo các kinh sách của Đức Thế Tôn để lại với các tài liệu tác giả đã sưu tầm và tham quan tại một số địa phương...
(Xem: 14374)
Nếu chúng ta là người Phật tử thì ngày 23 tháng chạp không nên theo tập tục văn hóa mê tín dị đoan mua cá chép vàng về để giết hại cúng Ông Táo, việc làm ấy sai trái đạo lý...
(Xem: 13146)
Phật Giáo là một trong những tôn giáo đầu tiên có giáo đoàn cho ni giới (đại khái là nữ tu sĩ). Giáo đoàn này được thành lập năm năm sau khi Đức Phật thành đạo.
(Xem: 13362)
Phật giáo nhận thấy rằng tất cả mọi người và mọi chúng sanh đều phụ thuộc lẫn nhau. Mặc dù thân và tâm của mọi người khác nhau nhưng mọi người vẫn tương quan với nhau.
(Xem: 12424)
Phật giáo nhận thấy rằng tất cả mọi người và mọi chúng sanh đều phụ thuộc lẫn nhau. Mặc dù thân và tâm của mọi người khác nhau nhưng mọi người vẫn tương quan với nhau.
(Xem: 13031)
Với Duy thức học, mắt, tai… là các căn. Căn có hai phần, là “phù trần căn” và “thắng nghĩa căn”. “Phù trần căn” là năm giác quan mắt, tai… mà ta có thể nhận biết.
(Xem: 12202)
Phật giáo nói về sự khác nhau giữa cái “tôi’ quy ước (tục đế) và "cái tôi" không thật. "Cái tôi" quy ước là "cái tôi" có thể quy cho sự tương tục không ngừng của mỗi cá nhân...
(Xem: 11694)
Đạo Phật đã tồn tại và phát triển 2600 năm kể từ khi Đức Phật giác ngộ lúc 35 tuổi. Giáo lý của Ngài được đặc trên nền tảng Từ biTrí tuệ qua sự chứng nghiệm của Ngài.
(Xem: 12474)
Con người và loài thú đều giống nhau: đói thì kiếm ăn, khát thì kiếm nước uống, cũng đều duy trì bản năng sinh tồn như nhau... Thích Trí Giải
(Xem: 17554)
Những lời Phật dạy trong kinh chỉ giúp chúng sinh phá bỏ những hiểu biết tương đối, phá bỏ những kiến chấp sai lầm cố hữu, những vướng mắc lâu đời...
(Xem: 12113)
Cứu cánh của Phật giáo là sự Giác Ngộ, phương tiện giúp đạt được Giác NgộTrí Tuệ, và đối nghịch với Trí TuệVô Minh. Vậy muốn đạt được Giác Ngộ thì phải loại trừ Vô Minh.
(Xem: 12645)
Từ nhiều thông tin, cách thờ phượng và sự phát triển khác nhau, hiện nay đạo Phật dường như đang dần dần thâm nhập vào nền văn hóa của toàn thế giới.
(Xem: 18336)
An cư nghĩa là khoảng thời gian người xuất gia chuyên tâm tu trì lời Phật dạy hay còn gọi là thúc liễm thân tâm theo giáo phápgiới luật do Đức Phật tuyên thuyết.
(Xem: 14168)
Ý nghĩa tôn giáo của giáo lý Duyên khởi nhấn mạnh giáo lý về học thuyết của nghiệp (karma)- giải thích căn bản của sự đau khổ trong sự tồn tại của con ngườithế giới.
(Xem: 12888)
Dù có ánh nắng vàng rực rỡ hay không, sắc diện của Đức Thế Tôn vẫn như vầng trăng rằm. Đôi mắt dịu hiền từ bi tỏa rộng... Nguyên Siêu
(Xem: 11217)
Dựa theo tinh thần Phật giáo, do nhân duyên hòa hợp tất cả những nghiệp duyên từ trong những đời quá khứkiến tạo ra con người trong kiếp này.
(Xem: 12043)
Tâm ý không mang bản chất thương hay ghét, thích hay không thích. Tâm ý (mind) có nghĩa là “khả năng hiểu biết” (knowing faculty), “khả năng tri nhận” (cognizing faculty).
(Xem: 13384)
Một khi chánh trí kiến (right understanding) đã phân biệt được cái ảo giác về tự ngã (self created ego) rồi thì mối quan hệ sẽ trở nên thân hữuhuynh đệ hơn.
(Xem: 10745)
Chúng ta phóng sanh loài khác chính là phóng sanh cho chính chúng ta, chúng ta cứu giúp sự sống của người khác chính là cứu giúp sự sống của chính chúng ta.
(Xem: 10992)
Tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên xuất bản năm 1933 là cuốn tiểu thuyết mở đầu cho sự nghiệp sáng tác của nhà văn Khái Hưng... Hoàng Như Mai
(Xem: 10193)
Câu chuyện về các tôn giáo lớn của Ấn Độ bắt đầu tại vùng thung lũng Ấn Hà vào khoảng 2,500 năm trước công nguyên. Ở đó thổ dân Dravidian đã thiết lập nền văn minh Harappa cực thịnh...
(Xem: 28719)
Nền giáo học của Phật giáo có nội dung rộng lớn tận hư không pháp giới. Phật dạy cho chúng ta có một trí tuệ đối với vũ trụ nhân sinh, giúp chúng ta nhận thức một cách chính xác...
(Xem: 25083)
Mọi người đều biết là Đức Phật không hề bắt ai phải tin vào giáo lý của Ngài và Ngài khuyên các đệ tử hãy sử dụng lý trí của mình dựa vào các phương pháp tu tập...
(Xem: 26758)
Giáo lý đạo đức của Đại thừa được đề ra trong học thuyết về các ‘Ba-la-mật’ (pāramitā), khởi đầu là sáu, gồm: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền địnhtrí tuệ ba-la-mật.
(Xem: 25585)
Thật vậy, trên bất cứ một khía cạnh nào, Đức Phật đều giữ cho tôn giáo của Ngài không bị vướng mắc vào những thứ cành lá chết khô của quá khứ.
(Xem: 18548)
Để thực hành lòng từ, trước nhất là bạn nên trực tiếp giúp đỡ họ nhu cầu về thức ăn, chỗ ở, thuốc men v.v… Nhưng điều đó chưa đủ, mà bạn cần phải ngăn chặn nguyên nhân...
(Xem: 22872)
Khi tại thế, Ðức Phật đi hoằng hóa nhiều nước trong xứ Ấn Ðộ, đệ tử xuất gia của ngài có đến 1250 vị, trong đó có Bà Ma Ha Ba Xà Ba Ðề...
(Xem: 34331)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 31990)
Tất nhiên không ai trong chúng ta muốn khổ, điều quan trọng nhất là chúng ta nhận ra điều gì tạo ra khổ, tìm ra nguyên nhân tạo khổ và cố gắng loại trừ những nhân tố này.
(Xem: 30235)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 30490)
Một cách tự nhiên, cảm xúc có thể tích cựctiêu cực. Tuy nhiên, khi nói về sân hận hay giận dữ, v.v..., chúng ta đang đối phó với những cảm xúc tiêu cực.
(Xem: 20854)
Gốc rễ của tất cả những tâm thức phiền não tiêu cực là sự dính mắc, thủ trước, hay chấp ngã của chúng ta với những thứ, những vật, những sự kiện như tồn tại thực sự.
(Xem: 20099)
Nguyện mang lại an vui, Cho tất cả chúng sinh. Tôi xin yêu thương họ, Với tất cả lòng tôi.
(Xem: 19292)
Tâm vốn không thiện không ác, chỉ vì có Hành nên có thức qua trung gian của Tâm mà ta gọi Tâm thiện tâm ác. Gọi như thế là ta gọi cái trạng thái của thức mà thôi.
(Xem: 24280)
Để có thể ý thức được sự kiện tất cả các hiện tượng ảo giác đều không khác nhau trên phương diện tánh không, thì nhất thiết phải tập trung sự suy tư thẳng vào tánh không.
(Xem: 30489)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant