Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Đi Vào Bản Nguyện Dược Sư

01 Tháng Mười Một 201606:39(Xem: 8959)
Đi Vào Bản Nguyện Dược Sư

ĐI VÀO BẢN NGUYỆN DƯỢC SƯ

Phước Nguyên

Đi Vào Bản Nguyện Dược Sư


1/Phẩm cách Dược sư

Thế gian luôn bị nhận chìm trong sự nguy hiểm, con người luôn bị phủ vây bởi những căn bệnh trầm kha, thấp hèn và đê tiện của cuộc đời, cho nên hình ảnh một vị Phật lý tưởng, một phẩm tính phổ quát có năng lực chữa lành những căn bệnh hiểm nghèo, vớt thế gian ra khỏi lầy sinh tử, cần được xuất hiệnvì thương tưởng cho đời, vì hạnh phúc, vì an lạc cho phần đông, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư thiênnhân loại”. Đó là phẩm cách Dược Sư, lý tưởng chữa lành nỗi khổ niềm đau cho nhân loại.

Dược Sư, là danh hiệu đọc theo tiếng Hán, nguyên ngữ Sanskrit gọi là Bhaiṣajya-guru-vaiḍūrya-prabhā-rāja, hay ngắn gọn hơn: Bhaiṣajyaguru, chúng ta có thể tìm hiểu về ngữ học của danh hiệu này như sau:

Từ Bhaiṣajyai: có nghĩa là thuốc chữa bệnh, có năng lực trị bệnh; khi dùng như động từ có nghĩa chữa bệnh, hay chữa lành vết thương, v.v.. tiếng Anh dịch là curativeness, healing efficacy; Guru: đạo sư, bậc Thầy, vị hướng dẫn; vaiḍūrya: tên một loại ngọc quý, Hán dịch là lưu ly để chỉ cho thể tính trong suốt, không váy bẩn của loại ngọc này; prabhā: do thành lập từ động từ căn pra-√bhā: chiếu rọi, soi sáng, rực rỡ… Cho nên prabhā: tinh diệu, sáng tỏ, huy hoàng, ánh sáng chói lọi, v.v.. Anh dịch là  light, splendour, radiance; Và rāja: có nghiã vua, chúa tể, thủ lãnh, quốc vương, Anh dịch là Kings. Vậy thì, Bhaiṣajya-guru-vaiḍūrya-prabhā-rāja có nghĩa là ‘Vị vua của các thầy thuốc và phẩm tính tinh diệu như ngọc lưu ly’ hay khác hơn “Vị thầy có năng lực chữa lành vết thương và chứng nghiệm thể tính sáng trong như ngọc lưu ly’, Hán dịch là ‘Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Như Lai’, Anh dịch là ‘King of Medicine Master and Lapis Lazuli Light’.

Hình ảnh của đức Phật Dược Sư thường được thể hiện dưới hình thức một vị Phật như kinh điển mô tả: tay cầm một lọ nhỏ chứa thuốc cam lồ, và trong một số truyền bản, ngài còn được nói là có làn da màu xanh. Mặc dù ngài cũng được xem là một vị thượng thủ của phương Đông, nhưng trong hầu hết các kinh điển đức Phật Akshobhya (A-súc-bệ) mới là người giữ vị trí thượng thủ đó. Cho nên, ở đây điều này thuộc vào trường hợp đặc biệt cần nên lưu ý.


2/ Văn bản kinh Dược Sư

Danh hiệu Sanskrit này, hiện nay vẫn còn đọc được ở trong nguyên bản Sanskrit của kinh Dược Sư, nhan đề là: Bhaiṣajyaguruvaidūryaprabharājasūtram, được lưu giữ trong Buddhist Sanskrit Texts No. 17, Mahāyāna-sūtra-saṁgrahaḥ (part 1)[1]; bản Sanskrit này cũng được tìm thấy ở trong Gilgit Manuscript do Dutta và Nalinaksa biên tập[2].

Bản Sanskrit thứ 2 của kinh Dược Sư, nhan đề là Bhaiṣajyagrurvaiḍūryaprabhātathāgata-sūtra, trong bản này pha tạp nhiều thổ ngữ sogdian, thường được gọi là tiếng Xôcđiana, được sử dụng bởi người Iran, và một bận phận người Xôcđiana ở Trung á; bản này do Benveniste biên tập, xuất bản lần đầu năm 1940[3], có tham khảo tư liệu của David A. Utz[4].

Bản dịch tương đương bằng tiếng Tây Tạng của kinh Dược sư, tựa đề là: འཕགས་པ་བཅོམ་ལྡན་འདས་སྨན་གྱི་བླ་བེེ་ཌཱུརྱའི་འོད་ཀྱི་སྔོན་གྱི་སྨོན་ལམ་གྱི་ཁྱད་པར་རྒྱས་པ་ཞེས་བྱ་བ་ཐེག་པ་ཆེན་པོའི་མདོ Ḥphags-pa bcom-ldan-ḥdas sman-gyi bla-bai-ḍūryaḥi ḥod-kyi sṅon-gyi smon-lam-gyi khyad-par rgyas-pa shes-bya-ba theg-pa chen-poḥi mdo: Thánh Bạc-già-phạm Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Bổn Nguyện Sai Biệt Quảng Đại Đại Thừa Kinh (聖薄伽梵藥師毗琉璃光本願差別廣大大乘經), được lưu trữ trong Đại Tạng Kinh Tây Tạng, thông trật đệ 87Da, No.504, trang 274a1-283b7[5]. Được dịch bởi dịch sư Tây Tạng: Ye-śes sde  và  các dịch sư Ấn độ: Jinamitra, Dānasīla, và Śīlendrabodhi. Căn cứ theo đề kinh trong bản dịch Tây Tạng, có thể khôi phục đề kinh Sanskrit như sau: ‘Ārya-bhagavato bhaiṣajyaguruvaiḍūryaprabhasya pūrvapraṇidhānaviśeṣavistāra-nāma-mahāyānasūtra’.

Hán văn của Kinh Dược Sư, hiện còn bảo tồn trong Taishō Tripiṭaka (Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh), hiện có bốn bản dịch:

- Taisho14, số hiệu 449: Phật thuyết Dược Sư Như Lai Bổn Nguyện kinh 佛說藥師如來本願經, đời Tuỳ, ngài Dharmagupta (Đạt-ma Cấp-đa) dịch năm 615 Tây lịch[6].

-Taisho 14, số hiệu 450: Phật thuyết Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Bổn Nguyện Công Đức kinh藥師琉璃光如來本願功德經, Đại Đường, Huyền Trang dịch năm 650 Tây lịch[7].

- Taisho 14, số hiệu 451: Dược Sư Lưu Ly Quang Thất Phật Bổn Nguyện Công Đức kinh 藥師琉璃光七佛本願功德經, 2 quyển, Đại Đường, Nghĩa Tịnh dịch vào năm 707, tại nội tự Phật Quang[8].

-Taisho 21, số hiệu 1331: Phật thuyết Quán Đảnh Bạt Trừ Quá Tội Sanh Tử Đắc Độ Kinh quyển đệ thập nhị 佛說灌頂拔除過罪 生死得度經卷第十 二 , Đông Tấn, Thiên Trúc Tam Tạng Bạch-thi-lê-mật-đa-la dịch, tức quyển thứ 12 của Phật thuyết Quán Đảnh kinh 佛說灌頂經.[9]

Kinh Dược Sư, cũng được dịch qua tiếng Anh và tiếng Pháp. Có thể thấy các bản dịch tiếng Anh như sau:

- Liebenthal, Walter dịch từ bản Hán của Huyền Trang (T14n0450), tựa đề: The Sutra of the Lord of Healing (Bhaishajyaguru Vaiduryaprabha Tathagata): Kinh Chúa tể chữa lành vết thương[10].

- Sen, S. dịch tựa đề: Two medical texts in Chinese translations, Hai văn bản Dược Sư Trong các bản dịch Trung Quốc[11].

- Birnbaum, Raoul, nhan đề: The Lapis Lazuli Radiance Buddha, Master of Healing: A Study in Iconography and Meaning, Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Phật, Vị Thầy Chữa Bệnh: Một nghiên cứu mô tả bằng tranh vẽ và ý nghĩa. Luận án Ph.D. (tiến sĩ) của Columbia University (New York), 1976. Trong luận án đó dịch đầy đủ các bản T14n0450, T14n0451, T20n1161 và Tự phần của T14n0449 sau đó được xuất bản với tựa đề Birnbaum, Raoul:The Healing Buddha, Shambala, 1979. (Luận văn này cũng được dịch sang tiếng Đức: Birnbaum, Raoul: Der heilende Buddha - Heilung und Selbstheilung im Buddhismus. Bern/München/Wien: Otto Wilhelm Barth, 1982.)

- Hsing Yun, tựa đề: The Sutra of the Medicine Buddha with an Introduction, Comments and Prayers, Kinh đức Phật Dược Sư, giới thiệu, chú giảicầu nguyện[12].

- Bản dịch tiếp theo được hiệu đính bởi Shen Shou-Liang, dịch bởi các vị: Chow Su-Chia, v.v.. tựa đề: The Sutra of the Master of Healing.

-Bản dịch được chú ý hơn hết, vì dịch từ nguyên bản Sanskrit, là bản dịch của Dutt, Nalinaksha (ed.), tồn trữ trong Gilgit Manuscripts. Vol. I.[13]

Ngoài ra hiện tìm thấy một bản dịch tiếng Pháp có thể là duy nhất và sớm nhất của Kinh Dược Sư, tựa đề: Le Bhaiṣajyaguru, dịch bởi Pelliot, Paul[14].


3/ Bản nguyện Dược Sư

a/Xuất xứ đại nguyện

Phật Dược Sư được giới thiệumô tả trong kinh Bhaiṣajyagrurvaiḍūryaprabhātathāgata, mà chúng ta có thể đọc được nguyên bản Sanskrit hiện còn đầy đủ, hay đọc qua bản Hán dịch của Huyền Trang, thường được gọi là Kinh Dược Sư. Khi ngài còn là một vị Bồ-tát, đã phát lập 12 đại nguyện.

Khi ngài chứng nghiệm sự cao tuyệt của giác ngộ viên mãn, ngài đã trở thành đức Phật thượng thủ của tịnh độ đông phương, với thể tínhVaiḍūryanirbhāsa”: “Sáng trong không váy bẩn như ngọc lưu ly”[15]. Tại quốc độ đó, ngài có hai vị Bồ-tát ‘chỉ còn bị trói buộc bởi một lần tái sinh’ (Nhất sinh sở hệ= Nhất sinh bổ xứ), tượng trưng cho ánh sáng của mặt trời và ánh sáng của mặt trăng:

Một là, Bồ-tát Suryaprabha: Sự soi chiếu cùng khắp như ánh sáng của mặt trời, Hán dịch là Nhật Quang Biến Chiếu.

Hai là, Bồ-tát Candraprabha: Sự soi chiếu cùng khắp như ánh sáng của mặt trăng, Hán dịch là Nguyệt Quang Biến Chiếu.

Thủ bản Sanskrit của kinh Bhaiṣajyagrurvaiḍūryaprabhātathāgata đã được phát hiện, là một trong những văn bản chứng thực sự phổ biến của tín ngưỡng Phật Dược Sư tại vùng tây bắc Ấn Độ, mà xưa kia là Gandhāra[16]. Thủ bản này, được xác định niên đại hình thành vào khoảng trước thế kỷ thứ VII Tây lịch, và được viết trên các trụ đá Gupta[17].

Huyền Trang, một nhà hành giảchiêm báivô tiền khoáng hậu” của Phật giáo Trung Quốc, đã đến thăm một tu viện thuộc hệ phái Mahāsāṃghika (Đại chúng bộ) tại Bamiyan, Afghanistan, vào khoảng thế kỷ thứ 7, hiện nay vị trí chính xác của tu viện này đã được phát hiển bởi nhà khảo cổ học[18]. Nhiều thủ bản kinh điển Đại thừa được viết trên các đoạn phiến trên vỏ cây bu-lô (Birchbark) đã được phát hiện tại khu vực này, bao gồm cả thủ bản Sanskrit của kinh Dược Sư: Bhaiṣajyagrurvaiḍūryaprabhātathāgata-sūtra (MS 2385)[19].

b/Toát yếu 12 lời nguyện theo bản Sanskrit

1.Chiếu sáng vô số quốc độ với sự rạng ngời của ngài, và nhiếp hộ cho bất cứ ai muốn trở thành một vị Phật giống như ngài.

2. Đánh thức tâm trí của chúng sinh thông qua ánh sáng như ngọc lưu ly của ngài.

3. Cung cấp cho chúng sanh bất cứ phẩm vật gì mà họ cần phải có.

4. Chỉ rõ và chuyển hoá những quan điểm sai lầm, hay nhận thức chủ quan và khơi nguồn cảm hứng cho chúng sinh về chí hướng khởi hành trên con đường Bồ-tát.

5. Hướng dẫn dìu dắt chúng sinh làm theo các điều khoản phẩm cách đạo đức, thậm chí nếu họ đã huỷ phạm trước đó.

6. Chữa lành cho những chúng sinh đã sinh ra mà bị dị tật, bệnh hoạn, hoặc những khổ đau khác về thể xác.

7. Xoa dịu, an ủi vỗ về những người khốn khổ, những người bị bệnh tật phủ vây.

8. Giúp đỡ những người phụ nữ có ước muốn được chuyển sinh làm đàn ông, để họ đạt được sự chuyển sinh như mong muốn.

9. Chữa lành những phiền não nhiễm ô, các ảo tưởng, hay những ‘tri giác bị lộn ngược’.

10. Giúp đỡ những người bị áp bức được tự do, thoát khỏi đau khổ.

11. Làm giảm thiểu những người bị nạn đói khủng khiếp và những cơn khát cháy bỏng.

12. Hỗ trợ y phục cho những người nghèo hèn túng khổ, bị lạnh buốt và muỗi mòng cắn đốt.


c/ Dharani và Mantra

Trong kinh Bhaiṣajyagrurvaiḍūryaprabhātathāgata, đức Phật Dược Sư, được mô tả là thể nghiệm vào trạng thái thiền định gọi là "loại trừ tất cả những đau khổphiền não của chúng sinh." Từ trạng thái thiền định này, ngài công bố dharani:

Nguyên văn Sanskrit:

namo bhagavate bhaiṣajyaguru vaiḍūryaprabharājāya

tathāgatāya arahate samyaksambuddhāya tadyathā:

oṃ bhaiṣajye bhaiṣajye bhaiṣajya-samudgate svāhā”[20].

Dịch:

“Kính lễ Đức Thế Tôn DƯỢC SƯ LƯU LY QUANG VƯƠNG Như Lai, bậc A-la-hán, bậc trực tiếp giác ngộ viên mãn đích thực - Như vậy liền nói chú rằng:

Xin Ngài hãy ban cho con thuốc phòng ngừa bệnh tật, thuốc chữa lành vết thương, thuốc diệt trừ mọi thương tật, và thuốc để cho con mau chóng phát sinh được đạo quả Bồ-đề cao tuyệt.”

Dòng cuối cùng của Dharani này: “oṃ bhaiṣajye bhaiṣajye bhaiṣajya-samudgate svāhā”, mới đích thực là thần chú của đức Phật Dược Sư, còn lại các câu ở trên chỉ là phần xưng tán đức Dược Sư chứ không phải thần chú.

Ngoài ra, còn có một số thần chú khác thuộc về đức Phật Dược Sư được sử dụng trong các hệ phái Mật tôngPhật giáo Kim Cương thừa.


d/ Bản nguyện biểu hiện qua hình tượng

Phật Dược Sư thường được miêu tả trong tư thế ngồi kiết già, khoát ba y của tu sĩ Phật giáo, tay trái cầm một bình lưu ly chứa thuốc cam lồ (bất tử) và bàn tay phải đặt trên đầu gối phải; hoặc có khi tay giữ cuống quả Aruna hoặc Myrobalan giữa ngón tay cái và ngón trỏ.

Trong kinh, ngài cũng được miêu tả có ánh sáng chiếu soi giống như ánh sáng của ngọc lưu ly. Trong miêu tả theo truyền thống Trung Quốc, ngài có một ngôi tháp, tượng trưng cho mười ngàn vị Phật của ba thời kỳ.

Hình tượng của ngài cũng được khắc trên đá, cùng với hai vị Bồ-tát Suryaprabha và Candraprabha, và có khắc thêm bảy vị Phật Dược Sư khác ở bên trong vòng hào quang của ngài. Bức tranh khắc trên đá này, có niên đại được xác định vào thời Bắc Ngụy, khoảng năm 500 Tây lịch, hiện bia đá đặt tại Bảo tàng nghệ thuật Metropolitan.

4. Tiểu kết

Trong Phật giáo nói chung, và Phật giáoTây Tạng nói riêng, việc hành trì phương pháp phát triển theo đức Phật Dược Sư, đấng chúa tể chữa lành mọi vết thương, không chỉ là một phương pháp rất mạnh mẽ để chữa lành bệnh tật và tăng cường phòng bệnh cho cả bản thân và những người khác, mà còn điều phục những căn bệnh trầm kha, trong sự trói buộc của phiền não, hận thù, sự thấp kém, sự đê tiện và thiếu hiểu biết. Do đó, sự chiêm nghiệmhành trì theo đức Phật Dược Sư có thể giúp giảm thiểu bệnh tật về thể xác và khổ đau về tinh thần.

Câu thần chú đức Phật Dược Sư, có mãnh lực là vô cùng cho việc chữa lành bệnh thể chất và nhổ sạch các tập nghiệp xấu ác. Một hình thức thực hành theo đức Phật Dược Sư được thực hiện khi bị những bệnh tật phủ vây, đó là bệnh nhân trì tụng chú này 108 lần vào một ly nước tinh sạch. Ngữ âm của thần chú sẽ là công cụ hướng dẫn chúng ta vượt qua những giai đoạn hiểm nghèo của cuộc đời, là phương thuốc chữa lành mọi bệnh tật, ta có thể xem nó như thần chú thật với đầy phép lạ cũng được, hoặc coi nó không phải thần chú, cũng không có phép lạ gì hết cũng chẳng sao, quan trọng là tụng đọc nó bằng tất cả tâm tư, đọc như nước chảy mây trôi, để rồi mọi sự sẽ vận hành một cách đều đặn, mọi sự trôi đi một cách an toàn, như cây trôi giữa dòng không bị dính mắc đúng như cái lẽ huyền vi của sự sống:  “Gate, gate…..”.


Đồi Tiêu Dao, Am Tâm Không,

PL.2560. Chiều gió lộng, 30.9. Nhâm Thân.

Ngày vía đức Dược Sư, vị chữa lành vết thương cho nhân loại.

Phước Nguyên



[1] Vaidya, Dr. P.L ed., Darbhanga: The Mithila Institute, 1961;

[2] Dutta, Nalinaksa ed., Gilgit Manuscript, Vol I. Delhi : Sri Satguru Publication, 1984, 1-32.

[3] Benveniste, Texts sogdiens, Mission Pelliot en Asie centrale: Série in-Quarto, 3. Paris, 1940, 82-92

[4] David A. Utz, A Survey of Buddhist Sogdian Studies (Bibliographia Philologica Buddhica Series Minor III), Tokyo: The reiyukai Library 1980.

[5] Cf. Trong các bộ ĐTK.TT., Peking: Rgyud (da)255b- 263a; Nại-đường bản: Rgyud (tha)470a- 484a; Dege bản:Rgyud- ḥbum (da) 274a-283b; Lasa bản:Rgyud (ta)419a- 433b; Trác-ni bản:Rgyad (da)304a- 315b

[6] T14n0449, tr. 401b04: 佛說藥師如來本願經隋天竺三藏達摩笈多譯.

[7] T14n0450, tr. 0404c15: 藥師琉璃光如來本願功德經 大唐、三藏法師玄奘奉 詔譯.

[8] T14n0451, tr. 0409a08: 藥師琉璃光七佛本願功德經, 大唐三藏沙門義淨於佛光內寺譯.

[9] T21n1331_012, tr. 0532b11: 佛說灌頂經 第12卷, 佛說灌頂拔除過罪生死得度經卷第十二 , 東晉天竺三藏帛尸梨蜜多羅譯.

[10] Peking: The Society of Chinese Buddhists, Nien Hua Szŭ (Sales Agent: The French Bookstore), 1936.

[11] Visva-Bharati Annals no.1 (1945), 70-95.

[12] Buddha’s Light Publishing, 2002. 192 pgs.

[13] Srinagar-Kashmir: 1939. 51-57.

[14] Bulletin de l'École Francaise d'Extrême-Orient. 3 (1903), 33-37.

[15] Birnbaum, Raoul (2003). The Healing Buddha. p. 64.

[16] Bakshi, S.R. Kashmir: History and People. 1998. p. 194

[17] ibid., p.194.

[18] "Schøyen Collection: Buddhism". Retrieved 23 June 2012.

[19] "Schøyen Collection: Buddhism". Retrieved 23 June 2012.

[20] Dutta, Nalinaksa ed., Gilgit Manuscript,Vol I. Delhi : Sri Satguru Publication, 1984, 1-32.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2023)
Vũ trụ này thực sự là gì? Tại sao có những thế giới nhiễm ô của chúng sanh? Làm gì để “chuyển biến” thế giới nhiễm ô thành thế giới thanh tịnh?
(Xem: 3026)
Tôi không cần giải thích tại sao bạn cần phải thực hành Pháp; tôi nghĩ bạn hiểu điều đó.
(Xem: 2638)
Thế giới chúng ta đang sinh sống ắt phải nằm trong “Hoa tạng thế giới”, tức là thế giới Hoa Nghiêm
(Xem: 3548)
Việc thẳng tiến bước trên con đường đạo lý thanh cao hầu đạt đến chân lý hạnh phúc chẳng khác nào bơi ngược dòng đời là một vấn đề...
(Xem: 3374)
Chúng ta thấy một sự vật bằng cách thấy màu sắc của nó và nhờ màu sắc ấy mà phân biệt với những sự vật có màu sắc khác
(Xem: 4212)
Tiếng Sankrit là Drama (tiếng Tạng là: cho) nghĩa là giữ lấy hoặc nâng đỡ. Vậy Pháp nâng đỡ hoặc duy trì cái gì?
(Xem: 3723)
Trong những nhà phiên dịch kinh điểnthời kỳ đầu của Phật giáo Trung Quốc, ngài Đàm-vô-sấm (曇無讖) hiện ra như một nhà phiên kinh trác việt[1].
(Xem: 4267)
Khi chúng ta mới học lần đầu rằng cứu cánh của sự tu tập đạo Phật có tên gọi là Nibbana (Nirvana, Niết-bàn),
(Xem: 2355)
“Đức Phật nói: Như vậy, như vậy, như lời ông nói. Tu Bồ Đề! Nhất thiết chủng trí, chẳng phải là pháp tạo tác, chúng sanh cũng chẳng phải là pháp tạo tác.
(Xem: 3518)
Đức Phật cho rằng, bạn phải quan sát hơi thở như nó đang là-yathabhuta. Nếu hơi thở dài, bạn biết nó dài, nếu hơi thở ngắn, bạn biết nó ngắn.
(Xem: 4199)
Tâm là kinh nghiệm cá nhân, chủ quan về “điều gì” luôn luôn thay đổi, từ khoảnh khắc này đến khoảnh khắc khác.
(Xem: 3982)
“Cánh cửa bất tử đã mở ra cho tất cả những ai muốn nghe”, đây là câu nói của Đức Phật sau khi Ngài giác ngộ.
(Xem: 2918)
Trong các kinh thường ví chân tâm là viên ngọc, như viên ngọc như ý, viên ngọc ma ni, lưới Trời Đế Thích…Bài kệ này chỉ thẳng Viên Ngọc Tâm
(Xem: 3397)
Trong Nguồn thiền, Tổ Khuê Phong Tông Mật nói: “Người ngộ ngã pháp đều không, hiện bày chân lý mà tu là thiền Đại thừa”.
(Xem: 3521)
Trong Kinh Văn Thù quyển hạ có chép: Ngài Văn Thù thưa rằng: “Bạch Đức Thế Tôn, sau khi Đức Thế Tôn nhập Niết bàn thì đệ tử của Ngài phân hóa bộ phái như thế nào?
(Xem: 4581)
Vấn đề Nam tôngBắc tông là một vấn đề tương đối rất cũ – cũ đến hơn một ngàn năm trăm năm kể từ ngày con người có được cái hạnh phúc biết đến giáo pháp của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
(Xem: 3919)
Trước những sự kiện diễn ra trong cuộc sống hằng ngày, tôi đã từng ngày đêm thao thức với biết bao câu hỏi “ Tại sao ?”
(Xem: 4806)
Khổ đau và hạnh phúc là nỗi trầm tư hàng đầu trong kiếp nhân sinh. Nhiều người cho rằng hai cảm thọ ấy là do nghiệp quyết định.
(Xem: 4070)
Mất 11 năm khổ công tầm đạo, Đức Phật Thích Ca đã đạt đại giác ngộ sau 49 ngày quyết tâm thiền định dưới cội cây bồ đề.
(Xem: 3059)
Trước những sự kiện diễn ra trong cuộc sống hằng ngày, tôi đã từng ngày đêm thao thức với biết bao câu hỏi “ Tại sao ?”...
(Xem: 3798)
Một người không có trí nhớ, hoặc mất trí nhớ, cuộc đời người ấy sẽ ra sao?
(Xem: 3948)
Chí đạo vốn ở tâm mình. Tâm pháp vốn ở vô trụ. Tâm thể vô trụ, tánh tướng tịch nhiên, chẳng phải có chẳng phải không, chẳng sanh chẳng diệt.
(Xem: 3115)
Trước khi nhập Niết-bàn, đức Phậtdi giáo tối hậu cho các chúng đệ tử: “Pháp và Luật mà Ta đã thuyết và qui định, là Đạo Sư của các ngươi sau khi Ta diệt độ.”
(Xem: 3638)
Phật giáo là một tổ chức cộng đồng (Samasambhaga) ra đời sớm nhất trong lịch sử nhân loại (-5 CN).
(Xem: 4486)
Đức Phật, một nhân vật lịch sử 3000 năm về trước, ra đời tại Bắc Ấn, là bậc giác ngộ toàn triệt, là bậc đạo sư với nghi biểu đặc biệt xuất hiện ở đời.
(Xem: 3751)
Con người sanh ra để hưởng thụ qua lục dục như tài, sắc, danh, thực, thùy (Ngủ nghỉ), .v.v. Con người trải qua một chu kỳ già, bệnh và cuối cùng là chết.
(Xem: 2286)
Nguyên bản: Teachings On The Eight Verses On Training The Mind. Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma . Anh dịch: Thupten Jinpa. Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 2654)
Phật tánh với thành Phật là hai vấn đề khác nhau, không thể đồng nhất được.
(Xem: 3066)
Kinh Tiểu Duyên (Aggaññasutta) trong tiếng Pali có nghĩa là kinh nói về nguyên nhân hay bài giảng về khởi nguyên các pháp.....
(Xem: 2755)
Đức Phật đã dạy về những sự thật này ngay khi ngài đạt đến Giác Ngộ như một phần của những gì được biết như Chuyển Pháp Luân Lần Thứ Nhất.
(Xem: 4623)
“Thiên đường có lối sao chẳng đi Địa ngục không cửa dấn thân vào”
(Xem: 4970)
Khổ đau và hạnh phúc là nỗi trầm tư hàng đầu trong kiếp nhân sinh. Nhiều người cho rằng hai cảm thọ ấy là do nghiệp quyết định.
(Xem: 2865)
Kính lễ đạo sư và đấng bảo hộ của chúng con, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát! Sự thông tuệ của ngài chiếu soi như mặt trời, không bị che mờ bởi vọng tưởng hay dấu vết của si mê,
(Xem: 5357)
Kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa, đã được chính Đức Thế Tôn tuyên dương là Bổn Kinh Thượng Thừa, bao gồm
(Xem: 2890)
Trong phẩm Ứng Tận Hoàn Nguyên kinh Đại Bát Niết Bàn, nói về sự nhập Niết bàn của Đức Phật.
(Xem: 3324)
Trong số các vị Tổ sư của Thiền phái Vô Ngôn Thông, Viên Chiếu được xem là vị Thiền sư danh tiếng, lỗi lạc bậc nhất.
(Xem: 4417)
Nguyên tử giải phóng trở thành nguyên tử năng là đánh dấu thời đại đại phát minh của nhân loại. Là họa hay là phước tạm thời không bàn luận đến.
(Xem: 4975)
Luân hồinhân quả là hai sự kiện tương quan. Bởi chúng sanh còn nghiệp trái của nhân quả thiện ác nên mới bị luân hồi.
(Xem: 4737)
“Tướng” là cái gì? “Tướng” chính là tướng trạng của sự vật biểu hiện nơi ngoài và tưởng tượng ở nơi trong tâm chúng ta.
(Xem: 3282)
Kính Pháp Sư Hiền Đức, tôi là một tu sĩ đạo hiệu Thích Thắng Hoan có vài lời tâm niệm gởi đến Pháp Sư, một hôm tôi đến chùa...
(Xem: 4589)
Một trong những Pháp sư được tôn vinh nhất trong lịch sử châu Á, Ngài Huyền Trang – một nhà sư, học giả, dịch giả nổi tiếng...
(Xem: 4311)
Một trong những Pháp sư được tôn vinh nhất trong lịch sử châu Á, Ngài Huyền Trang – một nhà sư, học giả, dịch giả nổi tiếng...
(Xem: 6173)
Mùa xuân là dịp để trở về, dừng bước chân hoằng hóa để quán chiếu mọi nhân duyên giữa đời.
(Xem: 3535)
Bản Pháp văn mà tôi giới thiệu ở đây, không phải là toàn văn được in trên giấy, mà chỉ là một phần gọn nhẹ và cô đọng, cắt bớt những giới luật khá khắt khe khó tiếp cận với người Tây phương, nên giản dị và dễ đi vào lòng người.
(Xem: 4071)
Trước đây rất lâu từ những năm 1930, người ta đã chất vấn, phê phán rằng những người theo Phật giáo không biết làm giàu.
(Xem: 6056)
Trong không gian mênh mông của vườn kinh điển Đại Thừa, Diệu Pháp Liên Hoa là đoá hoa vi diệu nhất mà chính Đức Thế Tôn đã ca ngợi
(Xem: 5442)
Trong cuộc sống, nếu một người mất đi niềm tin sẽ trở nên vị kỷ, bất cần và gặt hái khổ đau, dễ dàng bị tác động vào những...
(Xem: 4099)
Đức Phật đã dạy: "Nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh." Tất cả mọi loài, ai cũng có cái tánh làm Phật. Mình hiểu lời Phật dạy một cách nôn na như vậy.
(Xem: 33281)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 3205)
Ngày nay, vấn đề kỳ thị chủng tộc, giai cấp, giới tính được con người quan tâmtranh đấu quyết liệt hơn bao giờ hết.
(Xem: 4196)
Phật tánhthực tại tối hậu của chúng sanh và các bậc giác ngộ. Kinh Đại Bát Niết Bàn đã dùng nhiều từ để chỉ Phật tánh này
(Xem: 4764)
Kinh Biệt Giải Thoát Giới - tên gọi khác của Kinh Tư Lượng (Anumāna Sutta) - là bài kinh thứ mười lăm trong Majjhima Nikāya
(Xem: 3117)
Trong suốt hai ngàn năm lịch sử, đạo Phật luôn luôn có mặt trong lòng dân tộc Việt Nam khắp nẻo đường đất nước và gắn bó với dân tộc Việt Nam trong mọi thăng trầm vinh nhục.
(Xem: 3845)
Có nhiều bài kệ rất hay khi xướng lên hay khi tán tụng; hoặc giả khi mạn đàm Phật Pháp; nhưng cũng có lắm bài kệ...
(Xem: 3584)
Từ nhỏ, lúc mới vào chùa khi 15 tuổi của năm 1964 và năm nay 2020 cũng đã trên 70 tuổi đời và hơn 55 năm sống trong Thiền Môn
(Xem: 6591)
Duy Thức Học được gọi là môn triết họcmôn học này nhằm khai triển tận cùng nguyên lý của vạn hữu vũ trụ nhân sanh mà vạn hữu vũ trụ nhân sanh...
(Xem: 2803)
Vấn đề thế giới địa ngụcvấn đề rất nhiều nghi vấn, những người theo đạo Phật thì tin có thế giới địa ngục, những người không theo đạo Phật thì không tin có thế giới địa ngục và có một hạng người thì nửa tin nửa ngờ.
(Xem: 3256)
Vấn đề tụng niệm một số người không nắm được giá trịnghĩa lý của nó nên có thái độ khinh thường, xem nhẹ, không quan tâm, không chú trọng cho việc làm này...
(Xem: 4618)
Phật tại thế thời ngã trầm luân, Kim đắc nhân thân Phật diệt độ, Áo não tự thân đa nghiệp chướng, Bất kiến Như Lai kim sắc thân.
(Xem: 3486)
Có những bài tán nghe qua là hiểu liền nội dung; nhưng cũng có những bài tán rất khó hiểu, không biết lý do vì sao? Trong đó có bài tán “Chiên Đàn” là một.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant