Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Đi Vào Bản Nguyện Dược Sư

01 Tháng Mười Một 201606:39(Xem: 8946)
Đi Vào Bản Nguyện Dược Sư

ĐI VÀO BẢN NGUYỆN DƯỢC SƯ

Phước Nguyên

Đi Vào Bản Nguyện Dược Sư


1/Phẩm cách Dược sư

Thế gian luôn bị nhận chìm trong sự nguy hiểm, con người luôn bị phủ vây bởi những căn bệnh trầm kha, thấp hèn và đê tiện của cuộc đời, cho nên hình ảnh một vị Phật lý tưởng, một phẩm tính phổ quát có năng lực chữa lành những căn bệnh hiểm nghèo, vớt thế gian ra khỏi lầy sinh tử, cần được xuất hiệnvì thương tưởng cho đời, vì hạnh phúc, vì an lạc cho phần đông, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư thiênnhân loại”. Đó là phẩm cách Dược Sư, lý tưởng chữa lành nỗi khổ niềm đau cho nhân loại.

Dược Sư, là danh hiệu đọc theo tiếng Hán, nguyên ngữ Sanskrit gọi là Bhaiṣajya-guru-vaiḍūrya-prabhā-rāja, hay ngắn gọn hơn: Bhaiṣajyaguru, chúng ta có thể tìm hiểu về ngữ học của danh hiệu này như sau:

Từ Bhaiṣajyai: có nghĩa là thuốc chữa bệnh, có năng lực trị bệnh; khi dùng như động từ có nghĩa chữa bệnh, hay chữa lành vết thương, v.v.. tiếng Anh dịch là curativeness, healing efficacy; Guru: đạo sư, bậc Thầy, vị hướng dẫn; vaiḍūrya: tên một loại ngọc quý, Hán dịch là lưu ly để chỉ cho thể tính trong suốt, không váy bẩn của loại ngọc này; prabhā: do thành lập từ động từ căn pra-√bhā: chiếu rọi, soi sáng, rực rỡ… Cho nên prabhā: tinh diệu, sáng tỏ, huy hoàng, ánh sáng chói lọi, v.v.. Anh dịch là  light, splendour, radiance; Và rāja: có nghiã vua, chúa tể, thủ lãnh, quốc vương, Anh dịch là Kings. Vậy thì, Bhaiṣajya-guru-vaiḍūrya-prabhā-rāja có nghĩa là ‘Vị vua của các thầy thuốc và phẩm tính tinh diệu như ngọc lưu ly’ hay khác hơn “Vị thầy có năng lực chữa lành vết thương và chứng nghiệm thể tính sáng trong như ngọc lưu ly’, Hán dịch là ‘Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Như Lai’, Anh dịch là ‘King of Medicine Master and Lapis Lazuli Light’.

Hình ảnh của đức Phật Dược Sư thường được thể hiện dưới hình thức một vị Phật như kinh điển mô tả: tay cầm một lọ nhỏ chứa thuốc cam lồ, và trong một số truyền bản, ngài còn được nói là có làn da màu xanh. Mặc dù ngài cũng được xem là một vị thượng thủ của phương Đông, nhưng trong hầu hết các kinh điển đức Phật Akshobhya (A-súc-bệ) mới là người giữ vị trí thượng thủ đó. Cho nên, ở đây điều này thuộc vào trường hợp đặc biệt cần nên lưu ý.


2/ Văn bản kinh Dược Sư

Danh hiệu Sanskrit này, hiện nay vẫn còn đọc được ở trong nguyên bản Sanskrit của kinh Dược Sư, nhan đề là: Bhaiṣajyaguruvaidūryaprabharājasūtram, được lưu giữ trong Buddhist Sanskrit Texts No. 17, Mahāyāna-sūtra-saṁgrahaḥ (part 1)[1]; bản Sanskrit này cũng được tìm thấy ở trong Gilgit Manuscript do Dutta và Nalinaksa biên tập[2].

Bản Sanskrit thứ 2 của kinh Dược Sư, nhan đề là Bhaiṣajyagrurvaiḍūryaprabhātathāgata-sūtra, trong bản này pha tạp nhiều thổ ngữ sogdian, thường được gọi là tiếng Xôcđiana, được sử dụng bởi người Iran, và một bận phận người Xôcđiana ở Trung á; bản này do Benveniste biên tập, xuất bản lần đầu năm 1940[3], có tham khảo tư liệu của David A. Utz[4].

Bản dịch tương đương bằng tiếng Tây Tạng của kinh Dược sư, tựa đề là: འཕགས་པ་བཅོམ་ལྡན་འདས་སྨན་གྱི་བླ་བེེ་ཌཱུརྱའི་འོད་ཀྱི་སྔོན་གྱི་སྨོན་ལམ་གྱི་ཁྱད་པར་རྒྱས་པ་ཞེས་བྱ་བ་ཐེག་པ་ཆེན་པོའི་མདོ Ḥphags-pa bcom-ldan-ḥdas sman-gyi bla-bai-ḍūryaḥi ḥod-kyi sṅon-gyi smon-lam-gyi khyad-par rgyas-pa shes-bya-ba theg-pa chen-poḥi mdo: Thánh Bạc-già-phạm Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Bổn Nguyện Sai Biệt Quảng Đại Đại Thừa Kinh (聖薄伽梵藥師毗琉璃光本願差別廣大大乘經), được lưu trữ trong Đại Tạng Kinh Tây Tạng, thông trật đệ 87Da, No.504, trang 274a1-283b7[5]. Được dịch bởi dịch sư Tây Tạng: Ye-śes sde  và  các dịch sư Ấn độ: Jinamitra, Dānasīla, và Śīlendrabodhi. Căn cứ theo đề kinh trong bản dịch Tây Tạng, có thể khôi phục đề kinh Sanskrit như sau: ‘Ārya-bhagavato bhaiṣajyaguruvaiḍūryaprabhasya pūrvapraṇidhānaviśeṣavistāra-nāma-mahāyānasūtra’.

Hán văn của Kinh Dược Sư, hiện còn bảo tồn trong Taishō Tripiṭaka (Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh), hiện có bốn bản dịch:

- Taisho14, số hiệu 449: Phật thuyết Dược Sư Như Lai Bổn Nguyện kinh 佛說藥師如來本願經, đời Tuỳ, ngài Dharmagupta (Đạt-ma Cấp-đa) dịch năm 615 Tây lịch[6].

-Taisho 14, số hiệu 450: Phật thuyết Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Bổn Nguyện Công Đức kinh藥師琉璃光如來本願功德經, Đại Đường, Huyền Trang dịch năm 650 Tây lịch[7].

- Taisho 14, số hiệu 451: Dược Sư Lưu Ly Quang Thất Phật Bổn Nguyện Công Đức kinh 藥師琉璃光七佛本願功德經, 2 quyển, Đại Đường, Nghĩa Tịnh dịch vào năm 707, tại nội tự Phật Quang[8].

-Taisho 21, số hiệu 1331: Phật thuyết Quán Đảnh Bạt Trừ Quá Tội Sanh Tử Đắc Độ Kinh quyển đệ thập nhị 佛說灌頂拔除過罪 生死得度經卷第十 二 , Đông Tấn, Thiên Trúc Tam Tạng Bạch-thi-lê-mật-đa-la dịch, tức quyển thứ 12 của Phật thuyết Quán Đảnh kinh 佛說灌頂經.[9]

Kinh Dược Sư, cũng được dịch qua tiếng Anh và tiếng Pháp. Có thể thấy các bản dịch tiếng Anh như sau:

- Liebenthal, Walter dịch từ bản Hán của Huyền Trang (T14n0450), tựa đề: The Sutra of the Lord of Healing (Bhaishajyaguru Vaiduryaprabha Tathagata): Kinh Chúa tể chữa lành vết thương[10].

- Sen, S. dịch tựa đề: Two medical texts in Chinese translations, Hai văn bản Dược Sư Trong các bản dịch Trung Quốc[11].

- Birnbaum, Raoul, nhan đề: The Lapis Lazuli Radiance Buddha, Master of Healing: A Study in Iconography and Meaning, Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Phật, Vị Thầy Chữa Bệnh: Một nghiên cứu mô tả bằng tranh vẽ và ý nghĩa. Luận án Ph.D. (tiến sĩ) của Columbia University (New York), 1976. Trong luận án đó dịch đầy đủ các bản T14n0450, T14n0451, T20n1161 và Tự phần của T14n0449 sau đó được xuất bản với tựa đề Birnbaum, Raoul:The Healing Buddha, Shambala, 1979. (Luận văn này cũng được dịch sang tiếng Đức: Birnbaum, Raoul: Der heilende Buddha - Heilung und Selbstheilung im Buddhismus. Bern/München/Wien: Otto Wilhelm Barth, 1982.)

- Hsing Yun, tựa đề: The Sutra of the Medicine Buddha with an Introduction, Comments and Prayers, Kinh đức Phật Dược Sư, giới thiệu, chú giảicầu nguyện[12].

- Bản dịch tiếp theo được hiệu đính bởi Shen Shou-Liang, dịch bởi các vị: Chow Su-Chia, v.v.. tựa đề: The Sutra of the Master of Healing.

-Bản dịch được chú ý hơn hết, vì dịch từ nguyên bản Sanskrit, là bản dịch của Dutt, Nalinaksha (ed.), tồn trữ trong Gilgit Manuscripts. Vol. I.[13]

Ngoài ra hiện tìm thấy một bản dịch tiếng Pháp có thể là duy nhất và sớm nhất của Kinh Dược Sư, tựa đề: Le Bhaiṣajyaguru, dịch bởi Pelliot, Paul[14].


3/ Bản nguyện Dược Sư

a/Xuất xứ đại nguyện

Phật Dược Sư được giới thiệumô tả trong kinh Bhaiṣajyagrurvaiḍūryaprabhātathāgata, mà chúng ta có thể đọc được nguyên bản Sanskrit hiện còn đầy đủ, hay đọc qua bản Hán dịch của Huyền Trang, thường được gọi là Kinh Dược Sư. Khi ngài còn là một vị Bồ-tát, đã phát lập 12 đại nguyện.

Khi ngài chứng nghiệm sự cao tuyệt của giác ngộ viên mãn, ngài đã trở thành đức Phật thượng thủ của tịnh độ đông phương, với thể tínhVaiḍūryanirbhāsa”: “Sáng trong không váy bẩn như ngọc lưu ly”[15]. Tại quốc độ đó, ngài có hai vị Bồ-tát ‘chỉ còn bị trói buộc bởi một lần tái sinh’ (Nhất sinh sở hệ= Nhất sinh bổ xứ), tượng trưng cho ánh sáng của mặt trời và ánh sáng của mặt trăng:

Một là, Bồ-tát Suryaprabha: Sự soi chiếu cùng khắp như ánh sáng của mặt trời, Hán dịch là Nhật Quang Biến Chiếu.

Hai là, Bồ-tát Candraprabha: Sự soi chiếu cùng khắp như ánh sáng của mặt trăng, Hán dịch là Nguyệt Quang Biến Chiếu.

Thủ bản Sanskrit của kinh Bhaiṣajyagrurvaiḍūryaprabhātathāgata đã được phát hiện, là một trong những văn bản chứng thực sự phổ biến của tín ngưỡng Phật Dược Sư tại vùng tây bắc Ấn Độ, mà xưa kia là Gandhāra[16]. Thủ bản này, được xác định niên đại hình thành vào khoảng trước thế kỷ thứ VII Tây lịch, và được viết trên các trụ đá Gupta[17].

Huyền Trang, một nhà hành giảchiêm báivô tiền khoáng hậu” của Phật giáo Trung Quốc, đã đến thăm một tu viện thuộc hệ phái Mahāsāṃghika (Đại chúng bộ) tại Bamiyan, Afghanistan, vào khoảng thế kỷ thứ 7, hiện nay vị trí chính xác của tu viện này đã được phát hiển bởi nhà khảo cổ học[18]. Nhiều thủ bản kinh điển Đại thừa được viết trên các đoạn phiến trên vỏ cây bu-lô (Birchbark) đã được phát hiện tại khu vực này, bao gồm cả thủ bản Sanskrit của kinh Dược Sư: Bhaiṣajyagrurvaiḍūryaprabhātathāgata-sūtra (MS 2385)[19].

b/Toát yếu 12 lời nguyện theo bản Sanskrit

1.Chiếu sáng vô số quốc độ với sự rạng ngời của ngài, và nhiếp hộ cho bất cứ ai muốn trở thành một vị Phật giống như ngài.

2. Đánh thức tâm trí của chúng sinh thông qua ánh sáng như ngọc lưu ly của ngài.

3. Cung cấp cho chúng sanh bất cứ phẩm vật gì mà họ cần phải có.

4. Chỉ rõ và chuyển hoá những quan điểm sai lầm, hay nhận thức chủ quan và khơi nguồn cảm hứng cho chúng sinh về chí hướng khởi hành trên con đường Bồ-tát.

5. Hướng dẫn dìu dắt chúng sinh làm theo các điều khoản phẩm cách đạo đức, thậm chí nếu họ đã huỷ phạm trước đó.

6. Chữa lành cho những chúng sinh đã sinh ra mà bị dị tật, bệnh hoạn, hoặc những khổ đau khác về thể xác.

7. Xoa dịu, an ủi vỗ về những người khốn khổ, những người bị bệnh tật phủ vây.

8. Giúp đỡ những người phụ nữ có ước muốn được chuyển sinh làm đàn ông, để họ đạt được sự chuyển sinh như mong muốn.

9. Chữa lành những phiền não nhiễm ô, các ảo tưởng, hay những ‘tri giác bị lộn ngược’.

10. Giúp đỡ những người bị áp bức được tự do, thoát khỏi đau khổ.

11. Làm giảm thiểu những người bị nạn đói khủng khiếp và những cơn khát cháy bỏng.

12. Hỗ trợ y phục cho những người nghèo hèn túng khổ, bị lạnh buốt và muỗi mòng cắn đốt.


c/ Dharani và Mantra

Trong kinh Bhaiṣajyagrurvaiḍūryaprabhātathāgata, đức Phật Dược Sư, được mô tả là thể nghiệm vào trạng thái thiền định gọi là "loại trừ tất cả những đau khổphiền não của chúng sinh." Từ trạng thái thiền định này, ngài công bố dharani:

Nguyên văn Sanskrit:

namo bhagavate bhaiṣajyaguru vaiḍūryaprabharājāya

tathāgatāya arahate samyaksambuddhāya tadyathā:

oṃ bhaiṣajye bhaiṣajye bhaiṣajya-samudgate svāhā”[20].

Dịch:

“Kính lễ Đức Thế Tôn DƯỢC SƯ LƯU LY QUANG VƯƠNG Như Lai, bậc A-la-hán, bậc trực tiếp giác ngộ viên mãn đích thực - Như vậy liền nói chú rằng:

Xin Ngài hãy ban cho con thuốc phòng ngừa bệnh tật, thuốc chữa lành vết thương, thuốc diệt trừ mọi thương tật, và thuốc để cho con mau chóng phát sinh được đạo quả Bồ-đề cao tuyệt.”

Dòng cuối cùng của Dharani này: “oṃ bhaiṣajye bhaiṣajye bhaiṣajya-samudgate svāhā”, mới đích thực là thần chú của đức Phật Dược Sư, còn lại các câu ở trên chỉ là phần xưng tán đức Dược Sư chứ không phải thần chú.

Ngoài ra, còn có một số thần chú khác thuộc về đức Phật Dược Sư được sử dụng trong các hệ phái Mật tôngPhật giáo Kim Cương thừa.


d/ Bản nguyện biểu hiện qua hình tượng

Phật Dược Sư thường được miêu tả trong tư thế ngồi kiết già, khoát ba y của tu sĩ Phật giáo, tay trái cầm một bình lưu ly chứa thuốc cam lồ (bất tử) và bàn tay phải đặt trên đầu gối phải; hoặc có khi tay giữ cuống quả Aruna hoặc Myrobalan giữa ngón tay cái và ngón trỏ.

Trong kinh, ngài cũng được miêu tả có ánh sáng chiếu soi giống như ánh sáng của ngọc lưu ly. Trong miêu tả theo truyền thống Trung Quốc, ngài có một ngôi tháp, tượng trưng cho mười ngàn vị Phật của ba thời kỳ.

Hình tượng của ngài cũng được khắc trên đá, cùng với hai vị Bồ-tát Suryaprabha và Candraprabha, và có khắc thêm bảy vị Phật Dược Sư khác ở bên trong vòng hào quang của ngài. Bức tranh khắc trên đá này, có niên đại được xác định vào thời Bắc Ngụy, khoảng năm 500 Tây lịch, hiện bia đá đặt tại Bảo tàng nghệ thuật Metropolitan.

4. Tiểu kết

Trong Phật giáo nói chung, và Phật giáoTây Tạng nói riêng, việc hành trì phương pháp phát triển theo đức Phật Dược Sư, đấng chúa tể chữa lành mọi vết thương, không chỉ là một phương pháp rất mạnh mẽ để chữa lành bệnh tật và tăng cường phòng bệnh cho cả bản thân và những người khác, mà còn điều phục những căn bệnh trầm kha, trong sự trói buộc của phiền não, hận thù, sự thấp kém, sự đê tiện và thiếu hiểu biết. Do đó, sự chiêm nghiệmhành trì theo đức Phật Dược Sư có thể giúp giảm thiểu bệnh tật về thể xác và khổ đau về tinh thần.

Câu thần chú đức Phật Dược Sư, có mãnh lực là vô cùng cho việc chữa lành bệnh thể chất và nhổ sạch các tập nghiệp xấu ác. Một hình thức thực hành theo đức Phật Dược Sư được thực hiện khi bị những bệnh tật phủ vây, đó là bệnh nhân trì tụng chú này 108 lần vào một ly nước tinh sạch. Ngữ âm của thần chú sẽ là công cụ hướng dẫn chúng ta vượt qua những giai đoạn hiểm nghèo của cuộc đời, là phương thuốc chữa lành mọi bệnh tật, ta có thể xem nó như thần chú thật với đầy phép lạ cũng được, hoặc coi nó không phải thần chú, cũng không có phép lạ gì hết cũng chẳng sao, quan trọng là tụng đọc nó bằng tất cả tâm tư, đọc như nước chảy mây trôi, để rồi mọi sự sẽ vận hành một cách đều đặn, mọi sự trôi đi một cách an toàn, như cây trôi giữa dòng không bị dính mắc đúng như cái lẽ huyền vi của sự sống:  “Gate, gate…..”.


Đồi Tiêu Dao, Am Tâm Không,

PL.2560. Chiều gió lộng, 30.9. Nhâm Thân.

Ngày vía đức Dược Sư, vị chữa lành vết thương cho nhân loại.

Phước Nguyên



[1] Vaidya, Dr. P.L ed., Darbhanga: The Mithila Institute, 1961;

[2] Dutta, Nalinaksa ed., Gilgit Manuscript, Vol I. Delhi : Sri Satguru Publication, 1984, 1-32.

[3] Benveniste, Texts sogdiens, Mission Pelliot en Asie centrale: Série in-Quarto, 3. Paris, 1940, 82-92

[4] David A. Utz, A Survey of Buddhist Sogdian Studies (Bibliographia Philologica Buddhica Series Minor III), Tokyo: The reiyukai Library 1980.

[5] Cf. Trong các bộ ĐTK.TT., Peking: Rgyud (da)255b- 263a; Nại-đường bản: Rgyud (tha)470a- 484a; Dege bản:Rgyud- ḥbum (da) 274a-283b; Lasa bản:Rgyud (ta)419a- 433b; Trác-ni bản:Rgyad (da)304a- 315b

[6] T14n0449, tr. 401b04: 佛說藥師如來本願經隋天竺三藏達摩笈多譯.

[7] T14n0450, tr. 0404c15: 藥師琉璃光如來本願功德經 大唐、三藏法師玄奘奉 詔譯.

[8] T14n0451, tr. 0409a08: 藥師琉璃光七佛本願功德經, 大唐三藏沙門義淨於佛光內寺譯.

[9] T21n1331_012, tr. 0532b11: 佛說灌頂經 第12卷, 佛說灌頂拔除過罪生死得度經卷第十二 , 東晉天竺三藏帛尸梨蜜多羅譯.

[10] Peking: The Society of Chinese Buddhists, Nien Hua Szŭ (Sales Agent: The French Bookstore), 1936.

[11] Visva-Bharati Annals no.1 (1945), 70-95.

[12] Buddha’s Light Publishing, 2002. 192 pgs.

[13] Srinagar-Kashmir: 1939. 51-57.

[14] Bulletin de l'École Francaise d'Extrême-Orient. 3 (1903), 33-37.

[15] Birnbaum, Raoul (2003). The Healing Buddha. p. 64.

[16] Bakshi, S.R. Kashmir: History and People. 1998. p. 194

[17] ibid., p.194.

[18] "Schøyen Collection: Buddhism". Retrieved 23 June 2012.

[19] "Schøyen Collection: Buddhism". Retrieved 23 June 2012.

[20] Dutta, Nalinaksa ed., Gilgit Manuscript,Vol I. Delhi : Sri Satguru Publication, 1984, 1-32.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 5167)
Buông xả là một sự thực tập quan trọng trong cuộc sống hằng ngày, cũng như con đường giải thoát của chúng ta.
(Xem: 2659)
Giá trị của tâm là sự thương yêuchân thực. Nếu một người mà tâm luôn tràn ngập tình thương đối với mọi người,
(Xem: 6125)
Cuộc sống hiện đại đưa đến nhiều vấn đề làm cho chúng ta phiền tâm mệt trí, thân tâm đều nặng nề.
(Xem: 3038)
Tầm quan trọng của một người là tính sáng tạo của tâm thức. Khi chúng ta đối xử với nhau như những người anh chị em, thì nó sẽ làm cho chúng ta hạnh phúc.
(Xem: 3091)
Nếu tỉnh thức, bạn có thể tự đặt mọi câu hỏi. Năng lực của trí tuệ sẽ giúp bạn tìm thấy câu trả lời cho mọi vấn đề mình đang gặp mỗi ngày.
(Xem: 3296)
Từ xưa đến nay tình ái luôn là thứ dễ làm con người mù quángsi mê.
(Xem: 3225)
Người sống được một-trăm-năm mà không hiểu-rõ cuộc-đời là vô-thường và sinh-diệt.
(Xem: 3295)
Thịnh suy nào cũng không quan trọng bằng nội tâm ta có dính mắc hay không, vì dính mắc đó là nguồn gốc luân hồi.
(Xem: 4543)
Hạnh phúc là khát vọng của nhân loại muôn đời, một trong “tiêu chí” có tính phổ quát nhất vượt hết thảy các gián cách về văn hóa, dân tộc và biên giới không gianthời gian.
(Xem: 2720)
Phân hóa là một hiện tượng tất yếu trong cuộc sống. Phân hóa để tăng trưởng, phân hóa để phát triển, phân hóa để hủy diệt, phân hóa để biến thái…
(Xem: 5201)
Theo truyền thống sách vở, hình như gắn liền với Thiền là trà, chớ không phải cà phê.
(Xem: 3841)
Cuộc sống trôi nhanh về phía cái chết, như điệu nhảy của vũ công, tia chớp trên bầu trời, hay dòng thác đổ
(Xem: 3831)
Bốn chân líchân lí về khổ, về nguồn gốc, về diệt tận và về đạo lộ.
(Xem: 3198)
Bài này trích dịch từ Quý San năm 2019 có chủ đề “Buddhadharma: The Practitioner’s Quarterly,” đăng ngày 14 tháng 5 năm 2019 trên trang mạng Lion’s Roar.
(Xem: 4120)
Ngày xưa Đức Phật trong suốt 45 năm giáo hóa tại khu vực rộng lớn dọc theo hai bên bờ Sông Hằng ngài chỉ sử dụng mỗi một phương tiện duy nhất là đi bộ.
(Xem: 5034)
Thế giớichúng ta đang sống là thế giới của dục vọng. Mọi chúng sanh được sinh ra và tồn tại như là một sự kết hợp của những dục vọng.
(Xem: 3510)
Tất nhiên đã làm người thì phải chịu khổ đau nhiều hay ít tùy thuộc vào trạng thái tâm lý, sự cảm thọnhận thức của mỗi người.
(Xem: 6734)
Trong cuộc đời mỗi người ai cũng có một dòng tộc huyết thống, người đời thì có huyết thống gia đình, người xuất gia thì có huyết thống tâm linh.
(Xem: 3950)
Trong kinh Phật dạy, “cái khổ lớn nhất của con người không phải do thiếu ăn, thiếu mặc, làm con trâu, con bò, kéo cày, kéo xe, chưa chắc là khổ;
(Xem: 3217)
Nói “thời chiến” nơi đây là nói về thời Đệ Nhị Thế Chiến. Có một phần chưa được khảo sát tận tường, chưa được biết rộng rãi trong lịch sử Đạo Phật tại Hoa Kỳ: đó là một thời chiến tranh trong thế kỷ 20
(Xem: 3088)
Con người luôn luôn bị cái tôi và cái của tôi thống trị, do đó đời sống của nó bị giới hạnđè nặng bởi cái tôi và cái của tôi.
(Xem: 2953)
Bà La Môn Giáo là một Đạo giáoxuất xứ từ Ấn Độ và Đạo nầy đã tồn tại ở đó cho đến ngày nay cũng đã trên dưới 5.000 năm lịch sử.
(Xem: 5845)
Tưởng tri, thức tri và tuệ tri được đức Phật chỉ ra nhằm mục đích phân biệt rõ các cấp độ nhận thức về sự vật hiện tượng.
(Xem: 4616)
Đức Phật không phải là một nhà chính trị theo nghĩa cổ điển, càng không phải là một nhà cách mạng hiểu theo phong cách của chữ nghĩa hôm nay.
(Xem: 3482)
Cái gì chưa biết, gặp lần đầu thấy cũng lạ. Cái gì chưa học, gặp lần đầu thấy cũng lạ. Cái gì chưa biết nói, học nói lần đầu thấy cũng lạ...
(Xem: 2892)
Cuộc sống, nhìn quanh đâu cũng thấy Thật. Bạo động cũng có thật, giả dối cũng là thật, tham dục cũng hiện hữu thật,sợ hải cũng có thậ ….
(Xem: 3303)
Thời nào cũng vậy, xã hội luôn có những biến đổi và khủng hoảng, chính sự đổi thay giúp điều mới mẻ ra đời hoặc phải diệt vong, như một hệ quả duyên khởi.
(Xem: 4416)
Tại Việt Nam, đại đa số các Chùa Bắc Tông đều có Tổ đường để phụng thờ chư liệt vị Tổ sư, Tổ khai sơn ngôi chùa đó và chư hiền Thánh Tăng.
(Xem: 5710)
Phật cũng nhắn nhủ: “Quý vị phải thực tập làm hải đảo tự thân, biết nương tựa nơi chính mình mà đừng nương tựa vào một kẻ nào khác.
(Xem: 6621)
Ở cấp độ đầu tiên của tu tập, trong bản chất con người, việc dâm dục sẽ bắt nguồn cho việc luân hồi (saṃsāric),
(Xem: 3691)
Ngài Huệ Khả xin Sơ Tổ Thiền Tông Bồ Đề Đạt Ma dạy pháp an tâm. Tích này có thể nhìn từ Kinh Tạng Pali ra sao?
(Xem: 4524)
Phật Giáo - Một Bậc Đạo Sư, Nhiều Truyền Thống - Đức Đạt Lai Lạc Ma đời thứ 14, Ni sư Thubten Chodren
(Xem: 4597)
Nhận thức luận trongTriết học cổ điển Ấn-độ và trongTriết học Phật giáo - Gs Nguyễn Vĩnh Thượng
(Xem: 3956)
Kinh Phật dạy có nhiều cách giải nghiệp. Sau đây là trích dịch một số kinh liên hệ tới nghiệp và giải nghiệp.
(Xem: 3387)
Hoàng đế A Dục chấp nhậnquốc giáo rồi đem vào Tích Lan và các nước lân cận, Phật giáo phát triển nhanh chóng ở Đông phươngcuối cùng trở thành tôn giáoảnh hưởng nhất trên thế giới.
(Xem: 4606)
Sự kiện cho kinh này, nói ngắn gọn, theo luận thư, là vì: thành phố Vesali bị nạn dịch, gây chết chóc, đặc biệt với người nghèo. Vì xác chết nằm la liệt, các vong hung dữ bắt đầu quậy phá thành phố...
(Xem: 6032)
Nhiều Phật tử tuy nói là tu theo Đại thừa nhưng thật ra rất ít người biết rõ tông chỉ của Đại thừa hoặc chỉ biết sơ sài, nên việc tu hành không đạt được kết quả.
(Xem: 5818)
Trong các kinh điển có nhiều định nghĩa khác nhau nhưng chữ Niết Bàn (Nirvana) không ngoài những nghĩa Viên tịch (hoàn toàn vắng lặng),
(Xem: 3622)
Nói đến giáo dục chính là xu hướng vươn lên của con người trong lý tính duyên sinh, nhằm đạt thành chân - thiện - mỹ cho cuộc sống chung cùng
(Xem: 4676)
Tinh túy của đạo Phật là: nếu có khả năng, ta nên giúp đỡ người khác; nếu không thể giúp họ, thì tối thiểu nên hạn chế việc gây hại cho họ.
(Xem: 4448)
àm thế nào để các lậu hoặc đoạn tận lập tức? Nghĩa là, không cần trải qua thời gian. Cũng không cần tu Tứ niệm xứ hay Tứ thiền bát định.
(Xem: 4515)
Các pháp không tự sinh Cũng không do cái khác sinh. Không do sự kết hợp cũng chẳng nhân nào sinh. Tất cả đều vô sinh.
(Xem: 4257)
Tới cuối kinh này, Đức Phật dạy về pháp Niết Bàn tức khắc, ngay trong hiện tại, giải thoát ngay ở đây và bây giờ.
(Xem: 4587)
Tôn giáo nào cũng có những nhà truyền giáo, phát nguyện rao giảng những điều mà họ tin là mang đến hạnh phúc cho nhân loại.
(Xem: 8189)
Ấn-độ là một bán đảo lớn ở phía Nam Châu Á. Phía Đông-Nam giáp với Ấn-độ dương (Indian Ocean), phía Tây-Nam giáp với biển Á-rập ( Arabian Sea).
(Xem: 3907)
Nguyên bản: The Inner Structure, Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D., Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 5715)
Thái tử Siddharta Gautama là người đầu tiên đã nghĩ rằng Ngài đã đạt được Giác ngộ. Ngài đã trở thành vị Phật lịch sử. Rồi Ngài đã đem những điều mình giác ngộgiáo hoá cho chúng sanh.
(Xem: 5184)
Căn Bản Hành Thiền - Bình Anson biên dịch 2018
(Xem: 6800)
Luận Duy thức tam thập tụng này được viết với mục đích khiến cho những ai có sự mê lầm ở trong nhân vô ngãpháp vô ngã mà phát sinh ...
(Xem: 6163)
Ba địa mỗi địa mười, Năm phiền não, năm kiến, Năm xúc, năm căn, pháp, Sáu: sáu thân tương ưng.
(Xem: 5980)
Bất cứ sắc gì thuộc quá khứ, vị lai, hiện tại;thuộc nội phần hay ngoại phần, thô hay tế, hạ liệt hay thắng diệu, xa hay gần, mà dồn chung lại, tổng hợp thành một khối. Gọi chung là sắc uẩn.
(Xem: 5791)
Kính lễ Nhất thiết trí, Vầng Phật nhật vô cấu, Lời sáng phá tâm ám Nơi nhân thiên, ác thú.
(Xem: 6272)
Trong cách nghĩ truyền thống, Tứ Thánh đế (Cattāri Ariyasaccāni) được xem là bài pháp đầu tiên khi Đức Phật chuyển pháp luân độ năm anh em Kiều-trần-như.
(Xem: 6772)
Suốt kinh Pháp hội Pháp giới Thể tánh Vô phân biệt, Bồ tát Văn-thù-sư-lợi là người thuyết pháp chính, Đức Phật chỉ ấn khả và thọ ký...
(Xem: 4953)
An cư” là từ không còn xa lạ đối với tín đồ Phật giáo; tuy nó không có nghĩa “an cư lạc nghiệp” của đạo Nho, nhưng khía cạnh nào đó, “lạc nghiệp” mang nghĩa...
(Xem: 5556)
Trung luận, còn gọi là Trung quán luận, bốn quyển, Bồ-tát Long Thọ trước tác kệ tụng, ngài Thanh Mục làm Thích luận, được dịch ra chữ Hán ...
(Xem: 6376)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào?
(Xem: 3776)
Trước tiên là về duyên khởi của Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Theo truyền thuyết, Kinh này được Phật giảng vào lúc cuối đời, được kết tập trong khoảng năm 200.
(Xem: 5399)
Phật và chúng sinh thật ra vẫn đồng một thể tánh chơn tâm, nhưng chư Phật đã hoàn toàn giác ngộ được thể tánh ấy.
(Xem: 10446)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant