Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Đi Tìm Lại Đám Mây Trắng Trên Mái Chùa Xưa

30 Tháng Mười 201614:05(Xem: 3879)
Đi Tìm Lại Đám Mây Trắng Trên Mái Chùa Xưa
  ĐỨC PHẬT TRÊN CÕI PHÙ DU

HT Thích Phước An
Nhà xuất bản Hồng Đức Việt Nam 2012

Đức Phật trên cõi phù du
Đi tìm lại đám mây trắng trên mái chùa xưa

Cách làng quê tôi chừng năm cây số có một ngôi chùa dù có tên chính thức là chùa Linh Phong, nhưng người dân sống quanh vùng núi này từ bao đời nay vẫn thường quen gọi là chùa ông Núi. Hồi còn là chú tiểu ở vùng quê này, hễ cứ mỗi lần Tết hoặc cái ngày kỵ tổ thì thầy tôi vẫn thường dẫn tôi đi theo. Vì chùa nằm tận trên đỉnh núi, từ chân núi lên đến chùa đi bộ phải mất chừng nửa tiếng. Với cái nhìn của tuổi thơ thì đường lên núi chừng ấy giờ quả thật là đường quá dài và núi quá cao. Nhưng nếu đến chùa vào những ngày cuối năm thì thấy chùa lại càng cao hơn nữa. Vì vào những ngày cuối đông ấy chùa lúc nào gần như cũng bao phủ bởi mây trắng và sương mù. Cái hình ảnh ngôi chùa và những tháp cổ chìm ngập trong khói sương và mây trắng từ những ngày còn thơ ấy lúc nào cũng đậm đà trong ký ức xa xôi của tôi. Bởi vậy, khi lớn lên, mỗi lần đọc được bài thơ nào có nhắc đến chùa và mây trắng thì bài thơ ấy tất nhiên đối với tôi phải là bài thơ hay nhất.

Nhưng bây giờ, thỉnh thoảng có những lúc tâm thức hoang mang tôi đâm ra nghi ngờ và băn khoăn tự hỏi, liệu cái hình ảnh đầy thi ca ấy, cái hình ảnh một nhà sư sống trên núi cao trong một thảo am mà một nửa thì cho những đám mây trời, còn một nửa nữa thì để cho nhà sư, như một bài thơ của một nhà thơ Trung Quốc nào đó đã mô tả, hay Nguyễn Du của Việt Nam cũng có hai câu tương tự như vậy.

Cổ tự vô danh nan vấn tấn

Bạch vân thâm xứ ngọa sơn tăng

(Chùa cổ không có tên, khó hỏi thăm

Trong tầng núi cao đầy mây trắng che, có nhà sư đang nằm ngủ)

 Chỉ có một hình ảnh mơ mộng hảo huyền của những kẻ đa sầu đa cảm, một hình ảnh đã hoàn toàn lạc điệu giữa một xã hội quá thực dụng như xã hội hiện nay chăng? Những lúc mà tâm hồn bị xao động như vậy, thì lập tức tôi lại viện dẫn đến hai câu thơ khác cũng của Nguyễn Du:

Tri giao quái ngã sầu đa mộng

Thiên hạ hà nhân bất mộng trung

(Những người bạn thân tình quen biết đều chê trách tôi sao hay sầu, hay mộng

Tuy nhiên, có ai trong cõi người ta mà không ở trong mộng?)

Như vậy là tôi tự lý luận rằng, tiền tài, danh vọng, quyền hành, địa vịsắc dục, tức là những thứ mà người có đầu óc thực dụng phải tốn biết bao công sức để đạt cho kỳ được, chắc chắn một ngày nào đó không xa cũng phải tan tành theo mây khói. Đã biết như vậy mà vẫn cố bám víu giữ lấy một cách tuyệt vọng thì không gọi là kẻ đang ở trong mộng thì còn gọi là gì nữa chứ? Còn hạng người thứ hai biết cuộc đời là mộng, nên họ cố đưa tâm hồn mình vươn lên khỏi những phiền toái của cuộc sống hàng ngày bằng cách nói theo D.T. Suzuki:

"Quả thực, đó há không phải là cái mà người ta có thể tìm kiếm trong thế giới cạnh tranhhư ngụy này. Một góc phòng, dù nhỏ nhoi, mà nơi đó người ta có thể vượt lên những giới hạn của tương đối để có một thoáng nhìn vào vĩnh cửu sao?"

(Thiền Luận quyển hạ - Tuệ Sỹ dịch)

Ông Núi thuộc vào mẫu người trên, nghĩa là một mẫu người từ trong hữu hạn cố vươn lên để bước vào cánh cửa của vô hạn. Nhưng vì sao gọi là chùa Ông Núi? Theo Quách Tấn, trong Nước Non Bình Định thì:

“Người địa phương gọi là Ông Núi, vì thấy nhà sư ở tu trên núi suốt năm. Truyền rằng, ông Núi dùng vỏ cây làm y phục, và ít khi xuống đồng bằng. Thỉnh thoảng cần lương thực thì gánh một gánh củi xuống chân núi để nơi ngã ba đường rồi trở lên. Người quanh vùng đem muối gạo đến để đó rồi gánh củi về dùng. Hôm sau nhà sư đến nhận muối gạo, nhiều ít không biết, mất còn không bận. Nhưng những khi trong hạt có bệnh dịch, thì tự nhiên nhà sư đem thuốc xuống núi cứu chữa. Chữa xong đi ngay, một cái vái chào cũng không nhận.

Nhưng rồi một hôm, những người đốn củi, những đứa trẻ chăn trâu lên núi nhìn vào hang đá nơi ông Núi tu Thiền, thì không thấy ông nữa. Tương truyền rằng, ông Núi vì cảnh lầm than của nhân dân trước sự chuyên quyền của nịnh thần Trương Phúc Loan mà bất lực không làm gì được để chia xẻ bớt cảnh lầm than cơ cực ấy của dân, nên đành phải đau lòngbỏ ra đi."  

Năm 1885, Đào Tấn đang làm Thượng Thư Bộ Công cho triều đình Huế thì đột ngột từ quan về quê lên chùa Ông Núi tu Thiền gần cả năm. Đào Tấn tự nhận mình là Tiểu Linh Phong Mai Tăng. Trong thời gian ẩn tu ở đây Đào Tấn có để lại bài thơ được khắc trên một tảng đá hiện vẫn còn, bài thơ ấy như thế này:

 Bách bát chung thinh khước thọ diên

Ngưu tùy ngâm tuyết khấu đàn Thiền

Thập niên hồ hải quy lai mộng

Nhất cảnh yên hà tự tại Thiên

Giai sĩ từ bi ninh thị Phật

Sơn ông danh tự bán nghi tiên

Thanh tuyền tế ẩm chân tri sự

Bất phụ nhân gian phất diễm truyền

Đặng Quý Dịch, một nhà sưu tầm và nghiên cứu Đào Tấn ở Bình Định, đã dịch ý bài thơ ấy như thế này:

Một trăm lẻ tám tiếng chuông của hồi chuông Bát Nhã lướt nhanh trên đám cây

Ta chợt hứng, vừa ngâm thơ bạch tuyết vừa theo hướng tiếng chuông phát ra mà đến làm lễ trước thạch đàn của Thiền Sư

Ta mười năm lăn lóc trong chốn hồ biển thường ước mơ được trở về với cảnh điền viên

Nay đứng trước cảnh khói sớm ráng chiều ngỡ rằng trời dành riêng cõi này cho lòng ta tự tại

Ta là kẻ sĩ hiền lành, thì nết na cũng như tánh Phật

Còn Thiền Sư tên gọi là ông Núi khiến lòng ta ngỡ là Tiên

Ta uống từng ngụm nhỏ nước trong lành ở con suối này mà ngẫm biết sự thật về cuộc đời của bậc Thiền Sư

Thiền Sư đã không phụ với người đời nên hương thơm vẫn được truyền khắp từ xưa đến nay.

Sau đó không lâu, Đào Tấn lại bị triệu ra Huế làm quan trở lại. Dù sống trong cảnh vinh hiển giữa chốn triều đình nhưng mỗi lần cúi xuống nhìn lại chính mình thì Đào Tấn vẫn xem đó như là thứ bụi đường bẩn đang bám vào chiếc áo phong trần của ông mà thôi, và lúc nào cũng mong ước quay về lại ngôi Chùa xưa, nơi mà dường như một lần Đào Tấn đã thoáng thấy được cánh cửa huyền vi của đạo Thiền:

 Vi tiếu lậu Thiền cơ

Phong trần phong mãn y

Linh Phong tam thập tải

Vị kiến thử Tăng quy

 (Miệng mỉm cười như để lộ lẽ huyền vi trong đạo Thiền

Mà gió bụi đã bám đầy áo

Chùa Linh Phong đã ba chục năm nay

Chưa thấy lão Tăng này trở về)

(Mai Tăng Tiểu Chiếu)

Sau Đào Tấn gần một thế kỷ là Quách Tấn, người mà Phạm Công Thiện đã gọi là: "Một Phật Tử trọn vẹn, đã thu tóm tắt cả những thơ mộng của Phật Giáo vào trong cuộc đời trầm lặng của mình. Quách Tấn đã đi ngược lại tất cả phong trào thời thượng” Quách Tấn đến chùa Ông Núi vào một buổi chiều mùa hè, đến để tìm lại cho được cái hang đá mà ông Núi đã từng tham Thiền nhập định, nhưng “hang bỏ vắng đã lâu đời đường vào hang gai lấp, cửa vào hang mây phong". Chẳng tìm thấy vết tích của Ông Núi đâu hết, chỉ còn lại cái tháp vọng Ông Núi đứng trơ vơ trong nắng chiều:

Có chăng? Chăng mất: người trong tháp

Có đó mà không: khói ẩn cây

(Nước Non Bình Định)

Bởi vậy, nên thi nhân chỉ biết:

Đành gởi nhớ thương trong ký ức

Nghìn sau khói nhạt mối tình xưa

(Nước Non Bình Định)

Dù không tìm thấy dấu chân của Ông Núi đâu hết, nhưng Quách Tấn đã tìm thấy được một buổi chiều, một buổi chiều mà Quách Tấn đã ghi lại bằng những câu rất đơn giản, nhưng sau những câu đơn giản đó, ta có cảm tưởng như có một màu xanh vĩnh cửu đã chớm dậy trong hồn thi nhân:

"Người đến viếng chùa, lòng không rửa mà trong, thân không cánh mà nhẹ. Ngồi tựa bóng cây đón mát, tưởng chừng mình đã xa hẳn cõi trần tục:

Gió thu hồn mộng thiu thiu

Chuông chùa rơi rụng bóng chiều đầy non.

 Nếu khôngtiếng chuông lay mộng, thì mộng còn mãi trong bóng mây ráng..”.

(Nước Non Bình Định)

Đọc mấy dòng đơn giản trên, tôi chợt nhớ có một người yêu thơ Quách Tấn đã nhận xét"Người thơ chỉ sống trong một thoáng cũng bằng kẻ phàm trần sống một đời dài khi lòng mất đi cái bản chất thanh tịnh của thiên nhiên..”.

(Trích Hương Thơ Quách Tấn)

Đúng là dù ta có sống đến một vạn buổi chiều đi nữa cũng không bằng Quách Tấn đã sống trong một buổi chiều trên chùa Ông Núi cách đây hơn nửa thế kỷ.  Ông Núi như vậy có lẽ cũng giống như bao nhiêu bậc hiền nhân vô danh khác đã đến và đi trên cuộc đời này như con nhạn bay qua giữa bầu trời trong xanh (Nhạn quá trường không) mà không hề lưu lại vết tích. Mặc dù vậy, trên đường đến cũng như lúc viếng chùa trở về, Quách Tấn dường như lắng nghe được bước chân của Ông Núi gánh củi xuống núi qua tấm lòng nhớ thương của bao thế hệ người dân đã sanh ra và lớn lên ở vùng núi này đối với ngôi chùa cũng như đối với Ông Núi: 

"Dọc đường khi đi cũng như khi về, thường nghe các em mục đồng, các chàng ngư phủ, với một giọng hát thật thà hồn hậu. Hát những bài hát về chùa Ông Núi, khi thì thánh thoát như:

Cây che đá chất chập chùng

Biển giăng đầu núi chùa lồng trong mây

Bụi đời không gợn mảy may

Chút thân rộng tháng ngày dài thảnh thơi

Khi ngậm ngùi chứa nỗi u hoài như:

"Ông Núi đi đâu

Bỏ bầu sơn thủy

Đủ nhân đủ trí

Thêm vĩ thêm kỳ

Chùa xưa nhạt bóng tà huy

Xui lòng non nước nặng vì nước non”

(Nước Non Bình Định)

 Sự phát triển và tiến bộ của thế giới công nghiệp hiện đại đã đưa con người đối mặt với sự nghèo đói khác còn nguy hiểm hơn cả sự nghèo đói về vật chất nữa. Đó là sự nghèo đói về tinh thần. Giáo sư Lê Triều Phương, hiện đang sống và làm việc tại Đức một nước công nghiệp hàng đầu của thế giới hiện nay đã viết rằng:

“Trong thế giới công nghiệp, người ta thường nghe nói đến ý tưởng “tiến về quá khứ" Tại sao không “quay lui về quá khứ, mà lại "tiến về quá khứ"? Tại sao bao nhiêu thế hệ thanh niên các nước công nghiệp khi trưởng thành, đều nhận thức rằng, mình đã dầm người đến độ chán chường trong đời sống máy móc ào ạt, ồn ào, tiêu thụbị bắt buộc phải tiêu thụ dù mình muốn hay không. Họ thấy mình bị đánh mất và bị cướp mất sự thanh tịnhtự tại của quá khứcố gắng đi tìm chúng trở lại...”

(Trích Hương Thơ Quách Tấn ) .

Điều giáo sư Lê Triều Phương nói đúng như nhan đề của một quyển sách viết bằng tiếng Anh mà tôi đã ngẫu nhiên vừa mới đọc được là Hunger in the time of plenty. Bởi thế, những ngôi chùa tiêu biểu như chùa Ông Núi chẳng hạn thì ngày nay dường như đã không còn nữa. Hay nói đúng hơn là bốn vách tường của chùa thì vẫn đứng đó nhưng “cái hồn” của những ngôi chùa xưa này thì đã mất rồi.

Quách Tấn băn khoăn đi tìm "cái hồn” của những ngôi chùa đã mất ấy.

Có ai ngờ được rằng, giữa một thành phố Nha Trang tân tiến và hiện đại, giữa dòng “ngựa xe như nước áo quần như niêm” này, có một buổi chiều Quách Tấn đã một mình ngơ ngác đi tìm “cái hồn” của những ngôi chùa ấy:

 Đi ngang qua đường Hai Chùa

Nhìn cây me cỗi, lòng chua xót lòng!

Hai Chùa xưa đứng song song

Đường Hai Chùa đó sao không thấy chùa

(Xứ Trầm Hương)

Hoặc có khi trong 'những đêm buồn tỉnh giấc, Quách Tấn bàng hoàng nhợt hỏi:

 Chùa đâu? Chuông trở lạnh!

(Giọt Trăng)

 Nỗi ngậm ngùi này dường như cứ đeo đuổi mãi trong suốt toàn bộ những tác phẩm của Quách Tấn.

Trong một chuyến về thăm quê mới đây, tôi có lên thăm lại chùa Ông Núi. Buổi chiều trên núi vắng vẻ, tôi đứng lại nhìn cổng Tam Quan, vẫn như thuở nào, nghĩa là vẫn con đường đất nhỏ dẫn vào chùa, vẫn mấy cây đa già đứng đó như không hề biết rằng đã có biết bao lớp người đến rồi ra đi không bao giờ trở lại để cùng với chúng lắng nghe niềm tịch mịch của những buổi chiều heo hút ở đây. Tôi đi lên phía Tây của chùa, lội qua con suối nhỏ. Con suối mà tôi tin chắc rằng hồi xưa thế nào khi đốn củi hoặc ngồi Thiền xong, Ông Núi cũng ra đây rồi ngồi trên những hòn đá nhỏ này để nghỉ mệt. Qua khỏi con suối nhỏ, tôi leo lên một tảng đá lớn, hòn đá mà lần viếng chùa cách đây hơn nửa thế kỷ Quách Tấn thế nào cũng đã ngồi để nhìn về phía trước mặt như một câu thơ của Trần Nhân Tông:

Bán vô bán hữu tịch dương biên

(Bên bóng chiều (cảnh vật) nửa như có nửa như không)

“...Lẫn trong màu sắc của đồng ruộng mênh mông, từng chùm từng khoảnh nổi lên màu lục đậm của cây, màu xam xám hoặc đo đỏ của chợ quán, nhà cửa, chùa chiền.. ẩn hiện dưới bóng mây làn khói".

(Nước Non Bình Định)

 Ngồi trên tảng đá rồi nhìn buổi chiều đang xuống chậm trên núi rừng u tịch, lòng tôi bỗng chợt u hoài nhớ về những năm cuối đời nhiều phong ba bão táp của Quách Tấn. Nhưng chừng như càng bão táp bao nhiêu, thì tâm hồn của ông càng hướng về chùa chiền bấy nhiêu, dù chùa chiền lúc ấy (sau 1975) cũng đầy bất an chẳng khác gì cuộc đời của thi nhân:

Nhớ chùa lòng muốn lên thăm

Sườn non đã dốc lại nhiều đá dăm

Lắng tai nghe tiếng chuông chiều

Mặt hồ gợn sóng mây điều bay qua

(Vô Tư)

Lúc đó anh Tuệ Sỹ vẫn còn ở tại chùa Hải Đức trên đồi Trại Thủy của thành phố Nha Trang. Tôi nhớ thỉnh thoảng vào buổi chiều tôi và anh thường xuống nhà thăm Quách Tấn. Những lần viếng thăm như vậy, đã an ủi tâm hồn Quách Tấn rất nhiều:

Bạn thơ rày chẳng còn ai

Tới lui trò chuyện chỉ vài nhà Sư

Chung trà hớp ngụm vô tư

Chia tay nhìn bóng thanh hư gởi lòng

 Khi tiễn chúng tôi về chùa rồi thì Quách Tấn ngồi một mình nhìn đôi chim én đùa giỡn với đám mây trắng trên bầu trời cao trước hiên nhà:

Gặp nhau nửa buổi chuyện trò

Người về am vắng gió ngàn thơm tho

Một mình ngồi tựa lan can

Nhìn đôi chim én cặp làn mây bay

(Một Mình)

 Có trải qua những năm tháng sau 1975 thì mới thấy thấm thía những từ như “vô tư", "thanh hư" hay “nhìn đôi chim én cặp làn mây bay” trong hai bài thơ trên. Chúng nói lên hết tất cả tâm trạng của một người đang ngụp lặn giữa một xã hội bưng bít và hận thù nhưng lúc nào cũng khao khát vươn lên với bầu trời cao rộng. Quách Tấn có hai người bạn (vong niên), cả hai cùng ở chùa Hải Đức Nha Trang, và cả hai đều là những tên tuổi lẫy lừng của văn họctư tưởng Phật Giáo Việt Nam hiện đại. Trong Mộng Ngân Sơn, Quách Tấn có bài tặng Phạm Công Thiện:

 Áo giũ ngày sương gió

Lên chùa thăm cố nhân

Non nghiêng thềm bóng xế

Lịu địu bóng nhàn vân

(Lịu Địu)

Đó là thời gian của những năm cuối thập niên 50 và những năm đầu thập niên 60, đất nước chưa ly loạn, bởi vậy nên chốn Thiền Môn cũng được sống trong không khí êm đềmđạo vị mà ta có thể thấy được qua bài thơ trên. Nhưng đến bài tặng Tuệ Sỹ thì không khí lại hoàn toàn khác, vì đó là khoảng thời gian sau 1975:

 Ngoài trời những gió cùng mưa

Bâng khuâng nhớ bạn cửa chùa viết văn

Hoa đèn nở nhụy chuông ngân

Từng trang giấy lật hương xuân ngọt ngào

(Nhớ Bạn)

Thật là cảm động vì Tuệ Sỹ đến sau Quách Tấn gần nửa thế kỷ mà Quách Tấn vẫn xem như “bạn”, thì đủ biết tấm lòng của Quách Tấn trang trọng với Tuệ Sỹ biết chừng nào. Tôi còn nhớ, có một lần Quách Tấn giảng cho tôi nghe hai câu cuối trong bài thơ Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hạo:

 Nhật mộ hương quan hà xứ thị

Yên ba giang thượng sử nhân sầu

 (Trời tối quê nhà đâu tá nhỉ?

Trên sông khói sóng khiến ai sầu!)

Ông nói rằng, vì Thôi Hạo là một nhà nho, nên mới hoang mang không biết quê mình ở đâu? Chứ mình là Phật Tử thì mình biết rõ quê hương của mình rồi, không cần phải băn khoăn thắc mắc gì nữa. Tất nhiên trong tinh thần của thi ca thì quê hương trong bài thơ trên, ta có thể hiểu nhiều cách khác nhau. Có thể đó là tâm trạng của một người đang lang thang phiêu bạt tận nơi chân trời góc bể khi chiều xuống thì chạnh lòng nhớ về quê hương, chứ không hẳn là quê hương tâm linh theo như cách hiểu của Quách Tấn.

Nhưng cách giải thích như vậy đã khẳng định rằng, Quách Tấn là một Phật Tử trọn vẹn, một Phật Tử đặt niềm tin tuyệt đối của mình vào một quê hương tâm linh theo nghĩa của Phật Giáo. Và theo tôi, Quách Tấn đã khẳng định quê hương tâm linh ấy qua bài thơ sau đây:

 Nghìn xưa không còn nữa

Nghìn sau rồi cũng không

Phảng phất bờ trăng rạng

Hương ưu đàm trổ bông

(Thoáng Hiện)

Và tôi vẫn cầu mong rằng hiện nay Quách Tấn đang đứng ngắm hoa ưu đàm trổ bông ở một quốc độ nào đó. Nơi đó tất nhiên không còn sự đau khổ và dằn vặt như kiếp người mà ông vừa vứt bỏ để ra đi.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 4156)
Khi chúng ta mới học lần đầu rằng cứu cánh của sự tu tập đạo Phật có tên gọi là Nibbana (Nirvana, Niết-bàn),
(Xem: 2258)
“Đức Phật nói: Như vậy, như vậy, như lời ông nói. Tu Bồ Đề! Nhất thiết chủng trí, chẳng phải là pháp tạo tác, chúng sanh cũng chẳng phải là pháp tạo tác.
(Xem: 3418)
Đức Phật cho rằng, bạn phải quan sát hơi thở như nó đang là-yathabhuta. Nếu hơi thở dài, bạn biết nó dài, nếu hơi thở ngắn, bạn biết nó ngắn.
(Xem: 4093)
Tâm là kinh nghiệm cá nhân, chủ quan về “điều gì” luôn luôn thay đổi, từ khoảnh khắc này đến khoảnh khắc khác.
(Xem: 3863)
“Cánh cửa bất tử đã mở ra cho tất cả những ai muốn nghe”, đây là câu nói của Đức Phật sau khi Ngài giác ngộ.
(Xem: 2811)
Trong các kinh thường ví chân tâm là viên ngọc, như viên ngọc như ý, viên ngọc ma ni, lưới Trời Đế Thích…Bài kệ này chỉ thẳng Viên Ngọc Tâm
(Xem: 3288)
Trong Nguồn thiền, Tổ Khuê Phong Tông Mật nói: “Người ngộ ngã pháp đều không, hiện bày chân lý mà tu là thiền Đại thừa”.
(Xem: 3420)
Trong Kinh Văn Thù quyển hạ có chép: Ngài Văn Thù thưa rằng: “Bạch Đức Thế Tôn, sau khi Đức Thế Tôn nhập Niết bàn thì đệ tử của Ngài phân hóa bộ phái như thế nào?
(Xem: 4469)
Vấn đề Nam tôngBắc tông là một vấn đề tương đối rất cũ – cũ đến hơn một ngàn năm trăm năm kể từ ngày con người có được cái hạnh phúc biết đến giáo pháp của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
(Xem: 3795)
Trước những sự kiện diễn ra trong cuộc sống hằng ngày, tôi đã từng ngày đêm thao thức với biết bao câu hỏi “ Tại sao ?”
(Xem: 4670)
Khổ đau và hạnh phúc là nỗi trầm tư hàng đầu trong kiếp nhân sinh. Nhiều người cho rằng hai cảm thọ ấy là do nghiệp quyết định.
(Xem: 3951)
Mất 11 năm khổ công tầm đạo, Đức Phật Thích Ca đã đạt đại giác ngộ sau 49 ngày quyết tâm thiền định dưới cội cây bồ đề.
(Xem: 2942)
Trước những sự kiện diễn ra trong cuộc sống hằng ngày, tôi đã từng ngày đêm thao thức với biết bao câu hỏi “ Tại sao ?”...
(Xem: 3697)
Một người không có trí nhớ, hoặc mất trí nhớ, cuộc đời người ấy sẽ ra sao?
(Xem: 3826)
Chí đạo vốn ở tâm mình. Tâm pháp vốn ở vô trụ. Tâm thể vô trụ, tánh tướng tịch nhiên, chẳng phải có chẳng phải không, chẳng sanh chẳng diệt.
(Xem: 2998)
Trước khi nhập Niết-bàn, đức Phậtdi giáo tối hậu cho các chúng đệ tử: “Pháp và Luật mà Ta đã thuyết và qui định, là Đạo Sư của các ngươi sau khi Ta diệt độ.”
(Xem: 3545)
Phật giáo là một tổ chức cộng đồng (Samasambhaga) ra đời sớm nhất trong lịch sử nhân loại (-5 CN).
(Xem: 4385)
Đức Phật, một nhân vật lịch sử 3000 năm về trước, ra đời tại Bắc Ấn, là bậc giác ngộ toàn triệt, là bậc đạo sư với nghi biểu đặc biệt xuất hiện ở đời.
(Xem: 3651)
Con người sanh ra để hưởng thụ qua lục dục như tài, sắc, danh, thực, thùy (Ngủ nghỉ), .v.v. Con người trải qua một chu kỳ già, bệnh và cuối cùng là chết.
(Xem: 2171)
Nguyên bản: Teachings On The Eight Verses On Training The Mind. Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma . Anh dịch: Thupten Jinpa. Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 2544)
Phật tánh với thành Phật là hai vấn đề khác nhau, không thể đồng nhất được.
(Xem: 2966)
Kinh Tiểu Duyên (Aggaññasutta) trong tiếng Pali có nghĩa là kinh nói về nguyên nhân hay bài giảng về khởi nguyên các pháp.....
(Xem: 2649)
Đức Phật đã dạy về những sự thật này ngay khi ngài đạt đến Giác Ngộ như một phần của những gì được biết như Chuyển Pháp Luân Lần Thứ Nhất.
(Xem: 4540)
“Thiên đường có lối sao chẳng đi Địa ngục không cửa dấn thân vào”
(Xem: 4865)
Khổ đau và hạnh phúc là nỗi trầm tư hàng đầu trong kiếp nhân sinh. Nhiều người cho rằng hai cảm thọ ấy là do nghiệp quyết định.
(Xem: 2779)
Kính lễ đạo sư và đấng bảo hộ của chúng con, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát! Sự thông tuệ của ngài chiếu soi như mặt trời, không bị che mờ bởi vọng tưởng hay dấu vết của si mê,
(Xem: 5136)
Kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa, đã được chính Đức Thế Tôn tuyên dương là Bổn Kinh Thượng Thừa, bao gồm
(Xem: 2789)
Trong phẩm Ứng Tận Hoàn Nguyên kinh Đại Bát Niết Bàn, nói về sự nhập Niết bàn của Đức Phật.
(Xem: 3196)
Trong số các vị Tổ sư của Thiền phái Vô Ngôn Thông, Viên Chiếu được xem là vị Thiền sư danh tiếng, lỗi lạc bậc nhất.
(Xem: 4313)
Nguyên tử giải phóng trở thành nguyên tử năng là đánh dấu thời đại đại phát minh của nhân loại. Là họa hay là phước tạm thời không bàn luận đến.
(Xem: 4854)
Luân hồinhân quả là hai sự kiện tương quan. Bởi chúng sanh còn nghiệp trái của nhân quả thiện ác nên mới bị luân hồi.
(Xem: 4605)
“Tướng” là cái gì? “Tướng” chính là tướng trạng của sự vật biểu hiện nơi ngoài và tưởng tượng ở nơi trong tâm chúng ta.
(Xem: 3165)
Kính Pháp Sư Hiền Đức, tôi là một tu sĩ đạo hiệu Thích Thắng Hoan có vài lời tâm niệm gởi đến Pháp Sư, một hôm tôi đến chùa...
(Xem: 4490)
Một trong những Pháp sư được tôn vinh nhất trong lịch sử châu Á, Ngài Huyền Trang – một nhà sư, học giả, dịch giả nổi tiếng...
(Xem: 4211)
Một trong những Pháp sư được tôn vinh nhất trong lịch sử châu Á, Ngài Huyền Trang – một nhà sư, học giả, dịch giả nổi tiếng...
(Xem: 6072)
Mùa xuân là dịp để trở về, dừng bước chân hoằng hóa để quán chiếu mọi nhân duyên giữa đời.
(Xem: 3458)
Bản Pháp văn mà tôi giới thiệu ở đây, không phải là toàn văn được in trên giấy, mà chỉ là một phần gọn nhẹ và cô đọng, cắt bớt những giới luật khá khắt khe khó tiếp cận với người Tây phương, nên giản dị và dễ đi vào lòng người.
(Xem: 3967)
Trước đây rất lâu từ những năm 1930, người ta đã chất vấn, phê phán rằng những người theo Phật giáo không biết làm giàu.
(Xem: 5941)
Trong không gian mênh mông của vườn kinh điển Đại Thừa, Diệu Pháp Liên Hoa là đoá hoa vi diệu nhất mà chính Đức Thế Tôn đã ca ngợi
(Xem: 5348)
Trong cuộc sống, nếu một người mất đi niềm tin sẽ trở nên vị kỷ, bất cần và gặt hái khổ đau, dễ dàng bị tác động vào những...
(Xem: 3966)
Đức Phật đã dạy: "Nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh." Tất cả mọi loài, ai cũng có cái tánh làm Phật. Mình hiểu lời Phật dạy một cách nôn na như vậy.
(Xem: 32611)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 3116)
Ngày nay, vấn đề kỳ thị chủng tộc, giai cấp, giới tính được con người quan tâmtranh đấu quyết liệt hơn bao giờ hết.
(Xem: 4088)
Phật tánhthực tại tối hậu của chúng sanh và các bậc giác ngộ. Kinh Đại Bát Niết Bàn đã dùng nhiều từ để chỉ Phật tánh này
(Xem: 4676)
Kinh Biệt Giải Thoát Giới - tên gọi khác của Kinh Tư Lượng (Anumāna Sutta) - là bài kinh thứ mười lăm trong Majjhima Nikāya
(Xem: 2999)
Trong suốt hai ngàn năm lịch sử, đạo Phật luôn luôn có mặt trong lòng dân tộc Việt Nam khắp nẻo đường đất nước và gắn bó với dân tộc Việt Nam trong mọi thăng trầm vinh nhục.
(Xem: 3744)
Có nhiều bài kệ rất hay khi xướng lên hay khi tán tụng; hoặc giả khi mạn đàm Phật Pháp; nhưng cũng có lắm bài kệ...
(Xem: 3478)
Từ nhỏ, lúc mới vào chùa khi 15 tuổi của năm 1964 và năm nay 2020 cũng đã trên 70 tuổi đời và hơn 55 năm sống trong Thiền Môn
(Xem: 6475)
Duy Thức Học được gọi là môn triết họcmôn học này nhằm khai triển tận cùng nguyên lý của vạn hữu vũ trụ nhân sanh mà vạn hữu vũ trụ nhân sanh...
(Xem: 2718)
Vấn đề thế giới địa ngụcvấn đề rất nhiều nghi vấn, những người theo đạo Phật thì tin có thế giới địa ngục, những người không theo đạo Phật thì không tin có thế giới địa ngục và có một hạng người thì nửa tin nửa ngờ.
(Xem: 3176)
Vấn đề tụng niệm một số người không nắm được giá trịnghĩa lý của nó nên có thái độ khinh thường, xem nhẹ, không quan tâm, không chú trọng cho việc làm này...
(Xem: 4473)
Phật tại thế thời ngã trầm luân, Kim đắc nhân thân Phật diệt độ, Áo não tự thân đa nghiệp chướng, Bất kiến Như Lai kim sắc thân.
(Xem: 3369)
Có những bài tán nghe qua là hiểu liền nội dung; nhưng cũng có những bài tán rất khó hiểu, không biết lý do vì sao? Trong đó có bài tán “Chiên Đàn” là một.
(Xem: 7225)
“Thừa Tự”, theo quan niệm phong kiến xưa, có nghĩa là thọ hưởng của “hương hỏa” với trách nhiệm nối dõi việc thờ cúng Tổ tiên.
(Xem: 4413)
Nhà nghiên cứu phật học K.SCHMIDT1 đã có lần nêu lên những điểm tương đồng giữa tri thức luận của Kant và của Phật học,
(Xem: 4457)
Theo đức Phật, vũ trụ không có khởi nguyên, không có tận cùng và khoảng không vũ trụ vốn vô tận, gồm vô số thế giới như cát sông Hằng (Gangânadivâlukopama).
(Xem: 7131)
Phàm tất cả vạn pháp, vạn hữu trong vũ trụ được sanh ra và có mặt trên thế gian này đều có nguyên nhân, nguyên do đầu mối của nó.
(Xem: 2891)
Chữ khám phá ở đây rất chính xác. Không có sự truyền giáo của đạo Phật đến người Tây phương. Và, tuy người Âu châu khám phá đạo Phật rất trễ, nhưng đó là sự khám phá vô cùng lý thú.
(Xem: 12008)
“Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao Tăng làm sáng cho Phật giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ 6 mãi đến nay đều là các Thiền sư.”
(Xem: 3888)
“Nguyên nhân hình thành Phật giáo Đại Thừa” là một đề tài có phạm trù không rộng lắm, nên ít có người khảo sát và nguồn tư liệu về nó cũng rất hạn chế.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant